PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Hán dịch:
Sa Môn Pháp Cự, Sa Môn Pháp Lập
Việt dịch: Thiện Thuận, Nguyên Tạng
*
Phẩm Bốn – Phẩm Đa Văn – Thí Dụ Mười Một
Thuở xưa, ở nước Xá Vệ có hai vợ chồng nhà đã nghèo mà lại keo bẩn, không tin đạo đức. Đức Phật thương xót họ ngu mê, muốn cứu độ nên hóa làm một vị Sa Môn tướng mạo tầm thường, đói rách đến nhà đó khất thực. Lúc ấy, người chồng đi vắng, người vợ thấy Sa Môn liền nặng lời mắng chửi, bất kể đạo lý.
Vị Sa Môn nói:
Tôi là Tu Sĩ đi xin để sống qua ngày. Cô không nên chửi mắng như vậy. Tôi chỉ mong được một bữa cơm thôi.
Bà vợ bảo:
Dù ông có đứng chết ngay đó tôi cũng không cho, huống chi là mạnh khỏe như vậy mà mong tôi cho ăn. Ông ở đó chỉ tốn thời gian vô ích, nên sớm cút đi cho rồi.
Nghe vậy, vị Sa Môn liền đứng ngay đó trợn mắt tắt hơi, hiện ra tướng chết, thân thể sình chướng, miệng mũi giòi bò, bụng nứt ruột rã, đồ bất tịnh chảy tràn. Bà ấy trông thấy sợ hãi, hoảng hồn bỏ chạy.
Bấy giờ Sa Môn hiện tướng lại như cũ, bỏ đi đến gốc cây cách nhà ấy vài dặm ngồi nghỉ. Người chồng về giữa đường bỗng thấy vợ mình chạy hớt hơ hớt hãi, ấy làm lạ liền hỏi nguyên do. Bà vợ kể lại có một ông Sa Môn làm mình sợ hãi như vậy.
*
Người chồng nghe xong, đùng đùng nổi giận, bèn hỏi:
Ông ấy bây giờ ở đâu?
Người vợ đáp:
Đã bỏ đi rồi, nhưng chắc chưa xa lắm. Ông chồng vội mang cung, xách đao lần theo dấu vết tìm đến chỗ Sa Môn, định chém chết ông ta. Vị Sa Môn liền hóa ra tòa thành pha lê nhỏ vây bọc quanh mình.
Người chồng đi quanh mấy vòng không cách nào vào được, nên hỏi Đạo Nhân:
Này Đạo Sĩ, sao ông không mở cửa thành?
Sa Môn đáp:
Muốn mở cửa thành, ông hãy quăng bỏ cung đao đi.
Người chồng suy nghĩ:
Mình nên nghe lời ông ấy. Nếu vào thành, mình tay không cũng đủ sức đánh chết ông ta. Nghĩ vậy xong, ông quăng cung bỏ đao, song cửa thành vẫn không mở.
Ông thấy vậy nói với Sa Môn:
Tôi đã quăng bỏ cung đao đi rồi, sao cửa thành vẫn không mở?
Vị Sa Môn đáp:
Ta muốn nói ông hãy ném bỏ cung đao ác ý trong tâm, chớ không phải ném bỏ cung đao trong tay. Bấy giờ, người chồng trong lòng kinh sợ, không ngờ Sa Môn là bậc Thần Thánh biết được tâm mình.
Ông bèn dập đầu sám hối rồi bạch rằng:
Con có vợ tệ hại không biết bậc chân nhân, đã khiến con khởi ác niệm. Xin Ngài Từ bi tha thứ lỗi lầm. Nay con xin dẫn vợ đến sám hối, nghe lời khuyên dạy để biết tu đạo. Nói xong, người ấy đứng dậy ra về.
*
Người vợ đón chồng hỏi:
Ông Sa Môn ấy đâu rồi?
Người chồng bèn thuật lại đầy đủ oai đức thần thông của vị Sa Môn rồi khuyên:
Vị Sa Môn ấy vẫn còn ở đó, bà nên đến sám hối để diệt trừ tội lỗi.
Hai vợ chồng đến chỗ vị Sa Môn, năm vóc phủ phục sát đất đảnh lễ xin sám hối, nguyện làm đệ tử, rồi quỳ thẳng hỏi:
Ngài là bậc thần thông oai đức, có thể hóa ra thành pha lê kiên cố khó thể vượt qua, tâm định trí sáng, mãi mãi không còn sầu lo là thực hành đạo đức gì mà được như vậy?
Vị Sa Môn đáp:
Ta nhờ học rộng giáo pháp không biết nhàm chán, phụng hành chánh đạo không có giải đãi, tinh tấn trì giới tu tuệ không phóng dật, nên đạt đến Niết Bàn.
Bấy giờ vị Sa Môn liền nói kệ:
Đa văn: Sức kiên cố
Phụng pháp: bờ tường thành
Tinh tấn: khó phá vượt
Nhờ đó giới tuệ sinh.
Đa văn giúp sáng tâm
Tâm sáng, trí tuệ tăng
Có trí hiểu rộng nghĩa
Rõ nghĩa tu không lầm.
Đa văn hết ưu phiền
Luôn vui trong thiền định
Khéo nói pháp Cam Lộ
Đến được chỗ vô sinh.
Nhờ nghe, biết pháp luật
Hết nghi, thấy đạo chánh
Do nghe hết phi pháp
Tu đến bất tử thành.
Sa Môn nói kệ xong, hiện lại thân Phật, hào quang rực rỡ soi sáng cả đất Trời. Hai vợ chồng vừa kinh ngạc, vừa sợ hãi, hết lòng ăn năn cải ác, đảnh lễ Đức Thế Tôn. Nhờ đó, họ tiêu được hai mươi ức kiếp tội ác, đắc quả Tu Đà Hoàn.
*
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Bốn – Phẩm Đa Văn – Thí Dụ Mười Hai
Thuở xưa, Đức Phật trú tại Tinh Xá Mỹ Âm nước Câu Siểm Ni vì tứ chúng đệ tử giảng nói Chánh Pháp.
Lúc ấy, có một vị Bà La Môn thông minh học rộng, hiểu biết rất nhiều Kinh Sách, không việc gì mà không thông. Ông ta nhân đó cống cao ngã mạn cho là thiên hạ không ai bằng mình. Ông đi khắp nơi tìm người tranh luận, nhưng không ai dám đọ sức. Một hôm, giữa ban ngày ông cầm đuốc đi giữa chốn thị thành.
Người ta lấy làm lạ hỏi:
Ông vì sao ban ngày cầm đuốc đi đường.
Vị Bà La Môn đáp:
Trên đời đều là người ngu tối, mắt không trông thấy gì cả, cho nên ta cầm đuốc để soi sáng cho họ. Người đời nhìn ngó mà chẳng ai dám góp lời gì.
Đức Phật biết Bà La Môn có phước duyên đời trước đáng được độ, song nếu ông ta cống cao cầu danh, không nghĩ đến vô thường, cậy mình khinh người như vậy sẽ đọa vào địa ngục, vô số kiếp khó mong ra khỏi.
Ngài liền hóa ra một nhà Hiền triết ngồi giữa chợ, gọi vị Bà La Môn lại hỏi:
Vì sao ông lại làm như vậy?
Vị Bà La Môn đáp:
Vì mọi người ngu tối, ngày đêm không thấy ánh sáng nên tôi cầm đuốc soi rọi cho họ.
*
Nhà hiền triết lại hỏi:
Trong Kinh có nói đến bốn pháp sáng suốt, ông đã nghe qua chưa?
Đáp: Tôi chưa nghe qua.
Nhà hiền triết nói:
Bốn pháp đó là:
1. Hiểu thông thiên văn địa lý và sự điều hòa bốn mùa.
2. Hiểu thông tinh tú và sự vận chuyển ngũ hành.
3. Nắm vững cách trị nước an dân.
4. Nắm vững việc cầm quân chẳng để thất trận.
Ông là Bà La Môn có thông thạo bốn pháp này không?
Bà La Môn nghe nói trong lòng rất hổ thẹn, ném bỏ đuốc đi, rồi chắp tay cung kính, thầm biết rằng mình còn kém cỏi.
Đức Phật biết tâm ông đã thuần liền hiện lại thân Phật, hào quang rực rỡ tỏa khắp đất trời, rồi dùng giọng trong trẻo nói kệ:
Nếu hiểu biết chút ít
Tự cao, khinh khi người
Như đuốc, kẻ mù cầm
Người sáng, mình tối tăm.
Đức Phật nói kệ xong, bảo với Bà La Môn:
Không có ai ngu tối hơn ông ban ngày lại cầm đuốc đi vào đô thị. Sự hiểu biết của ông thật nhỏ nhoi, chưa bằng hạt bụi.
Bà La Môn nghe xong tỏ vẻ hổ thẹn, cúi đầu đảnh lễ xin làm đệ tử. Đức Phật nhận lời cho ông làm Sa Môn. Nhờ tâm trí khai sáng, vọng tưởng an định nên ông liền chứng quả A La Hán.
*
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Bốn – Phẩm Đa Văn – Thí Dụ Mười Ba
Thuở xưa, nước Xá Vệ có một vị đại Trưởng Giả tên là Tu Đạt đã chứng quả Tu Đà Hoàn. Bạn ông là Trưởng Giả Hiếu Thí lại không tin Đạo Phật và các y thuật. Một hôm, Trưởng Giả Hiếu Thí lâm trọng bệnh nằm liệt trên giường.
Thân thuộc và bạn bè nghe tin đến thăm, khuyên ông nên trị bệnh, nhưng ông khăng khăng dầu chết cũng không chịu.
Ông trả lời với mọi người:
Tôi thờ mặt Trời, mặt Trăng, trung với Vua, hiếu với cha. Tôi nguyện theo suốt đời, dầu chết cũng không đổi chí.
Trưởng Giả Tu Đạt nói:
Thầy tôi chính là Đức Phật, oai đức khắp nơi, ai gặp đều được lợi ích. Anh hãy thử thỉnh Ngài đến giảng Kinh, chú nguyện. Nghe được lời Phật dạy sẽ cải thiện ngôn hành, không giống với các đạo khác đâu.
Còn việc theo hay không theo, đó là tùy ở ý anh. Anh bệnh lâu ngày như vậy, biết đâu nhờ phước thỉnh Phật sẽ được thuyên giảm.
Hiếu Trí đáp:
Tốt lắm, xin anh hãy thỉnh Phật và chúng đệ tử giùm tôi. Trưởng Giả Tu Đạt liền thỉnh Phật và Tăng Chúng. Đức Phật đến trước cửa nhà Trưởng Giả Hiếu Thí bèn phóng hào quang soi khắp trong ngoài. Hiếu Thí thấy được ánh sáng tâm sinh hoan hỷ, thân thể nhẹ nhõm.
*
Đức Phật đến trước Hiếu Thí ngồi xuống, rồi an ủi thăm hỏi:
Ông bệnh ra sao?
Trước giờ tin thờ vị Thần nào và đã trị liệu gì chưa?
Trưởng Giả thưa:
Bạch Đức Phật, con phụng thờ mặt trời, mặt trăng, vua chúa, Tổ Tiên. Con từng kính giữ trai giới cầu cúng đủ điều. Thế nhưng nay bị bệnh đã lâu mà vẫn chưa được ân cứu giúp.
Còn việc y dược, châm cứu là điều gia đình kiêng kỵ. Đến như việc tu học Kinh Giới, gây tạo phúc đức chúng con vốn không biết gì. Từ Tổ Tiên truyền đến nay, gia đình con đều tuân thủ nghiêm ngặt như thế.
Đức Phật nói với Trưởng Giả:
Người sống ở đời có ba trường hợp bị chết oan:
1. Có bệnh không điều trị.
2. Điều trị không cẩn thận.
3. Không biết phải trái, tự tiện điều trị bừa theo ý ngoan cố của mình.
Bệnh này không thể nhờ vào mặt Trời, mặt Trăng, Trời Đất, Tổ Tiên, Vua chúa hay cha mẹ mà có thể trị lành bệnh. Phải sáng suốt hiểu đạo, tùy thời trị liệu cho được an ổn. Tứ Đại bất hòa nóng lạnh thì cần y dược. Bị tà ma nhiễu loạn thì cần tu niệm Kinh Giới.
Phụng thờ các Bậc Hiền Thánh, thương yêu cứu giúp khổ nạn chúng sinh, đem oai thần phước đức bảo bọc quần sinh, dùng đại trí tuệ diệt trừ ấm cái.
*
Ông nếu làm được như vậy thì đời này sẽ được sống an lành, không bị chết oan. Nhờ giới đức trí tuệ thanh tịnh, nên đời đời thường được an ổn.
Rồi Đức Thế Tôn nói kệ:
Thờ mặt trời vì sáng
Thờ cha vì nghĩa ân
Thờ vua vì uy lực
Thờ thầy vì nghe đạo.
Cầu y sĩ vì mạng
Dựa cường hào vì hơn
Hiểu pháp nhờ trí tuệ
Tu phước đời đời vui.
Xét bạn: xem việc làm
Rõ bạn: lúc nạn gấp
Hiểu vợ: khi hoan lạc
Biết kẻ trí: qua lời.
Là thầy giỏi thấy đạo
Giải nghi, giúp trò hiểu
Dạy cho pháp thanh tịnh
Giữ gìn được pháp tạng.
Nhờ nghe hiện đời lợi
Cả vợ con, anh em
Đời sau cũng lợi ích
Nghe nhiều thành Thánh trí.
Thu nhiếp nhờ hiểu nghĩa
Hiểu nghĩa giới trang nghiêm
Người thọ pháp hành trì
Nhờ đó bệnh được an.
Được vậy, hết giận sầu
Cũng không có tai ương
Muốn an ổn kiết tường
Hãy thờ người học rộng.
Bấy giờ Trưởng Giả nghe Đức Phật Thuyết Pháp, những nghi ngờ liền dứt sạch như mây mù tan tác. Ông cho mời lương y đến trị bệnh và chuyên tâm tu học đạo.
Nhờ vậy Tứ Đại điều hòa, bệnh tật không còn, như uống nước cam lộ, trong ngoài khoan khoái, thân tâm an định, đắc quả Tu Đà Hoàn. Thân thuộc và người trong nước ai nấy đều kính nể ông.
*
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Bốn – Phẩm Đa Văn – Thí Dụ Mười Bốn
Thuở xưa, phía Nam nước La Duyệt Kỳ có một núi lớn cách thành hai trăm dặm. Các nước phía Nam đường đi đều ngang qua ngọn núi sâu thẳm này. Trong núi có năm trăm tên cướp dựa vào địa thế hiểm trở để cướp bóc.
Về sau chúng lại lộng hành gây hại tanh bành, khiến các thương buôn bị cướp không dám đi qua. Giao lộ chính do đó bị tắc nghẽn. Quốc vương đã nhiều lần đem binh truy quét bọn chúng nhưng vẫn không bắt được.
Bấy giờ Đức Phật đang giáo hóa ở trong nước. Ngài thương xót chúng sinh, nghĩ rằng bọn cướp kia không biết tội phước, cho nên đời có Như Lai mà mắt họ không trông thấy, pháp vang rền mà tai họ không nghe. Ta nếu không đến hóa độ, họ sẽ mãi mãi sa đọa như đá chìm dưới vực sâu.
Vì vậy Đức Phật liền hóa ra một người ăn mặc đẹp đẽ cỡi ngựa đeo kiếm, tay cầm cung tên. Con ngựa được thắng yên vàng, dàm nạm bạc, lại có đeo viên ngọc Minh nguyệt trên mình. Người ấy cỡi ngựa thúc chạy vào núi. Bọn cướp trông thấy mừng rỡ vì gặp được món bở.
*
Chúng nghĩ:
Mình nhiều năm ăn cướp mà chưa gặp được món hàng nào đắc giá như vậy.
Với sức một người mà chống lại chúng ta có khác chi lấy trứng chọi đá?
Suy nghĩ như vậy nên cả bọn đều kéo ra chặn ngựa lại, rồi bao vây rút đao giương cung định trấn lột. Lúc ấy người được hóa ra liền giương cung bắn, múa kiếm chém khiến mỗi tên cướp đều trúng tên và mang thương. Vì mũi tên sâu, vết thương nặng nên cả bọn đều té lăn lộn trên đất.
Năm trăm tên cướp lần lượt dập đầu xin quy hàng, thưa:
Ngài là Thần Tiên phương nào mà oai lực như vậy?
Xin Ngài hãy tha cho chúng con được sống. Chúng con bị thương, đau nhức không chịu đựng nổi, xin mau hãy nhổ tên, trị lành vết thương cho chúng con ngay.
Người được hóa ra đáp:
Vết thương này chưa phải nặng, mũi tên này chưa phải sâu. Trong thiên hạ, vết thương nặng nhất không gì hơn lo âu. Tàn hại lớn nhất không gì hơn ngu muội. Các ngươi mang mối lo âu do lòng tham cầu, tâm ngu muội do ham giết hại thì đao thương độc tiễn này rốt lại không thể chữa khỏi.
*
Gốc rễ của hai thứ này rất sâu chắc, dầu kẻ lực sĩ mạnh mẽ cũng không nhổ nổi. Chỉ có giáo pháp giới luật, đa văn trí tuệ mới có thể trị lành tâm bệnh, nhổ sạch buồn, yêu, ngu si, cống cao.
Hãy chế phục tham dục mạnh mẽ và gây tạo phước đức, tu học trí tuệ mới có thể trừ được các tai họa trên, mãi mãi được an ổn.
Bấy giờ hóa nhân liền hiện lại thân Phật sắc vàng thù diệu và nói kệ:
Sầu lo, vết thương nặng
Ngu muội, mũi tên sâu
Dầu mạnh không nhổ nổi
Đa văn trừ được thôi.
Mù từ đó được mắt
Tối từ đó được đèn
Ai dạy bảo thế gian
Như người sáng dẫn lòa.
Vậy hãy dứt si mê
Bỏ giàu sang kiêu mạn
Siêng học bậc Đa văn
Đó là tích tụ đức.
Bấy giờ năm trăm tên cướp thấy hào quang Đức Phật, lại được nghe kệ khai thị nên đảnh lễ Quy Y, hết lòng ăn năn chừa đổi. Do đó vết thương họ cũng tự nhiên lành lại. Họ vô cùng hoan hỷ, tâm trí khai thông, thọ trì Ngũ Giới. Từ đó trong nước trở lại yên bình, nhân dân ai cũng hoan hỷ.
(Kinh Pháp Cú Thí Dụ – Hết Phẩm Bốn)
vu viết
PHẬT THUYẾT KINH PHÁP CÚ THÍ DỤ
Phẩm Mười Chín – Phẩm Ác Hạnh – Thí Dụ Ba Mươi Chín
Phẩm này không đúng, bị lặp nhé ad.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm đã sửa lại, cảm ơn bạn!