PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Hán dịch:
Sa Môn Pháp Cự, Sa Môn Pháp Lập
Việt dịch: Thiện Thuận, Nguyên Tạng
*
Phẩm Mười Sáu – Phẩm Minh Triết – Thí Dụ Ba Mươi Hai
Thuở xưa có một vị Bà La Môn tuổi mới hai mươi mà có thiên tài bẩm sinh, mọi việc lớn nhỏ liếc qua liền biết.
Anh ta tự cho mình là minh triết, thề rằng:
Quyết sẽ thông hiểu hết những kỹ thuật trong thiên hạ, nếu còn một nghề nào chưa thông thì chưa phải là minh triết. Do đó, vị Bà La Môn đi tu học với tất cả mọi thầy hay, lục nghệ tạp thuật, Thiên văn, địa lý, y học, thuật trấn áp núi lỡ động đất, thông thạo kỹ nhạc, cắt may, thêu thùa, nấu nướng bếp núc… nói chung mọi việc trong đời đều biết.
Bà La Môn tự nghĩ:
Mình giỏi như vậy, ai mà sánh bằng mình, hãy thử đi qua các nước, thi thố tài nghệ chiết phục mọi người để danh vang bốn biển, kỹ thuật thấu Trời xanh, tên tuổi lưu lại trong sử sách trăm đời sau.
Thế rồi, vị ấy đi khắp nơi. Đến một nước, anh vào chợ gặp một người thợ làm cung tên đang ngồi tách dây gân, chuốt mũi tên, tay làm thoăn thoắt. Mọi người chen lấn nhau mua.
Bà La Môn tự nghĩ:
Sở học của ta tưởng đã đầy đủ, không ngờ coi thường không học làm cung, nếu cùng người ấy thi tài ta chắc chắn sẽ thua. Ta nên theo vị ấy học nghề.
Nghĩ xong, anh bèn bái vị thợ cung làm thầy, dốc lòng học hỏi. Không bao lâu, anh đã biết cách làm cung chuốt tên, khéo léo còn hơn cả thầy. Anh trả tiền công cho thầy rồi từ giã ra đi.
*
Đến nước khác, khi sắp qua sông anh gặp một vị Thuyền Sư lèo lái thuyền tới lui, qua lại, lượn vòng một cách khéo léo, nhanh nhẹn như bay, thật chưa từng thấy!
Anh tự nghĩ:
Mình tuy biết nhiều nghề, xong chưa từng học lái thuyền. Đây dù chỉ là một nghề mọn, ta cũng nên học qua cho biết. Anh liền xin học nghề với vị Thuyền Sư, nhờ siêng năng thờ thầy, hết lòng học tập chẳng bao lâu anh đã nắm vững mọi kỹ thuật lái thuyền, còn nhanh nhẹn khéo léo hơn cả thầy. Sau đó anh ta trả công từ giã thầy ra đi.
Vị Bà La Môn đi đến một nước khác, thấy cung điện của Vua này nguy nga lộng lẫy nhất trong thiên hạ.
Anh liền nghĩ:
Người thợ xây cất cung điện này thật là hay khéo.
Sao ta trước giờ không chịu học môn này, nếu cùng với người thợ đó thi tài chắc chắn sẽ thua. Ta phải theo học mới vừa lòng.
Anh xin làm đệ tử với người thợ xây cất cung điện. Nhờ sự tận tâm lo lắng cho thầy, chịu cực chịu khổ học nghề, chẳng bao lâu anh đã nắm vững mọi kỹ thuật kiến trúc và điêu khắc trang trí.
Tài ba của anh còn vượt hơn cả thầy. Anh tặng thầy tất cả tiền bạc rồi ra đi. Bà La Môn đi khắp mười sáu nước lớn trong thiên hạ, thách mọi người thi tài mà không có ai dám.
Nhân đó, sinh tâm cống cao tự đại, cho rằng:
Trong đời này còn ai hơn ta nữa?
*
Lúc ấy Đức Phật ở Tinh Xá Kỳ Viên từ xa thấy vị ấy, biết rằng có thể độ được, Ngài liền dùng thần thông hóa ra một vị Sa Môn cầm tích trượng ôm bình bát đến trước người đó.
Trong nước, lúc ấy chưa có Đạo Pháp, chưa từng thấy Sa Môn nên vị Bà La Môn thấy làm lạ không biết đó là hạng người gì. Ông định hỏi thăm thì Sa Môn đã đến cạnh bên.
Ông liền hỏi:
Phép tắc của trăm đời Vua chưa thấy ai như ông. Cách phục sức nơi nơi chưa có thứ y phục này. Những vật lạ trong tông miếu tôi từng thấy qua, song không thứ nào giống bình bát ông cầm.
Ông là ai mà hình dáng trang phục khác thường như vậy?
Vị Sa Môn trả lời:
Tôi là người tự điều phục mình.
Vị Bà La Môn ngạc nhiên hỏi tiếp:
Sao gọi là tự điều phục mình?
Bấy giờ vị Sa Môn bèn dựa vào sự học tập của ông Bà La Môn mà nói kệ:
Thợ cung chuốt tên
Thuyền Sư lái thuyền
Thợ mộc khắc gỗ
Người trí điều thân.
Như tảng đá lớn
Gió thổi chẳng động
Người trí tâm an
Khen chê chẳng đổi.
Như vực nước thật sâu
Trong lặng, một màu
Người trí nghe đạo
Tâm tịnh hết sầu.
*
Vị Sa Môn nói kệ xong, bay lên Hư Không, hiện lại thân Phật với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm, hào quang rực rỡ chiếu khắp đất Trời.
Rồi Đức Phật lại hạ xuống đất, nói với vị Bà La Môn:
Đây chính là sức điều phục mình biến hóa ra trong đạo của Ta.
Bà La Môn liền quỳ mọp sát đất đảnh lễ, rồi hỏi:
Xin cho biết yếu chỉ điều phục mình?
Đức Phật đáp:
Năm Giới, Mười Thiện, Sáu Độ, Bốn Tâm Bình Đẳng, Bốn Thiền, Ba Môn Giải Thoát chính là pháp yếu điều phục mình. Các kỹ thuật như làm cung, lái thuyền, điêu khắc, thuật lạ… đều là việc trang sức bên ngoài. Tâm ý buông lung chạy theo đuổi bắt chúng là đi vào đường sinh tử vậy. Bà La Môn nghe xong, hoan hỷ xin làm đệ tử Phật.
Đức Phật bảo:
Lành thay, hãy lại đây Tỳ Kheo!
Vị Bà La Môn râu tóc liền tự rụng, thành Sa Môn. Sau đó, Đức Phật giảng cho vị ấy nghe các pháp yếu như Tứ Đế, Bát giải thoát. Vị ấy tư duy Quán Chiếu liền chứng quả A La Hán.
*****
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Mười Sáu – Phẩm Minh Triết – Thí Dụ Ba Mươi Ba
Thuở xưa, Đức Phật trú tại nước Xá Vệ. Trong nước cách thành năm trăm dặm có một làng sơn cước gồm năm mươi gia đình. Trong làng, có một gia đình nghèo. Người vợ chủ nhà mang thai mười tháng song sinh được hai đứa bé trai rất xinh đẹp.
Hai vợ chồng rất thương con, đặt tên cho một đứa là Song Đức, một đứa là Song Phúc. Sinh ra gần được hai tháng, một hôm nhân lúc người mẹ ra ngoài kiếm củi, còn người cha nằm nghỉ trên giường sau khi chăn trâu về, hai đứa nhìn quanh quất không thấy cha mẹ bèn than thở với nhau.
Một đứa nói:
Đời trước tôi sắp đắc đạo, lại khởi ý ngu si cho rằng mạng sống là thường, nên đã lui sụt, trôi lăn trong sinh tử không biết bao nhiêu kiếp.
Nay sinh làm con trong gia đình nghèo này, ở nhà tranh, đắp tả rách, ăn uống kham khổ để nuôi thân, không biết đến chừng nào mới đắc đạo!
Đây cũng là do đời trước tham luyến giàu sang, buông lung tình ý, tìm vui trong chốc lát mà từ đó đến nay phải chịu biết bao nhiêu đau khổ.
Nay còn biết nhờ cậy vào ai?
Đứa kia nói:
Tôi kiếp xưa, chỉ hơi ngại khó chuyện chuyên cần nhất thời, rốt lại không lo tinh tấn tu tập nên nhiều đời gặp phải khổ hoạn. Đây là mình làm mình chịu, không phải cha mẹ gây ra.
*
Chúng ta phải chịu đựng còn than thở gì?
Người cha nghe con nói vô cùng quái lạ, suy nghĩ:
Đây chắc là ma quỷ đầu thai, ắt có tai biến. Làm gì trẻ con mới mấy mươi ngày mà đã biết nói. Sợ rằng ngày sau chúng giết cha mẹ, hại thân tộc. Nhân lúc chúng còn nhỏ chưa lớn ta nên giết đi để trừ hậu hoạn. Nghĩ vậy xong, ông lén ra khỏi nhà đóng cửa lại, ra đồng lấy củi về định đốt chết hai con. Người vợ trở về hỏi chồng lấy củi làm chi.
Người chồng đáp:
Thật là chuyện kinh quái!
Mấy đứa con còn nhỏ mà đã biết nói chuyện. Đây chính là ma quỷ, chắc sẽ làm hại gia tộc, nên tôi định giết chúng ngay lúc nhỏ.
Người mẹ nghe xong, ngạc nhiên do dự chưa tin. Bà bảo với chồng hãy tạm chờ vài bữa nữa rồi sẽ tính. Sáng hôm sau, hai vợ chồng lén ra ngoài, núp bên cửa rình nghe, quả nhiên thấy hai đứa trẻ than thở với nhau y như cũ. Hai người quyết tâm lần này chất củi đốt chết hai đứa con.
Đức Phật với Thiên nhãn thấy được việc này, thương cho hai đứa trẻ có túc phước đáng độ nên đến làng đó phóng hào quang rực rỡ, Trời Đất rung động, vạn vật đều trở nên sắc vàng. Dân làng ai cũng kinh ngạc, hoan hỷ đến chỗ Phật đảnh lễ vì biết đây là bậc Chí Tôn trong Tam Giới. Đức Phật đi thẳng đến nhà hai đứa bé. Chúng thấy hào quang rực rỡ của Phật, vui mừng khôn xiết.
Hai vợ chồng thấy thế ngạc nhiên, mỗi người một đứa đến chỗ Đức Phật hỏi:
*
Bạch Đức Thế Tôn!
Hai đứa trẻ này sinh ra mới gần hai tháng mà đã biết nói chuyện như thế. Chúng con không biết lẽ gì, e rằng sau này chúng sẽ gây họa nên định phóng lửa đốt chết, song chưa kịp làm thì Phật đã đến. Không biết đây là ma quỷ gì, xin Đức Phật giải thích. Quái lạ thay, hai đứa nhỏ trông thấy Đức Phật lại quơ tay chào lộ vẻ vui mừng.
Đức Phật trông thấy hai đứa trẻ bèn mỉm cười, hào quang năm sắc từ miệng phóng ra tỏa khắp đất Trời, rồi bảo với cha mẹ đứa bé và nhân dân trong làng:
Hai đứa bé này không phải ma quỷ mà là con phúc đức. Vào thời Đức Phật Ca Diếp chúng đã từng làm Sa Môn. Hai đứa thuở nhỏ đã kết bạn chung chí Xuất Gia, tu hành tinh tấn. Khi sắp đắc đạo, hai người bỗng khởi tà chướng ngăn giải thoát, tham đắm vinh hoa.
Họ suy nghĩ sai lầm:
Chỉ cần tu phước sẽ sinh lên Cõi Trời. Nếu sinh hạ giới cũng làm Vua Chúa Trưởng Giả. Tà tưởng vừa sinh liền thoái chuyển đạo tâm, không được Niết Bàn, rơi vào trong sinh tử, nhiều đời nhiều kiếp thường gần bên nhau.
Đến đời Ta lại sinh đôi trong nhà nghèo này. Nhờ công đức cúng dường Phật quá khứ nên còn dư phước có thể độ được, tội hết phước sinh, biết túc mạng mình, nên nay Đức Thế Tôn đến đây để độ. Nếu Ta không độ, chúng sẽ bị lửa thiêu chết oan uổng.
*
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Đại Nhân tánh vô dục
An trú nơi quang minh
Dù gặp cảnh khổ vui
An nhiên, trí hiện tiền.
Đại Hiền không nhiễm đời
Không mong của, nước, con
Thường giữ đạo giới tuệ
Không tham phú quý tà.
Trí giả biết vô thường
Cảnh giác cây trên cát
Bạn chí không kiên cường
Như sắc trắng nhiễm màu.
Đức Phật nói kệ xong, hai đứa bé thấy thân Phật liền vươn mình lớn lên như trẻ tám tuổi, rồi làm Sa Di chứng quả A La Hán. Người trong làng thấy hào quang Phật, lại thấy hai đứa bé thay đổi lạ thường đều rất hoan hỷ, đắc qủa Tu Đà Hoàn. Cha mẹ đứa bé dứt hết nghi ngờ chứng được Pháp Nhãn.
(Kinh Pháp Cú Thí Dụ – Hết Phẩm Mười Sáu)
vu viết
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Mười Chín – Phẩm Ác Hạnh – Thí Dụ Ba Mươi Chín
Phẩm này không đúng, bị lặp nhé ad.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm đã sửa lại, cảm ơn bạn!