PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Hán dịch:
Sa Môn Pháp Cự, Sa Môn Pháp Lập
Việt dịch: Thiện Thuận, Nguyên Tạng
*
Phẩm Tám – Phẩm Từ Nhân – Thí Dụ Mười Chín
Thuở xưa, Đức Phật trú tại thành La Duyệt Kỳ. Cách nước này năm trăm dặm có một hòn núi là nơi cư trú của một gia tộc gồm một trăm hai mươi hai người sinh trưởng tại đó. Họ sống bằng nghề săn bắn trong rừng, mặc áo da, ăn thịt thú mà không biết làm ruộng rẫy.
Tín ngưỡng của họ là thờ cúng Quỷ Thần, chưa biết gì về Tam Bảo. Đức Phật với Thánh trí thấy họ có thể độ được, nên đến đó ngồi dưới một cội cây.
Lúc ấy, bọn đàn ông đều vào núi săn bắn chỉ còn phụ nữ ở nhà. Đức Phật tỏa ánh hào quang chiếu khắp đất trời, cây đá trong núi đều biến thành sắc vàng chói. Lớn nhỏ ai nấy cũng đều kinh ngạc hoan hỷ, cho Phật là vị Thần linh nên kéo đến lễ bái, cúng dường chiếu ngồi.
Đức Phật nhân đó mới Thuyết Pháp về tội báo sát sinh, phước đức từ bi, ân ái tạm hợp lại tan cho các phụ nữ nghe.
Nghe xong họ đều hoan hỷ, ra trước bạch Phật:
Sơn nhân chúng con sát sinh ăn thịt để sống. Nay muốn dâng cúng Ngài một ít, xin hãy nhận lấy.
Đức Phật bảo với các phụ nữ:
Giáo Pháp của Chư Phật không ăn thịt chúng sinh. Ta đã thọ trai rồi mới đến đây, không cần phải dọn ra nữa.
*
Đức Phật nhân đó lại dạy:
Người sống ở đời món ăn rất nhiều.
Sao không ăn những thứ có ích, mà lại giết mạng chúng sinh để nuôi sống cho mình?
Khi chết sẽ đọa ác đạo, chỉ hại mà không lợi ích. Làm người nên ăn ngũ cốc, thương yêu các loài chúng sinh, các loài biết máy cựa, không loài nào mà chẳng tham sống. Giết chúng sinh nuôi sống mình tội lỗi rất nặng. Còn ai từ bi bất sát đời đời sẽ được an vui.
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Nhân từ bất sát
Thường biết nhiếp thân
Là chỗ bất tử
An lạc không họa tai.
Bất sát vì từ
Thận trọng lời, ý
Là chỗ bất tử
Chốn không họa tai.
Theo đạo giải thoát
Không hại chúng sinh
Tâm không phiền não
Xứng với Phạm Thiên.
Thường dùng Từ Bi
Tịnh như Phật dạy
Biết đủ, biết dừng
Sẽ vượt sinh tử.
Đức Phật nói kệ xong, những người đàn ông đi săn cũng vừa về đến. Các phụ nữ nghe giảng Kinh nên không đón chồng. Các ông này kinh ngạc trước việc bất thường, bỏ thú săn xuống chạy về xem có biến cố gì không. Đến nơi thấy các bà vợ mình đang chắp tay nghe Phật giảng dạy, họ liền nổi giận lớn tiếng mắng nhiếc, định làm hại Phật.
*
Các bà vợ vội nói với chồng mình:
Đây là Thần nhân, các ông đừng nên ác ý. Mọi người nghe nói ăn năn hối cải, quỳ xuống đảnh lễ Đức Phật. Phật vì họ mà giảng nói lại công đức của việc không sát sinh và tội báo của việc giết hại.
Người đứng đầu gia tộc tỉnh ngộ liền quỳ xuống bạch Phật:
Chúng con sinh trưởng nơi núi sâu, lấy việc săn bắn làm kế sinh nhai. Tội lỗi vì thế chồng chất rất nhiều. Xin Ngài dạy cho cách nào để tránh khỏi tai ương.
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói kệ:
Thực hành nhân từ
Bác ái cứu người
Có mười một lợi
Phước thường theo thân.
Một, ngủ an ổn
Hai, thức yên vui
Ba, không ác mộng
Bốn, trời hộ trì.
Năm, được kính mến
Sáu, không bị hại
Bảy, không đao binh
Tám, không nạn nước.
Chín, không nạn lửa
Mười, được phước lợi
Chết được sinh Thiên
Chính là mười một.
Đức Phật nói kệ xong, một trăm hai mươi hai người nam nữ lớn nhỏ đều hoan hỷ tin nhận, vâng giữ năm giới. Đức Phật nói với Vua Bình Sa cho họ ruộng đất và thóc ngô để ăn. Từ đó, đạo từ bi phổ biến, trong nước yên bình.
*****
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Tám – Phẩm Từ Nhân – Thí Dụ Hai Mươi
Thuở xưa có một nước lớn ở vùng biên cương Ấn Độ. Vua nước ấy tên là Hòa Mặc. Nhân dân trong nước chưa từng được pháp hóa vi diệu của Tam Bảo, chỉ biết thờ ngoại đạo Bà La Môn theo lời dụ hoặc của họ mà thường làm những việc tà ác, sát sinh tế tự Quỷ Thần.
Lúc ấy mẹ Vua lâm trọng bệnh nằm liệt trên giường. Vua đã cho vời rất nhiều danh y điều trị cho đến cầu phù chú nơi các đồng cốt, song trải qua nhiều tháng nhiều năm mà bệnh tình bà vẫn không thuyên giảm.
Do đó, Vua lại cho mời hai trăm vị Bà La Môn trong nước vào cung cúng dường, rồi hỏi:
Thái Hậu bệnh nặng đã lâu, không biết vì nguyên nhân gì?
Các vị là bậc Trí, thông hiểu tướng pháp và thiên văn địa lý, vậy có thấy gì bất ổn xin nói cho trẫm biết.
Các Bà La Môn trả lời:
Bệnh của Thái Hậu là do tinh tú sai loạn, âm dương bất hòa thôi.
Vua hỏi:
Làm cách nào để giải trừ được?
Các Bà La Môn thưa:
Nên bày lễ cầu đảo núi non, nhật nguyệt, tinh tú nơi khoảng đất trống sạch sẽ ngoài thành và giết một trăm súc vật đủ loại, với một đứa bé để cúng tế Trời. Rồi Vua tự mình dẫn mẹ đến chỗ đó lạy xin khỏi bệnh sống lâu, thì sau đó bệnh sẽ lành.
Vua nghe nói bèn chuẩn bị đúng như lời dặn. Vua cho lùa người và trăm loài voi, ngựa, bò, dê từ cửa thành phía Đông đi ra chỗ tế tự giết để tế Trời.
*
Dọc đường tiếng than khóc, kêu la vang động đất Trời!
Đức Thế Tôn đại từ cứu độ tất cả chúng sinh, thương cho Vua Hòa Mặc quá ngu si.
Sao lại vì muốn cứu vớt một người mà làm ác giết mạng chúng sinh?
Cho nên Đức Phật và chúng đệ tử đi qua nước đó.
Đức Phật gặp Vua và các Bà La Môn nơi cửa thành phía Đông đang lùa bầy súc vật kêu rống thảm đi đến. Vua từ xa trông thấy Đức Phật uy nghi rực rỡ, hào quang tỏa sáng đất Trời như Mặt Trời mới mọc, như Trăng sáng đêm rằm. Nhân dân nhìn xem đều khởi tâm kính mộ. Súc vật bị lùa đi tế Thần cũng khởi tâm mong được cứu thoát.
Vua liền tới trước xuống xe hạ lọng đảnh lễ Phật rồi quỳ thẳng chắp tay chào hỏi Đức Thế Tôn.
Đức Phật mời Vua ngồi, rồi hỏi:
Ông định đi đâu?
Vua vòng tay đáp:
Thái Hậu của nước con lâm bệnh đã lâu, con cho mời các lương y khắp nơi điều trị, cho đến đồng cốt chú thuật cũng không thuyên giảm. Nay con mang người và súc vật để tế cúng Chư Thiên, kỳ đảo tinh tú bốn núi năm non cầu mong cho mẹ con được hết bệnh.
*
Đức Phật bảo:
Xin Đại Vương khéo lắng nghe lời này!
Muốn được giàu có phải hành bố thí, muốn được sống thọ phải hành Từ Bi, muốn được trí tuệ phải chuyên học hỏi. Bốn việc này, tùy mình gieo nhân nào thì gặp quả nấy. Kẻ giàu sang thì không tham bữa ăn bần tiện tầm thường.
Chư Thiên kia lấy thất bảo xây Cung Điện, muốn ăn muốn mặc tự nhiên như ý, lẽ đâu bỏ vị ngon cam lộ mà dùng đồ thô lậu máu thịt tanh hôi?
Tế tự dâm loạn thế kia là lấy tà giáo làm chánh đạo.
Giết mạng sống cầu sống, thật trái với đạo lý quá xa!
Giết bao nhiêu mạng sống để cứu một mạng thì làm sao có chuyện đó?
Lúc đó Đức Thế Tôn liền nói kệ:
*
Dầu người sống trăm năm
Siêng phụng sự Quỷ Thần
Cúng tế bằng voi ngựa
Chẳng bằng một việc Từ.
Lúc Đức Phật nói kệ hào quang rực chiếu khắp đất Trời, chúng sinh trong Tam Đồ bát nạn đều hoan hỷ, được an ổn lợi ích. Vua Hòa Mặc nghe được Diệu Pháp lại thấy được hào quang nên vô cùng hoan hỷ, thấy được đạo.
Thái Hậu bệnh hoạn nghe pháp xong, tinh thần phấn chấn vui vẻ, bệnh tình dứt hết. Còn hai trăm vị Bà La Môn thấy hào quang, lại nghe lời Phật dạy nên vô cùng hổ thẹn, ăn năn chừa đổi, xin làm đệ tử Phật. Đức Thế Tôn hứa khả cho họ Xuất Gia làm Sa Môn.
Vua và Đại Thần thỉnh Đức Phật lưu lại nước đó một tháng để cúng dường, đem Chánh Pháp ra trị nước. Nhờ đó nước nhà ngày càng hưng thịnh.
(Kinh Pháp Cú Thí Dụ – Hết Phẩm Tám)
vu viết
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Mười Chín – Phẩm Ác Hạnh – Thí Dụ Ba Mươi Chín
Phẩm này không đúng, bị lặp nhé ad.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm đã sửa lại, cảm ơn bạn!