PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Hán dịch:
Sa Môn Pháp Cự, Sa Môn Pháp Lập
Việt dịch: Thiện Thuận, Nguyên Tạng
*
Phẩm Hai Mươi Lăm – Phẩm An Ninh – Thí Dụ Bốn Mươi Tám
*
Thuở xưa, Đức Phật trú tại thành La Duyệt Kỳ. Cách phía Đông Nam thành này ba trăm dặm, có một làng dân sơn cước, gồm hơn năm trăm gia đình.
Dân làng này tánh tình cứng cỏi khó có thể giáo hóa. Song nhờ họ có phước duyên đời trước nên nay mới được Phật Độ. Bấy giờ Đức Thế Tôn hóa làm một vị Sa Môn đến làng đó khất thực. Khất thực xong, Ngài ra ngoài làng đến ngồi dưới một cội cây nhập vào định Nê Hoàn, không thở, không động đậy suốt bảy ngày.
Người làng thấy vậy cho là đã chết, nên bảo với nhau:
Ông Sa Môn này đã chết chúng ta nên đem chôn cất. Do đó, họ mang củi đến để thiêu. Sau khi củi tắt hết Đức Phật từ chỗ ngồi đứng dậy hiện thần thông giáo hóa, quang minh tỏa chiếu chuyển động mười phương. Hiện thần thông xong, Ngài lại ngồi xuống chỗ cũ, dung mạo an định, từ hòa.
*
Người trong làng nhỏ ai cũng hết sức kinh sợ vội dập đầu tạ lỗi:
Người sơn dã chúng con ngu độn, không biết là thần nhân đã càn rỡ đem củi đến thiêu Ngài khi còn sống. Chúng con tự nghĩ tội mình nặng hơn núi Thái Sơn. Xin Ngài hãy từ bi tha thứ đừng oán trách.
Không biết thần nhân có an lành không?
Có buồn lo, đói khát, nóng bức chăng?
Bấy giờ Đức Thế Tôn từ hòa mỉm cười nói kệ:
Ta đã an tịnh
Không có oán hờn
Giữa người hờn oán
Ta không oán hờn.
Ta đã an tịnh
Không còn bệnh não
Giữa người bệnh hoạn
Ta không não bệnh.
Ta đã an tịnh
Không còn lo buồn
Giữa người lo buồn
Ta không buồn lo.
Ta được an tịnh
Thanh tịnh vô vi
Hưởng vị an lạc
Như Trời Quang Âm.
Ta đã an tịnh
Vô sự và lặng trong
Dầu lửa thế gian
Không thiêu Ta được.
*
Lúc đó, năm trăm người dân trong làng nghe kệ xong đều xin làm Sa Môn, tu chứng được quả A La Hán. Người trong làng lớn nhỏ đều tin Tam Bảo. Đức Phật cùng năm trăm vị Sa Môn này bay về Tinh Xá Trúc Lâm.
Hiền Giả A Nan thấy Đức Phật và các vị A La Hán cùng đến vội ra trước Phật bạch:
Bạch Đức Thế Tôn, những vị Tỳ Kheo này có phước đức gì đặc biệt mà được Đức Thế Tôn đích thân đến hóa độ.
Đức Phật bảo:
Này A Nan, thuở Ta chưa thành Phật, có một vị Bích Chi Phật trú tại núi đó. Một hôm vị ấy ngồi dưới một cội cây cách làng không xa định nhập Niết Bàn. Vị ấy hiện thần thông xong liền nhập diệt. Người trong làng mang củi lửa đến để thiêu, rồi gom lấy Xá Lợi đựng trong bình báu chôn trên đỉnh núi.
Mọi người cùng nhau nguyện đời sau được đắc đạo, có thể an lạc diệt độ như vị Sa Môn này. Nhờ nhân duyên phước đức đó mà ngày nay họ có thể đắc đạo và Đức Như Lai mới đích thân đến để độ họ.
Đức Phật nói xong, vô số Trời Người nhân đó được đắc đạo quả.
*
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Hai Mươi Lăm – Phẩm An Ninh – Thí Dụ Bốn Mươi Chín
*
Thuở xưa, Đức Phật trú tại Tinh Xá thuộc nước Xá Vệ. Lúc ấy, có bốn vị Tỳ Kheo ngồi dưới một cội cây cùng bàn với nhau về việc trên đời này, cái gì khổ nhất.
Một người nói:
Cái khổ trong đời không gì hơn dâm dục.
Một người khác nói:
Sân hận mới là cái khổ lớn nhất.
Người thứ ba bảo:
Đói khát là cái khổ lớn nhất.
Người còn lại bảo:
Kinh sợ mới là cái khổ lớn nhất. Vì bất đồng ý kiến, họ cứ tranh luận mãi với nhau về ý nghĩa của chữ khổ không dứt.
Đức Phật biết việc này bèn đến đó hỏi:
Các ông đang tranh luân với nhau về việc gì?
Các Tỳ Kheo liền đứng dậy làm lễ, trình bày những điều đang bàn luận.
*
Đức Phật bảo:
Này các Tỳ Kheo, các ông đang bàn luận chưa cùng tột hết ý nghĩa của chữ khổ. Cái khổ trong đời không gì hơn có thân. Tất cả việc đói khát, nóng lạnh, sân hận, kinh sợ, sắc dục, oán họa đều do có thân. Thân là gốc cái khổ, nguồn tai họa, gây nên lao tâm mệt trí, lo sợ đủ điều.
Vì nó mà chúng sinh trong tam giới máy cựa tàn hại lẫn nhau. Chấp ngã buộc ràng, sinh tử không dứt đều do nơi thân. Vì vậy muốn xa lìa được cái khổ trong đời phải cầu tịch diệt.
Nếu nhiếp tâm giữ gìn theo đạo chánh, không khởi những vọng tưởng sai lầm có thể đạt được Niết Bàn. Đây chính là chỗ vui nhất.
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Nóng không gì hơn dâm
Độc không gì hơn giận
Khổ không gì hơn thân
Vui, Niết Bàn trên hết.
Không ham mê vui nhỏ
Luận nhỏ và tuệ nhỏ
Xét tìm điều to lớn
Mới được an lạc lớn.
Ta là Bậc Thế Tôn
Giải thoát không ưu não
Đi thẳng qua Ba Cõi
Hàng phục được chúng ma.
*
Đức Phật nói kệ xong, bảo các Tỳ Kheo:
Cách đây vô số kiếp về thuở quá khứ, có một vị Tỳ Kheo đã đắc ngũ thông tên là Tinh Tấn Lực tu tịch tịnh dưới gốc cây trong núi cầu đắc đạo. Lúc ấy có bốn loại chim thú nương theo bên cạnh, nên cũng được an ổn. Đó là bồ câu, quạ, rắn độc và nai.
Bốn con này ban ngày đi kiếm ăn, đêm lại trở về một chỗ.
Có một đêm bốn con lại tự hỏi với nhau:
Trong đời điều gì là khổ nhất?
Quạ bảo:
Đói khát là khổ nhất, vì đói khát thân yếu mắt mờ, tinh thần bất an, lao mình vào lưới, không ngại gươm đao. Chúng tôi sở dĩ mất mạng do đây mà ra. Vì vậy nên đói khát là khốn khổ nhất.
*
Chim bồ câu nói:
Dâm dục là khổ nhất. Sắc dục lừng lẫy che mờ tâm tánh. Nó khiến người ta bị nguy thân mất mạng.
Rắn độc bảo:
Nóng giận là khổ nhất. Ý độc ác vừa dấy khởi thì không kể gì thân sơ, có thể giết người cũng có thể giết mình.
Nai nói:
Sợ hãi là khổ nhất. Bọn tôi đi trong rừng hoang tâm luôn bất an, sợ gặp thợ săn và lũ sài lang. Hơi nghe động đậy đã phóng mình chạy, có lúc phải sa xuống hố, nên mẹ con phải bỏ nhau, sợ nát gan vỡ mật. Do đó sợ hãi là khổ nhất.
Vị Tỳ Kheo đó nghe vậy liền bảo với bọn chúng:
Chỗ các ngươi bàn luận chỉ là ngọn ngành, mà chưa xét đến được cái gốc của khổ. Cái khổ trong đời không có gì hơn thân. Thân là món đồ chứa khổ, lo sợ vô lượng. Ta vì lẽ này mà xả tục học đạo, điều phục vọng tưởng, không tham chấp Tứ Đại.
Muốn chấm dứt gốc khổ phải để tâm nơi Niết Bàn. Đạo Niết Bàn vắng lặng không hình, mãi mãi không có ưu hoạn, là chỗ đại an lạc. Bốn con vật nghe xong, tâm ý mở tỏ.
Đức Phật bảo các Tỳ Kheo:
Vị Tỳ Kheo ấy chính là Ta ngày nay. Bốn con vật thuở đó chính là bốn vị các người. Đời trước các vị đã từng nghe được ý nghĩa của gốc khổ, sao hôm nay lại còn tranh cãi như thế.
Các Tỳ Kheo nghe xong hổ thẹn tự trách, đắc quả A La Hán ngay trước Phật.
*
(Kinh Pháp Cú Thí Dụ – Hết Phẩm Hai Mươi Lăm)
vu viết
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Mười Chín – Phẩm Ác Hạnh – Thí Dụ Ba Mươi Chín
Phẩm này không đúng, bị lặp nhé ad.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm đã sửa lại, cảm ơn bạn!