PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Hán dịch:
Sa Môn Pháp Cự, Sa Môn Pháp Lập
Việt dịch: Thiện Thuận, Nguyên Tạng
*
Phẩm Ba Mươi Hai- Phẩm Địa Ngục – Thí Dụ Năm Mươi Sáu
*
Thuở xưa, ở nước Xá Vệ có một thầy Bà La Môn tên Phú Lan Ca Diếp. Ông đi đâu cũng có năm trăm đệ tử theo sau, được Vua chúa và dân chúng thờ kính.
Lúc đó Đức Phật mới thành đạo, cùng các đệ tử từ thành La Duyệt Kỳ đến Xá Vệ. Đức Phật tướng hảo quang minh, việc Hoằng Pháp được rộng rãi tốt đẹp, Vua và nhân dân ai cũng thờ kính. Phú Lan Ca Diếp thấy vậy sinh lòng tật đố muốn hủy báng Đức Thế Tôn để một mình hưởng sự cung kính.
Ông bèn dẫn đệ tử đến ra mắt Vua Ba Tư Nặc rồi thưa:
Hàng Trưởng Lão chúng tôi đã tu học với những bậc Thầy trước đây ở nước này. Còn Sa Môn Cù Đàm chỉ là kẻ ra đời cầu đạo sau.
Ông ta thật sự không có thần thông Thánh Đức, chỉ tự xưng là Phật mà thôi. Thế mà Vua bỏ chúng tôi thờ phụng ông ta. Nay tôi muốn cùng Phật so thử Đạo Hạnh xem ai hơn. Người nào hơn, Vua hãy trọn đời kính thờ.
Vua nói:
Tốt lắm.
Vua liền cho xa giá đến chỗ Phật, làm lễ xong bạch:
Phú Lan Ca Diếp muốn cùng Đức Thế Tôn thi đua đạo lực, thần thông biến hóa.
Không biết tôn ý như thế nào?
*
Đức Phật đáp:
Được, Vua hãy hẹn với ông ta bảy ngày sau sẽ so thần thông. Vua bèn cho dựng hai tòa cao bốn mươi trượng, Thất Bảo trang nghiêm, treo đầy tràng phan, xếp chỗ ngồi chỉnh tề nơi khoảng đất rộng bằng phẳng phía Đông Kinh Thành.
Khoảng giữa hai tòa cách nhau hai dặm, chúng đệ tử hai bên đều ngồi dưới tòa bên mình. Ngày ấy, Vua và Quần Thần, nhân dân vân tập đầy đủ để xem cuộc thi thần thông này.
Bấy giờ Phú Lan Ca Diếp và các đệ tử đến trước. Ông bước lên thang để đăng tòa. Có một vị Vua Quỷ Thần tên là Bàn Sư thấy bọn ông này hư vọng tật đố, bèn nổi gió lớn thổi vào tòa cao. Tọa cụ văng xa, tràng phan đứt tung.
Cát bay đá chạy không sao mở mắt ra nổi. Còn bên tòa ngồi của Đức Thế Tôn vẫn lặng yên bất động. Đức Phật cùng đại chúng ung dung theo thứ tự tới, vừa tiến đến tòa cao là đã nghiễm nhiên ngồi trên tòa rồi. Chúng Tăng lặng lẽ ngồi vào chỗ.
Vua và Quần Thần càng thêm kính ngưỡng, đảnh lễ bạch Đức Phật rằng:
Xin Đức Thế Tôn hãy hiện thần thông, hàng phục tà kiến khiến nhân dân được sáng suốt tín ngưỡng Chánh Đạo.
Đức Thế Tôn đang ngồi trên Tòa bỗng nhiên biến mất, hiện trên Hư Không phóng ánh sáng lớn, ẩn bên Đông lại hiện bên Tây, bốn phương đều như vậy, trên thân phun ra nước, dưới thân phun ra lửa, rồi lại thay đổi.
*
Thế Tôn nằm ngồi trên không, hiện ra mười hai phép biến hóa rồi bỗng nhiên biến mất, trở lại tòa ngồi. Thiên, Long, Quỷ Thần rải hoa, đốt hương cúng dường, tiếng tán thán vang động khắp đất Trời.
Phú Lan Ca Diếp tự biết mình không có Đạo Hạnh, cúi đầu hổ thẹn không dám ngó ai. Bấy giờ Kim Cang Lực sĩ giơ chày Kim Cang lên, đầu chày phóng ra lửa để nhắc ông sao không hiện thần thông đi. Phú Lan Ca Diếp kinh sợ, vội leo xuống tòa bỏ đi. Năm trăm đệ tử cũng tản mác đi hết.
Đức Thế Tôn vẫn an nhiên bình thản trở về Tinh Xá Kỳ Thọ Cấp Cô Độc viên. Vua và Quần Thần đại chúng đều hoan hỷ giã từ ra về.
Nói đến Phú Lan Ca Diếp và các đệ tử mang nhục ra đi, giữa đường họ gặp một cụ bà Ưu Bà Di tên Ma Ni.
Bà Lão lại mắng cho họ một trận:
Các ông ngu si không biết tự xét lại muốn tranh hơn đạo hạnh với Đức Phật.
Thật là một bọn giả dối không biết hổ thẹn, còn mặt mũi nào sống trên đời nhìn ai!
Phú Lan Ca Diếp vì thẹn với các đệ tử nên khi đến bờ sông bảo với chúng:
Ta nay nhảy xuống đây ắt sẽ sinh lên Cõi Phạm Thiên. Nếu thấy ta không trở lên, thì biết ta đã hưởng cảnh vui nơi đó.
*
Các đệ tử đợi mãi vẫn không thấy lên, nên bàn với nhau:
Thầy ta đã sinh Thiên rồi, chúng ta còn chờ gì nữa. Rồi họ từng người một nhảy xuống sông mong được theo thầy. Không ngờ tất cả đều do tội nghiệp phải bị đọa xuống địa ngục.
Hôm sau Vua nghe việc tự sát này, hết sức kinh ngạc vội đến chỗ Đức Phật, bạch:
Thầy trò Phú Lan Ca Diếp ngu mê, không biết do duyên gì mà lại tự sát như thế?
Đức Phật nói với Vua:
Thầy trò Phú Lan Ca Diếp có hai trọng tội:
Một là ba độc tham, sân, si lừng lẫy, tự xưng đắc đạo. Hai là hủy báng Như Lai mong được cung kính. Do hai tội trên nên họ phải đọa vào địa ngục. Vì tội nghiệp thúc đẩy khiến họ tự nhảy xuống sông. Thân chết, thần thức ra đi chịu khổ vô lượng.
Cho nên người trí thu nhiếp tâm mình, trong không khởi ác, ngoài không tạo tội. Ví như tòa thành ngoài biên ải sát bên kẻ địch, nếu phòng bị chắc chắn sẽ không sợ hãi. Dân bên trong an ổn thì giặc ngoài không cách gì vào được. Người trí tự phòng hộ cũng giống như vậy.
*
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Vọng chứng Thánh cầu lợi
Hạnh bất chánh dối đời
Ganh gièm kẻ hơn mình
Bịp đời, lừa chúng sinh
Tội dẫn hạng vị ấy
Rơi hố dữ bỏ mình.
Như giữ thành biên ải
Kiên cố trong lẫn ngoài
Giữ tâm mình thanh tịnh
Phi pháp chẳng để sinh
Nếu giới hạnh kém thiếu
Địa ngục thọ khổ hình.
Đức Phật nói kệ xong, lại kể với Vua:
Thuở quá khứ có hai con khỉ chúa, mỗi con có bầy đàn năm trăm con. Một con khỉ chúa vì ghen ghét có ý muốn giết con kia để mình cai trị tất cả, cho nên nó gây chuyện đánh nhau. Đã đánh nhau nhiều lần mà vẫn không thắng, nó hổ thẹn rút lui đến một eo biển. Nơi đây bọt nước được gió thổi tích tụ cao mấy trăm trượng.
Khỉ chúa này ngu si cho là núi tuyết, bèn nói với bầy khỉ rằng:
*
Từ lâu nghe nói trong biển có núi tuyết, nơi đó vui vẻ, quả ngọt rất nhiều mặc tình hái ăn, ngày nay ta mới trông thấy. Vậy để ta qua đó trước xem sao. Nếu ta thấy quả thật vui sướng sẽ ở đó luôn, còn không sẽ trở lại bảo với các ngươi.
Nói xong, nó leo lên một cây cao, dùng hết sức nhảy sang. Kết quả nó rơi vào đống bọt nước rồi chết chìm dưới biển. Những con còn lại không thấy khỉ chúa quay về, tưởng là chỗ đó vui lắm nên lần lượt nhảy sang chết chìm cả lũ.
Kể xong, Đức Phật bảo với Vua:
Con khỉ chúa tật đố thuở đó nay chính là Phú Lan Ca Diếp. Bầy đàn của nó là năm trăm đệ tử của ông ấy ngày nay. Còn khỉ chúa còn lại chính là thân Ta. Phú Lan Ca Diếp đời trước đã ôm lòng tật đố, bị tội nghiệp lôi kéo đã nhảy vào đám bọt nước khiến chết cả bầy.
Ngày nay ông ấy lại phỉ bang Đức Như Lai, rốt cuộc cả bọn lại nhảy xuống song chết chìm. Nghiệp tội xui khiến như thế, nhiều kiếp mà vẫn chưa hết. Nhà Vua nghe xong, tin hiểu rồi làm lễ ra về.
*
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
*
Phẩm Ba Mươi Hai- Phẩm Địa Ngục – Thí Dụ Năm Mươi Bảy
*
Thuở xưa có bảy vị Tỳ Kheo vào núi học đạo.
Trải qua mười hai năm mà họ vẫn chưa đắc đạo, nên bàn với nhau:
Học đạo thật khó, phải hủy bỏ hình hài, giữ lấy tiết tháo, chịu đựng nóng lạnh, trọn đời khất thực chịu nhục đủ điều. Rốt cuộc đạo không đắc, tội nghiệp vẫn còn nguyên, chỉ luống tự lao nhọc, bỏ mạng trong núi.
Chi bằng chúng ta hãy trở về nhà làm ăn, lấy vợ sinh con, lo làm giàu để hưởng sung sướng sau này ra sao thì ra. Bàn xong, bảy người cùng rời khỏi núi. Đức Phật ở xa biết họ có thể hóa độ. Nếu không nhẫn được cái khổ nhỏ, họ sẽ đọa vào địa ngục thật đáng tiếc thương.
Đức Phật liền hóa ra một vị Sa Môn đứng ngay ở đầu khe núi. Bảy người ra đi liền gặp.
Hóa Sa Môn hỏi:
Các vị tu hành đã lâu sao lại bỏ núi đi?
Bảy người đáp:
Học đạo cực khổ mà không nhổ được gốc tội, việc khất thực thọ nhục khó nhẫn. Lại nữa trong núi không ai cúng dường, bao năm chật vật, luôn sống thiếu thốn, chỉ cực khổ suông mà không đắc đạo. Nên chúng tôi muốn về nhà làm ăn thật giàu có, rồi già mới tu lại.
Hóa Sa Môn nói:
*
Hãy thôi! Hãy thôi!
Nghe tôi nói đây. Mạng người vô thường sớm còn tối mất, học đạo tuy khó, trước khổ sau vui. Gia nghiệp khó khăn muôn kiếp khó dứt.
Nếu mong cùng vợ con sum họp hưởng lạc, mong sung sướng mãi không gặp tai họa thì khác nào trị bệnh mà uống độc dược, chỉ nặng thêm không chút thuyên giảm.
Trong ba cõi có thân là có ưu não, chỉ có giữ tròn giới hạnh, không phóng dật tinh tấn tu hành, chứng được đạo quả mới chấm dứt tất cả khổ.
Bấy giờ hóa Sa Môn liền hiện lại tướng Phật, hào quang rực rỡ nói kệ:
Tu khó, hết tội khó
Ở nhà cũng khó khăn
Sum họp hưởng lợi khó
Gian nan nhất: có thân.
Tỳ Kheo khất thực khó
Đâu thể không gắng công
Tinh tấn đến tự tại
Suốt đời không phiền ai.
Có tín, thành tựu giới
Từ giới, pháp bảo sinh
Nhờ đó sống an ổn
Được cung kính cúng dường.
Ngồi, nằm hay đi, đứng
Không phóng dật tinh cần
Luôn chánh tâm giữ đạo
An vui sống núi rừng.
Lúc ấy bảy vị Tỳ Kheo thấy thân tướng Phật, lại nghe kệ này nên hết sức hổ thẹn, run sợ vội quỳ mọp sát đất lễ dưới chân Phật, hết lòng sám hối rồi lễ Phật ra đi.
Họ trở vào núi, dốc lòng công phu tinh tấn tu tập, tư duy ý nghĩa bài kệ trên, chánh tâm chuyên nhất, an trú tịch diệt, chứng quả A La Hán.
*
(Kinh Pháp Cú Thí Dụ – Hết Phẩm Ba Mươi Hai)
vu viết
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Mười Chín – Phẩm Ác Hạnh – Thí Dụ Ba Mươi Chín
Phẩm này không đúng, bị lặp nhé ad.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm đã sửa lại, cảm ơn bạn!