PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Hán dịch:
Sa Môn Pháp Cự, Sa Môn Pháp Lập
Việt dịch: Thiện Thuận, Nguyên Tạng
*
Phẩm Mười Tám – Phẩm Thuật Thiên – Thí Dụ Ba Mươi Lăm
Thuở xưa, Đức Phật trú tại nước Xá Vệ. Trong nước có một vị Tỳ Kheo lớn tuổi tên là Bàn Đặc. Ông là người mới Xuất Gia, bẩm tính tối dạ.
Đức Phật sai năm trăm vị A La Hán hàng ngày dạy ông, thế mà trong ba năm ông vẫn học không xong một bài kệ. Mọi người trong nước ai cũng biết ông ngu muội.
Đức Phật thương xót, bèn gọi ông lại dạy cho một bài kệ:
Giữ miệng, thu nhiếp ý
Thân không phạm lỗi chi
Ai làm được như vậy
Sinh tử chẳng còn gì.
Bàn Đặc cảm Phật Ân từ, tâm hoan hỷ khai sáng, tụng thuộc bài kệ này.
Đức Phật bảo:
Ông tuổi đã lớn mới thuộc được một bài kệ mà thông thường ai cũng biết, nên chẳng có chi là kỳ đặc. Ta nay sẽ giảng giải cho ông nghe nghĩa lý của bài kệ này, hãy nhất tâm lắng nghe.
Bàn Đặc vâng lời nhất tâm nghe giảng. Đức Phật vì ông mà nói nguyên nhân mà ba nghiệp thân, khẩu, ý tạo nghiệp, thân có ba, miệng có bốn, ý có ba. Và khuyên ông hãy Quán Chiếu những nghiệp này, sinh khởi như thế nào, chấm dứt ra sao.
Chúng sinh trôi lăn không ngừng trong ngũ thú tam giới, do nó mà sinh Thiên, do nó mà đọa lạc, lại cũng nhờ nó mà đắc đạo quả, chứng Niết Bàn. Đức Phật vì Bàn Đặc giảng nói vô lượng diệu pháp. Bàn Đặc nghe nói hoát nhiên tâm trí Khai Ngộ, liền chứng quả A La Hán.
*
Lúc ấy có năm trăm vị Tỳ Kheo Ni ở Tinh Xá riêng. Đức Phật mỗi một ngày cử một vị Tỳ Kheo đến đó Giảng Kinh Thuyết Pháp. Hôm sau là đến phiên Bàn Đặc sang bên Ni Thuyết Pháp.
Ni chúng biết tin đều cười nhạo, khinh miệt nói với nhau:
Ngày mai hễ ông Bàn Đặc đến, chị em mình nói đón trước bài kệ đó cho ông ta nghe, khiến ông hổ thẹn câm miệng. Hôm sau, Bàn Đặc đến chỗ các Tỳ Kheo Ni. Các cô lớn nhỏ đều ra làm lễ, rồi ngó nhau cười khúc khích. Các cô mời Bàn Đặc ngồi rồi dọn đồ ra cúng dường. Thọ trai rửa tay xong, các cô lại thỉnh ông Thuyết Pháp.
Bàn Đặc lên tòa cao, hạ mình khiêm tốn nói:
Tôi là kẻ đức bạc tài sơ, chưa xứng làm bậc Sa Môn. Tánh tình lại vốn ám độn, không học hành chi nhiều, chỉ biết một bài kệ và hiểu sơ ý nghĩa của nó, nay sẽ vì các vị giải nói, xin hãy nhất tâm lắng nghe.
Các vị Tỳ Kheo Ni trẻ tuổi định nói đón trước bài kệ đó mà không sao mở miệng được. Tất cả đều kinh sợ tự trách, cúi đầu ăn năn.
Bàn Đặc liền như Phật đã dạy, giảng cặn kẻ về ba nghiệp thân, khẩu, ý gây tội phước ra sao, những pháp sinh Thiên, đắc đạo quả, ngưng thần, trừ vọng tưởng, nhập chánh định. Các Tỳ Kheo Ni nghe lời giảng vô cùng kinh ngạc, hoan hỷ nhất tâm lắng nghe, chứng được quả A La Hán.
*
Hôm sau, Vua Ba Tư Nặc thỉnh Đức Phật và Chư Tăng vào cung cúng dường. Đức Phật muốn hiển bày oai thần của Bàn Đặc nên giao bình bát cho ông cầm đi theo sau.
Người gác cổng biết mặt Bàn Đặc là người ngu tối nên chẳng cho vào, khinh thường bảo:
Ông là Sa Môn mà một bài kệ còn học không xong, nhận lời thỉnh vào cung làm gì?
Tôi là người đời còn thuộc Kinh, huống chi ông là Sa Môn lại không có trí tuệ.
Cúng dường cho ông thật là vô ích.
Thôi ông không cần vào cửa!
Lúc đó, Bàn Đặc đứng bên ngoài. Đức Phật ngồi trong cung rửa tay chân xong, Bàn Đặc liền cầm bát duỗi tay dài ra, đưa vào tận trong cung cho Đức Phật.
Vua và quần thần, phu nhân, Thái Tử chúng hội thấy có cánh tay mà không thấy người nên kinh ngạc hỏi Đức Phật:
Bạch Đức Thế Tôn, đây là tay ai?
Đức Phật đáp:
Đây là cánh tay của Tỳ Kheo Bàn Đặc gần đây mới đắc đạo. Ta lúc nãy giao cho ông ấy cầm bát, song người gác cửa lại chẳng cho vào, nên ông phải duỗi tay dài ra trao bát cho Ta. Vua nghe vậy liền cho mời Bàn Đặc vào. Lúc đó Bàn Đặc uy nghi rạng rỡ, thần thái khác thường.
*
Vua liền bạch Đức Phật:
Con nghe đồn Tỳ Kheo Bàn Đặc tâm tánh ngu ám, mới biết được một bài kệ, vậy do duyên gì mà đắc đạo?
Đức Phật nói với Vua:
Học không cần phải nhiều, chủ yếu là phải thực hành những gì đã học. Bàn Đặc hiểu nghĩa một bài kệ, thâm nhập nghĩa lý, thân khẩu ý vắng lặng thanh tịnh như vàng ròng cõi Trời.
Người học nhiều mà lại không hiểu nghĩa, không thực hành, chỉ uổng tâm nhọc trí nào có ích gì?
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Tuy tụng ngàn chương
Không hiểu đúng nghĩa
Chẳng bằng một nghĩa
Nghe rồi diệt ác.
Tuy tụng ngàn lời
Không hiểu ích gì?
Chẳng bằng một nghĩa
Nghe hành được độ.
Tuy tụng Kinh nhiều
Không hiểu ích gì?
Hiểu một câu pháp
Hành theo đắc đạo.
Đức Phật nói kệ xong, ba trăm vị Tỳ Kheo đắc quả A La Hán. Vua và Quần Thần, Phu Nhân, Thái Tử không ai là không hoan hỷ.
****
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Mười Tám – Phẩm Thuật Thiên – Thí Dụ Ba Mươi Sáu
Thuở xưa, Đức Phật trú tại Tinh Xá nước Xá Vệ, vì hàng Trời người Thuyết Pháp. Lúc ấy, trong nước có một vị Trưởng Giả Bà La Môn tên là Lam Đạt, giàu sang tột đỉnh, của cải trong nhà không biết bao nhiêu mà tính.
Ông thường theo pháp Bà La Môn làm một cái đàn cao cúng tế, để tỏ rõ danh tiếng của mình. Trút sạch gia tài mở hội đại bố thí, cúng dường cho hơn năm trăm ngàn vị Bà La Môn.
Trong vòng năm năm ông cung cấp các thứ y phục, giường chõng, thuốc men, cơm nước, của cải, báu vật và đồ đạt dành riêng cho miếu thờ theo ý thích đòi hỏi của các Bà La Môn.
Các vị ấy cũng vì Trưởng Giả mà tế tự Chư Thiên, các vị Thần núi, Thần sông, tinh tú, nước lửa không thiếu nơi nào trong vòng năm năm. Kỳ hạn năm năm cho Trưởng Giả mãi mãi hưởng phước sắp xong. Đến ngày cuối cùng có một cuộc bố thí lớn nhất đúng như pháp tắc của Trưởng Giả.
Bát vàng đựng thóc bạc, bát bạc đựng thóc vàng, voi ngựa xe cộ, nô tỳ, của cải, đồ phục sức bằng thất bảo, giày dép, lọng dù, áo da hươu, tích trượng, sàng ngồi, thau chậu rửa tay chân, giường chiếu… tất cả những thứ cần dùng có hơn tám muôn bốn ngàn món đều đem bố thí hết.
Ngày ấy, tất cả Bà La Môn đều đến đại hội. Quỷ Thần, Quốc Vương, Đại Thần, quý tộc Bà La Môn hàng hàng lớp lớp không ai là không hân hoan.
*
Đức Phật thấy việc đó than:
Ông quý tộc Bà La Môn này sao lại quá ngu si.
Bố thí quá nhiều mà phước báo chẳng bao nhiêu, như gieo hạt giống vào lửa thì làm sao có được hoa trái?
Nếu Ta không giáo hóa, ông ấy sẽ mãi mãi rời xa chánh đạo. Đức Phật bèn chấn chỉnh pháp phục đến đó, phóng ra hào quang tỏa chiếu khắp chúng hội. Ai thấy cũng cho là việc chưa từng có, kinh sợ không biết là vị thần nào. Trưởng Giả Lam Đạt và đại chúng vội đảnh lễ Phật sát đất.
Đức Phật thấy mọi người đều có tâm cung kính nên nói kệ:
Tháng bỏ ngàn vàng
Suốt đời tế tự
Không bằng khoảnh khắc
Nhất tâm niệm pháp.
Phước báo một niệm
Hơn cúng suốt đời.
Dầu suốt cả trăm năm
Phụng thờ Thần lửa
Không bằng phút giây
Cúng dường Tam Bảo.
Phước một lần cúng
Hơn thờ trăm năm.
Bấy giờ Đức Phật nói với Trưởng Giả Lam Đạt:
Bố thí có bốn việc.
Thế nào là bốn?
1. Cúng thí nhiều được phước báo ít.
2. Cúng thí ít được phước báo nhiều.
3. Cúng thí nhiều được phước báo nhiều.
4. Cúng thí ít được phước báo cũng ít.
*
Sao là cúng thí nhiều được phước báo ít?
Đây là chỉ người ngu si sát sinh để tế tự, uống rượu ca vũ tốn hao của cải, không có phước tuệ.
Sao cúng thí ít được phước báo cũng ít?
Đây là người vì keo kiệt ác ý mà cúng thí các Đạo Sĩ phàm tục, cả hai bên đều ngu si nên không có phước.
Sao gọi là cúng thí ít mà được phước báo nhiều?
Đây là do lòng từ mà cúng thí cho bậc Tu Sĩ Đạo Đức, thọ thực xong các vị ấy tinh tấn tu học. Cúng thí như vậy tuy ít mà phước báo to lớn.
Sao gọi là cúng thí nhiều được phước báo nhiều?
Nếu có Bậc Hiền giả giác ngộ cuộc đời vô thường, hảo tâm đem tiền của xây dựng Chùa Tháp, Tinh Xá, vườn cây, cúng dường Tam Tôn đầy đủ tứ sự, phước báo này như nước năm sông chảy vào biển cả.
Phước đức dồi dào đời đời không cùng tận. Đây chính là cúng thí nhiều phước báo càng nhiều. Thí như nhà nông làm ruộng, tùy ruộng đất màu mỡ hay cằn cỗi mà thu hoạch khác nhau.
Lúc ấy Trưởng Giả Lam Đạt và chúng hội thấy sức thần biến hóa của Phật nghe giảng pháp đều vô cùng hoan hỷ. Chư Thiên, Quỷ Thần đều đắc đạo Tu Đà Hoàn. Năm ngàn vị Bà La Môn xin Xuất Gia làm Sa Môn, sau đó đắc quả A La Hán.
Trưởng Giả Lam Đạt và gia đình lớn nhỏ đều thọ năm giới, thấy được dấu đạo. Quốc Vương, Đại Thần đều thọ Tam Quy Y, làm Ưu Bà Tắc, đắc được pháp nhãn.
****
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Mười Tám – Phẩm Thuật Thiên – Thí Dụ Ba Mươi Bảy
Thuở xưa, Đức Phật Giáo hóa ở Tinh Xá nước Xá Vệ. Lúc ấy, trong thành La Duyệt Kỳ có một người ngu si hung bạo, bất hiếu với cha mẹ, khinh khi người lương thiện, không kính bậc Tôn Trưởng. Ông ấy làm ăn thất bại, không được như ý nên thờ phụng lửa để cầu ban phước.
Pháp tắc thờ lửa, mỗi ngày khi Mặt Trời sắp lặn phải thắp lên một đống lửa lớn rồi hướng về đó mà quỳ lạy, đến nửa đêm lửa tắt mới thôi.
Người ấy thờ như vậy ba năm mà không được phước, bèn chuyển qua thờ Mặt Trời, Mặt Trăng. Pháp tắc thờ là ban ngày khi Mặt Trời mới mọc, ban đêm khi Mặt Trăng vừa lên thì hướng về đó mà lễ lạy đến chừng nào lặn mới thôi.
Người ấy thực hành như vậy ba năm mà vẫn không được phước bèn chuyển qua thờ Trời, đốt hương quỳ lạy, dâng lên hương hoa, rượu thịt, trâu bò heo dê tươi ngon cho đến khi nghèo túng mà vẫn không được phước báo.
Người ấy vì thế thân thể tiều tụy, bệnh hoạn ra cửa không nổi. Một hôm ông nghe được ở nước Xá Vệ có Đức Phật là bậc Chư Thiên tôn kính, nên định đến đó phụng sự, mong được phước báo. Ông liền cố gắng qua nước Xá Vệ tìm đến chỗ Phật.
*
Tới trước cửa Phật khi nhìn thấy tôn dung uy nghiêm của Đức Phật hào quang rực rỡ như trăng sáng nổi bật giữa muôn sao, người ấy tâm sinh hoan hỷ, quỳ xuống đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi chắp tay thưa:
Con sinh ra và lớn lên trong ngu muội, không biết gì đến Phật, Pháp, Tăng, chỉ lo thờ lửa, Mặt Trời, Mặt Trăng và các Thiên Thần. Chín năm cần khổ ròng rã không được chút phước nào, mà thân thể con lại tiều tụy, khí lực suy vi, bốn đại nhiều bệnh không biết sẽ chết ngày nào.
Nay con biết được Đức Thế Tôn là bậc Thầy cứu độ chúng sinh, nên từ xa lại đây Quy Y, xin ban cho ân phước.
Đức Phật nói với ông:
Ông thờ phụng trước giờ toàn là yêu tà, quỷ mị. Cúng tế cầu đảo với những hạng ấy nhiều như núi thì tội lỗi cũng đầy ắp như sông biển.
Sát sinh để cầu phước thì cách phước rất xa. Nếu ông trăm kiếp cần khổ sát sinh, đem tất cả bò dê trong thiên hạ ra tế tự cầu đảo, thì sẽ mang tội lớn như núi Tu Di mà phước chỉ nhỏ bằng hạt cải.
Thật phí công phí của vô ích, há chẳng lầm lẫn lắm sao?
Lại nữa, ông là người bất hiếu với cha mẹ, khinh khi người hiền, chẳng kính Tôn Trưởng, kiêu mạn cống cao, tam độc đầy dẫy, tội nghiệp ngày một sâu, do đâu mà được phước?
*
Nếu ông có thể cải đổi tâm tánh, kính lễ Bậc Hiền, oai nghi lễ phép cung phụng bậc Trưởng Lão, bỏ ác làm lành, tu sửa bản thân, trải lòng từ bi thì bốn phước mỗi ngày một tăng, đời đời không gặp họa hoạn.
Bốn phước đó là gì?
1. Nhan sắc đoan chánh.
2. Khí lực mạnh mẽ.
3. An ổn không bệnh.
4. Trường thọ, không bị chết oan.
Nếu ông tinh tấn theo những hạnh trên, không chút giải đãi thì có thể đắc đạo.
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Tế thần để cầu phước
Xét quả báo về sau
So kính lễ Bậc Hiền
Bốn phần không được một.
Biết lễ độ khiêm cung
Thường kính bậc Trưởng Lão
Bốn phước tự nhiên tăng
Sắc, lực, thọ, an ổn.
Người đó nghe kệ xong hoan hỷ tin hiểu, đảnh lễ Phật rồi lại thưa:
Con vì tội cấu che ngăn đã gây ra tội lỗi trong suốt chín năm. Nay may nhờ lòng từ khai thị mới được thông hiểu. Xin Đức Thế Tôn cho con được Xuất Gia làm Sa Môn.
Đức Phật bảo:
Lành thay!
Hãy lại đây Tỳ Kheo!
Vị ấy râu tóc tự rụng, thành bậc Sa Môn. Sau đó, tinh cần quán niệm hơi thở, vị ấy chứng quả A La Hán.
(Kinh Pháp Cú Thí Dụ – Hết Phẩm Mười Tám)
vu viết
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Mười Chín – Phẩm Ác Hạnh – Thí Dụ Ba Mươi Chín
Phẩm này không đúng, bị lặp nhé ad.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm đã sửa lại, cảm ơn bạn!