PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Hán dịch:
Sa Môn Pháp Cự, Sa Môn Pháp Lập
Việt dịch: Thiện Thuận, Nguyên Tạng
*
Phẩm Hai Mươi Mốt – Phẩm Lão Mạo – Thí Dụ Bốn Mươi Hai
*
Thuở xưa Đức Phật trú tại Tinh Xá Kỳ Thọ nước Xá Vệ. Một hôm, thọ thực xong, Đức Phật Thuyết Pháp lành cho các hàng Trời người, Quốc Vương, thần dân bốn bộ đệ tử.
Lúc ấy, có bảy vị Trưởng Lão Bà La Môn từ xa đến chỗ Phật đảnh lễ, chắp tay bạch:
Chúng con ở xa, từ lâu nghe danh giáo hóa của bậc Thánh Nhân muốn đến quy mạng. Song vì nhiều duyên trở ngại, mãi đến hôm nay mới được chiêm ngưỡng tôn dung. Chúng con xin được làm đệ tử, tu học chấm dứt các khổ.
Đức Phật chấp nhận cho các vị ấy xuống tóc làm Sa Môn và dạy ở chung một phòng. Nhưng bảy vị ấy gặp được Thế Tôn cho là có thể đảm bảo đắc đạo, không lo tư duy vô thường, ngồi chung trong phòng chỉ nghĩ việc đời hoặc trò chuyện cười đùa với nhau chẳng để ý đến chuyện nên hư.
*
Họ không biết mạng sống của mình chẳng còn bao lâu, tâm ý mê mờ bởi những buộc ràng trong Ba Cõi. Đức Phật với tam đạt trí biết mạng sống của bảy vị ấy sắp hết.
Ngài thương xót bèn đến phòng họ bảo:
Các ông học đạo nên cầu giải thoát, sao lại cười đùa lớn tiếng như vậy. Tất cả chúng sinh đều cậy vào năm việc.
Đó là những việc gì?
1. Cậy vào tuổi trẻ.
2. Cậy vào sắc đẹp.
3. Cậy vào sức mạnh.
4. Cậy vào tài sản giàu có.
5. Cậy vào dòng họ sang quý.
Các ông thì thầm nói chuyện, cười cợt lớn tiếng là cậy vào điều gì?
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Sao lại vui cười
Hãy nhớ thiêu đốt
Che lấp tối tăm
Chi bằng cầu định.
Thấy thân tốt đẹp
Dựa cho là an
Tham đưa đến khổ
Đâu biết vô thường.
Già sắc suy hao
Thân bệnh tiều tụy
Da nhăn, thịt nhão
Cái chết cận kề.
Thân chết thần đi
Như ngồi xe hỏng
Xương thịt rã rời
Đâu nương thân được!
Đức Phật nói kệ xong, bảy vị Tỳ Kheo giác ngộ, không còn vọng tưởng, chứng A La Hán ngay trước Phật.
*
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Hai Mươi Mốt – Phẩm Lão Mạo – Thí Dụ Bốn Mươi Ba
*
Thuở xưa Đức Phật trú tại Tinh Xá nước Xá Vệ, vì hàng Trời người, Đế Vương Thuyết Pháp. Lúc ấy, có một thôn Bà La Môn gồm hơn năm trăm gia đình. Thôn ấy có năm trăm thiếu niên học pháp thuật Bà La Môn, tánh tình kiêu ngạo cống cao bất kính với các bậc Trưởng Lão.
Một hôm, năm trăm vị ấy bàn luận với nhau:
Sa Môn Cù Đàm tự xưng là Phật, đủ Tam minh trí tuệ, không ai dám luận biện.
Chúng ta thử mời ông luận nghị, cật vấn mọi điều xem sao?
Nói xong, họ bèn lo sắp xếp đầy đủ mọi chuyện, đi mời Đức Phật về làng.
Đức Phật nhận lời, cùng các đệ tử đến thôn Bà La Môn. Sau khi đã an tọa, các Bà La Môn bèn dâng nước rửa tay, rồi thiết trai thỉnh Phật và đệ tử thọ dụng. Thọ trai xong họ lại mang nước đến cho Đức Phật và đại chúng rửa tay, mọi việc rất chu đáo.
Lúc ấy, có hai vợ chồng Bà La Môn già đang đi xin giữa thôn, Đức Phật biết ông Bà La Môn đó giàu có vô số, từng làm quan lớn.
Ngài bèn hỏi các Bà La Môn này:
Các người có biết vị Bà La Môn lớn tuổi kia không?
Mọi người đều đáp:
Có biết.
Đức Phật lại hỏi:
Ông ta trước đây là người như thế nào?
Đáp:
Ông ấy vốn là quan lớn, tài sản nhiều vô số.
Hỏi:
Vậy sao ngày nay ông ta phải đi ăn xin?
Đáp:
Do ông ăn xài hoang phí, không có độ lượng nên phải chịu nghèo.
*
Đức Phật bảo:
Này các Bà La Môn, trên đời có bốn việc mà người ta khó mà làm theo. Nếu biết làm theo thì sẽ được phước, không bị nghèo cùng như vậy.
Bốn việc đó là gì?
1. Tuổi trẻ khỏe mạnh, cẩn thận chớ nên kiêu mạn.
2. Tuổi già siêng năng, không có tham dâm.
3. Có tiền bạc châu báu thường nghĩ bố thí.
4. Theo thầy học tập, biết nghe nhận lời chân chánh.
Vị Bà La Môn lớn tuổi không thực hành theo bốn việc trên. Đây gọi là biết xét đến lẽ thành bại, nên một mai phải chịu tán gia bại sản. Ví như con chim hộc già đứng canh giữa ao trống, không kiếm chác được chút gì.
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Trẻ lười, kiêu mạn
Già chẳng bỏ dâm
Có của không thí
Lời Phật chẳng nghe
Có bốn điều ngăn
Ai có, họa đến
Than ôi! già đến
Theo đó tiều tụy.
Tuổi trẻ như ý
Đến già bị khinh
Không tu phạm hạnh
Của chẳng còn gì.
Già như chim hộc trắng
Canh giữ ao không
Đã không giới hạnh
Của cải: trắng tay.
Già khí lực suy
Nghĩ lại sao kịp.
Già như lá thu
Dơ rách hạnh tu
Mạng sống qua mau
Hối hận nào kịp.
*
Đức Phật lại bảo các Bà La Môn:
Trên đời có bốn khoảng thời gian mà ta có thể hành đạo, có phước đắc độ, tránh khỏi các khổ.
Đó là bốn thời điểm nào?
1. Lúc trẻ có sức khỏe, oai thế.
2. Lúc giàu sang có tài sản.
3. Lúc gặp được Tam Bảo phước điền.
4. Lúc quán xét được lẽ vô thường của vạn vật.
Nếu vào bốn thời điểm trên, biết nỗ lực làm việc, tiến tu thì sẽ thành tựu mọi sở nguyện, chứng đắc đạo quả.
Bấy giờ Đức Thế Tôn lại nói kệ:
Ngày đêm mạng gần giảm
Nên tinh tấn kịp thời
Thế gian vô thường lắm
Đừng mê đọa tối tăm.
Hãy thắp sáng ý thức
Huấn luyện mình, cầu tuệ
Thanh tịnh, lìa trần cấu
Cầm đuốc soi đường mê.
Lúc Đức Phật đang nói, hào quang phóng ra chiếu khắp Trời Đất.
Năm trăm vị Bà La Môn thiếu niên nhân đó tâm ý khai mở, lông tóc dựng đứng, cùng nhau đảnh lễ dưới chân Phật, bạch:
Chúng con xin quy mạng với Đức Thế Tôn, xin hãy nhận chúng con làm đệ tử.
Đức Phật bảo:
Lành thay!
Hãy lại đây các Tỳ Kheo. Các vị ấy liền trở thành Sa Môn, chứng đắc đạo quả A La Hán. Kẻ lớn người nhỏ trong làng đều ân triêm pháp nhũ, thấy được đạo, ai cũng hoan hỷ.
*
(Kinh Pháp Cú Thí Dụ – Hết Phẩm Hai Mươi Mốt)
vu viết
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Mười Chín – Phẩm Ác Hạnh – Thí Dụ Ba Mươi Chín
Phẩm này không đúng, bị lặp nhé ad.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm đã sửa lại, cảm ơn bạn!