PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Hán dịch:
Sa Môn Pháp Cự, Sa Môn Pháp Lập
Việt dịch: Thiện Thuận, Nguyên Tạng
*
Phẩm Ba Mươi Tư- Phẩm Ái Dục – Thí Dụ Sáu Mươi
*
Thuở xưa, Đức Phật trú tại Tinh Xá trên núi Kỳ Xà Quật tại thành La Duyệt Kỳ, vì Trời, Người, Quỷ, Thần chuyển đại pháp luân.
Lúc ấy, có một người bỏ nhà cửa, vợ con đến chỗ Đức Phật đảnh lễ xin làm Sa Môn. Đức Phật hứa khả. Xuất Gia xong, Đức Phật dạy ông ngồi dưới một cội cây, thiền quán Chánh Pháp.
Vị Tỳ Kheo vâng lời vào trong rừng sâu cách Tinh Xá hơn trăm dặm, ngồi một mình dưới một gốc cây Thiền tư suốt ba năm. Xong tâm ông không kiến cố, có ý muốn trở về.
Ông tự nghĩ:
Mình bỏ nhà học đạo cực khổ, chi bằng sớm trở về nhà ở với vợ con. Nghĩ xong, ông bèn đi ra khỏi núi. Đức Phật với Thiên nhãn trông thấy việc này. Ngài xét thấy ông này đáng lẽ đắc đạo mà ngu si không biết lại muốn trở về nhà. Ngài liền hóa thành một vị Sa Môn, đi ngược lại gặp mặt vị đó.
Ngài hỏi:
Ông từ đâu ra đây?
Chỗ này có đất bằng phẳng, chúng ta nên nghỉ ngơi cùng nhau trò chuyện. Bấy giờ hai người cùng ngồi nghỉ ngơi trò chuyện.
*
Vị Tỳ Kheo bảo với Hóa Nhân:
Tôi bỏ nhà cửa vợ con, Xuất Gia tu học trong núi sâu này nhưng không đắc đạo. Xa cách vợ con mà không đạt thành chí nguyện, luống mất mệnh vận cuộc đời, cực khổ vô ích.
Nay tôi hối hận muốn trở về với vợ con, hưởng nhàn vui trước đã, rồi sau mới tính. Một lát sau, họ thấy một con khỉ già từ lâu đã lánh xa rừng cây ra sống giữa khoảng đất trống.
Hóa Sa Môn hỏi Tỳ Kheo:
Con khỉ này vì sao sống một mình nơi khoảng đất trống.
Sao nó lại thích nơi không có cây cối?
Vị Tỳ Kheo đáp:
Tôi đã từ lâu để ý thấy nó vì hai việc nên đến chỗ này.
1. Nó vì vợ con bầy đàn đông đúc không thể ăn uống đầy đủ, thỏa ý.
2. Ngày đêm nó phải leo trèo, gót chân thường xuyên bị thương khó chịu.
Do hai việc này nên nó bỏ rừng cây, ra đất trống sống.
Hai người nói chuyện, một lát sau lại thấy con khỉ này trở lại rừng cây, leo lên ngọn.
Hóa Sa Môn hỏi:
Ông có thấy con khỉ trở lại rừng cây không?
Đáp:
Có thấy, con khỉ này ngu si, đã xa lìa được rừng cây, bầy đàn quấy nhiễu, vậy mà nó không biết nhàm chán phiền nhọc còn trở lại nơi đó lần nữa.
Hóa Sa Môn nói:
Ông cũng như vậy, cùng nó khác gì?
Ông vốn vì hai việc mà vào núi tu học.
1. Vì thấy vợ con nhà cửa là lao ngục.
2. Vì thấy bà con quyến thuộc là gông cùm ràng buộc.
*
Ông vì việc đó mà cầu đạo dứt khổ sinh tử, thế mà nay lại muốn về nhà chịu ràng buộc trong gông cùm phiền não, vào ngục tù ân ái dẫn đến địa ngục.
Hóa Sa Môn hiện lại thân Phật một trượng sáu, tướng hảo quang minh tỏa sáng làm cảm động tất cả các loài trong núi. Các loài chim bay thú chạy đều tìm theo ánh sáng mà đến, biết được túc mạng, trong lòng hối lỗi.
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Như cây rễ sâu chắc
Dầu chặt vẫn đâm cành
Tâm ái chưa dứt tuyệt
Khổ não lại phát sinh.
Như khỉ xa rừng cây
Ra rồi trở lại đấy
Người thoát tù ân ái
Còn trở lại chỗ này!
Tham ý luôn hưng khởi
Đầy tập nhiễm kiêu căng
Tưởng nhớ điều dâm dục
Mê tối, tự che ngăn.
Mọi ý tưởng miên man
Ái kết: cỏ bò lan
Chỉ trí tuệ thấy rõ
Dứt nguồn ý, mới an.
Người đắm chìm trong ái
Vọng tưởng miên man hoài
Già chết mãi vần xoay
Do ái sâu không đáy.
Vị Tỳ Kheo thấy quang tướng rực rỡ của Đức Phật, lại nghe lời kệ nên hết sức kinh sợ, vội quỳ mọp sát đất sám hối lỗi lầm. Ông lại tư duy thiền định chứng quả A La Hán ngay trước Đức Phật. Chư Thiên đến nghe đều hoan hỷ, rải hoa cúng dường hết lời tán thán.
*
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Ba Mươi Tư- Phẩm Ái Dục – Thí Dụ Sáu Mươi Mốt
*
Thuở xưa có một nước cách phía Nam thành La Duyệt Kỳ bốn ngàn dặm. Nước này phụng thờ mấy ngàn vị tu sĩ Bà La Môn.
Lúc ấy, trong nước có hạn lớn suốt ba năm không mưa. Nhà Vua cầu đảo Quỷ Thần khắp các chỗ vẫn không kết quả. Vua bèn hỏi các Bà La Môn đây là do nguyên nhân gì.
Các vị ấy nói:
Chúng tôi sẽ trai giới thanh tịnh, rồi sai người tiếp xúc Phạm Thiên hỏi xem tai nạn này do đâu.
Vua đáp:
Tốt lắm!
Trai giới cần gì xin cho tôi biết.
Các Bà La Môn nói:
Cần phải dùng hai mươi cỗ xe củi, tô mật, dầu mỡ, hương hoa Phan Lọng, vàng bạc, đồ tế…
Vua liền cho người sắm sửa cung cấp đầy đủ. Các Bà La Môn ra khoảng đất trống cách thành bảy dặm chất củi cao như núi.
Rồi họ khuyến khích rằng ai không tiếc mạng sống khi chết sẽ được sinh Thiên. Họ chọn bảy người chịu tự thiêu để lên trời Phạm Thiên.
Bảy người sau khi cúng tế, chú nguyện xong leo lên đóng củi. Bên dưới mọi người đốt lửa thiêu chết họ. Khói lửa bốc lên, sức nóng bức ngặt, bảy người sợ hãi cầu cứu song không có ai.
*
Họ mới cất tiếng kêu:
Có đức đại từ bi nào trong tam giới thương xót cứu chúng tôi thoát khỏi khổ nạn này, chúng tôi xin Quy Y vị đó. Đức Phật ở xa hay biết, theo tiếng đến cứu. Ngài ở trên Hư Không hiện tướng hảo quang minh.
Bảy người thấy Phật, buồn vui lẫn lộn hướng về Đức Phật nói:
Chúng con nguyện Quy Y Ngài, xin hãy cứu khổ nóng bức cho chúng con.
Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Quy Y nhiều Thần
Núi, sông, cây cỏ
Dựng tượng cúng thờ
Cầu phước Thần ban,
Quy Y như vậy
Chẳng tốt, chẳng cao
Quỷ Thần nào đến
Cứu hết khổ ương.
Nếu ai Quy Y
Phật, Pháp, chúng Tăng
Quán lý Tứ đế
Ắt đạt chánh tuệ.
Sinh tử rất khổ
Nương đạo, giải thoát
Vượt tám thế nạn
Hết khổ, thảnh thơi.
Quy Y Tam Tôn
Tối thượng, tối lành
Con đường duy nhất
Vượt thoát mọi khổ.
*
Đức Phật nói kệ xong, lửa liền tắt ngấm. Bảy người được an ổn, hết sức vui mừng. Các Bà La Môn và nhân dân trong nước thấy thế kinh ngạc ngưỡng mộ.
Đức Thế Tôn bèn hiện thị thần thông, phân thân biến hóa, ẩn bên đây hiện bên kia một cách tự tại. Trên thân phun ra nước lửa, ánh sáng năm màu. Mọi người trông thấy đều mọp mình quy mạng.
Bấy giờ bảy người đã từ trên đống củi leo xuống, buồn vui xen lẫn nói lên kệ:
Vui thay, gặp bậc Thánh!
Vui thay, được nương tựa!
Xa được kẻ ngu muội
Tu thiện hạnh phúc thay!
Giữ chánh kiến thật vui
Thuyết Pháp cho nhau vui
Với đời không tranh chấp
Giới trọn thường an vui.
Ở với Hiền Nhân vui
Như sống chung ruột rà
Thân cận bậc Bi Trí
Hiểu biết càng cao xa.
Bấy giờ bảy người nói kệ xong, cùng với các Bà La Môn xin làm đệ tử Phật.
Đức Phật hứa khả. Họ đều Xuất Gia chứng quả A La Hán. Vua quan nhân dân đều phát tâm tu hành. Kế đó trời mưa lớn, đất nước trù phú, nhân dân ấm no, Chánh Pháp phổ biến, ai cũng hoan hỷ tu học.
*
(Kinh Pháp Cú Thí Dụ – Hết Phẩm Ba Mươi Tư)
vu viết
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Mười Chín – Phẩm Ác Hạnh – Thí Dụ Ba Mươi Chín
Phẩm này không đúng, bị lặp nhé ad.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm đã sửa lại, cảm ơn bạn!