Hòa Thượng Tuyên Hóa: 39. Lục Tổ đoán trước
Có một hôm, lúc Hòa Thượng ngồi thiền thì thấy Lục Tổ Đại Sư Huệ Năng. Lục Tổ bảo Hòa Thượng rằng trong tương lai Hòa Thượng sẽ đến Tây phương hoằng dương Phật pháp, năm tông sẽ chia thành mười tông, sẽ gặp vô số người, giáo hóa chúng sanh nhiều như cát sông Hằng, không thể tính đếm được; Lúc đó là bắt đầu Phật giáo chân chánh ở phương Tây. Nói xong Ngài biến mất, khi ấy Hòa Thượng mới chợt nghĩ ra: “Ồ! Phải chăng Lục Tổ là người ở đời Đường?” (Ghi chú: Lục Tổ Đại Sư nhập Niết Bàn vào năm 713 Tây lịch)
Như nay lời tiên đoán của Lục Tổ đã ứng nghiệm, Hòa Thượng đã đem đại pháp truyền sang Tây phương, giáo hóa rất nhiều người Tây phương xuất gia tu đạo. Hòa Thượng là vị đầu tiên kiến lập Tam Bảo tại Tây phương.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Có một hôm, cũng không phải là ban ngày và cũng không phải là ban đêm, tức ngay lúc trời vừa nhá nhem tối, Lục Tổ Đại Sư đến.
Tôi thấy có một vị Hòa Thượng tới, mặc áo tràng xám, khoảng 50-60 tuổi. Ngài nói các đạo lý, dạy tôi cách tu hành, bảo rằng: “Tương lai con sẽ đến nước Mỹ, gặp các người như vậy vậy… Xong, Ngài hốt nhiên biến mất. Lúc đó tôi cũng không phải ngủ mơ mà lại thấy được Lục Tổ, thật kỳ diệu thay!”
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 37. Y nguyện cứu người
Trong khoảng thời gian Hòa Thượng ở mộ phần, phàm có người bị bệnh nan y tới cầu và nếu họ thành tâm tức sẽ được cảm ứng, đều được mãn nguyện. Như bà Trương Lý Thị hơn 40 tuổi bị chứng nôn mửa đã bốn năm, bà đi nhiều thầy nhưng không hiệu quả. Nghe nói Hòa Thượng trị bịnh diệu kỳ, bà vội đến chòi quỳ bái cầu cứu.
Hòa Thượng giải thích tường tận đạo lý làm người và nguyên do căn bịnh của bà. Bà bèn sám hối, kiền thành niệm Phật. Từ đó bà ta mỗi ngày đảnh lễ Hòa Thượng, trải qua 21 ngày, bà không uống thuốc mà hết bịnh.
Ở vùng Nhị Đạo Câu, phía sau thôn Bình Phòng có bà họ Trương bị bịnh tay chân tê liệt đã ba năm. Nghe nói Hòa Thượng trị bịnh linh nghiệm, bà đi xe đến trước chòi xin được chữa bịnh.
Hòa Thượng Tuyên Hóa nói: “Tôi không hiểu y học! Nếu bà muốn khỏi bịnh, chỉ có thể dựa vào lòng thành và phải sửa đổi hướng thiện, đồng thời ăn trai và niệm Phật, tất sẽ có cảm ứng.”
*
Bà ta nghe Hòa Thượng khai thị, cung thỉnh một tấm hình Hòa Thượng để thờ trong nhà, mỗi ngày đều lễ bái, qua 100 ngày sau, bà được lành bịnh. Sau đó cả nhà bà đều đến quy y, phát nguyện cúng dường Tam Bảo, dốc lòng làm việc thiện.
Tại thôn Bát Gia Tử có ông Đái Quốc Hiền bị bịnh phổi bất trị. Quá tuyệt vọng, ông cầu Hòa Thượng cứu mạng. Hòa Thượng dạy ông chí thành xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, và phát nguyện không sát sanh, ăn chay. Ông Đái Quốc Hiền hoan hỉ tín thọ. Hòa Thượng quán đảnh cho ông, ông cảm thấy thân tâm thanh lương, mát mẻ, tinh thần sảng khoái.
Từ đó ông quy y Tam Bảo cùng kiền thành trì tụng chú Đại Bi và không ngừng xưng danh hiệu Quán Thế Âm nên ông đã được lành bịnh như nguyện. Ông Vương Phụng Nghi ở đồn Đông Tỉnh Tử, cả nhà đều quy y Hòa Thượng.
*
Con ông Phụng Cửu (em ông Phụng Nghi) bị bịnh nặng, Phụng Cửu quỳ trước bàn Phật đảnh lễ cả một tuần lễ cầu Hòa Thượng cứu cho con ông. Một ngày nọ, ông mộng thấy Hòa Thượng tới, cho đứa con một viên thuốc, ông Phụng Cửu tỉnh mộng, đứa nhỏ quả nhiên lành bịnh. Do đây mà nhiều bà con thân hữu của ông đến quy y Tam Bảo.
Lúc Hòa Thượng thủ hiếu bên mộ mẹ thì có một bà bệnh nhân tìm tới. Đang thời Hòa Thượng còn để tóc dài chấm lưng, Ngài bèn cắt mớ tóc đó cho bà làm đầu tóc giả, nói: “Bà giữ đầu tóc này và nhớ niệm Phật tức bịnh của bà từ từ sẽ khỏi.” Sau đó bà ta được lành bệnh.
Có một em bé đang chơi dưới đất bỗng bị con rết chui vào lỗ tai. Mặt bé biến sắc trắng nhợt, em bé ôm đầu la khóc không ngừng. Người nhà lập tức bồng bé chạy đến tìm Hòa Thượng. Ngài bèn niệm chú Quân Tra Lợi Bồ Tát cầu gia hộ và em bé mới không hề hấn gì.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 38. Từ bi cứu sản phụ
Bà họ Đường sanh nở khó khăn, gần kề cái chết! Người nhà tới cầu cứu Hòa Thượng, quỳ mãi không chịu đứng dậy. Hòa Thượng dặn bảo cả nhà thắp hương, xưng niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát, phát nguyện mỗi năm ăn chay 100 ngày tức có thể sanh nở bình an. Họ trở về nhà, y theo lời dạy, nạn khó sanh của sản phụ này cuối cùng được hóa giải.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Người nữ khi sanh con, có người rất khó sanh, cả ngày cũng không sanh được, hai ngày cũng chưa sanh, thậm chí đến ba ngày, năm ngày đều không sanh được, cho nên rất là đau khổ! Tại sao lại như thế? Vì có yêu ma quỷ quái tới chướng ngăn rồi hành cho đau đớn vô cùng. Tôi nhớ lúc ở mộ phần thủ hiếu, gặp một sản phụ họ Đường, đã chuyển bụng ba ngày nhưng không sanh con được.
Người nhà bà đến mộ phần hỏi tôi làm sao cho dễ sanh? Tôi bèn dạy họ niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và chú Đại Bi. Về nhà, họ niệm không bao lâu, thì người sản phụ sanh được, nhưng thai nhi đã chết, người mẹ vẫn mạnh, bình an không sao. Đây đều có sự đặc biệt cảm ứng của Bồ Tát Quán Thế Âm.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 39. Người đỗ Tú Tài quy y
Chỗ Hòa Thượng thủ hiếu vốn là một chòi rơm bên cạnh bãi tha ma hoang vắng, nhưng người người lui tới cầu gặp Hòa Thượng không ngớt, và rồi cảnh chòi rơm nhỏ đã biến thành chỗ dân làng tôn sùng. Dân chúng xa gần đều vì hâm mộ mà tới quy y hơn 2000 người. Trong số đó có một vị Tú Tài đời Thanh là Cốc Giới Ba.
Ông nghe nhiều học rộng, có căn bản quốc học thâm sâu. Ngay đang lúc thời đại văn hóa cũ-mới giao đổi đó, mà ông thuộc hạng Tú Tài “không cần ra cửa mà vẫn biết chuyện thiên hạ” nên được người quý trọng và những người trí thức cũng rất kính nể ông ta. Thường ngày ông đi dạy học, tuy có nghiên cứu Phật pháp nhưng ông chưa nắm vững yếu lĩnh.
Ông nghe nói về sự tu trì của Hòa Thượng, nên có ý muốn tìm đến thăm dò, thỉnh điều lợi ích. Hòa Thượng bảo cho ông yếu chỉ của việc tu hành cùng pháp môn tâm địa bất lập văn tự. Lãnh nhận lời dạy xong, tâm ông hoan hỉ khâm phục liền quy y Hòa Thượng, Dân Quốc năm thứ 32 (1943) ông Cốc Giới Ba qua đời với sắc mặt tươi tỉnh như lúc còn sống.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 40. Khai mở trí huệ
Thôn lân cận có một chú học trò họ Đường 14 tuổi, thân nhiều bịnh tật, đầu óc cũng không được sáng suốt, học bài hoài mà không thuộc, cha mẹ em và thầy giáo cũng đều chịu thua. Em nghe bà con trong thôn xóm tán thán Hòa Thượng trí huệ siêu phàm, nên sanh tâm kính mộ.
Có một hôm, em rủ bạn học tất cả 16 đứa, hẹn nhau đến gặp Hòa Thượng, cầu xin quy y Tam Bảo; Bái Hòa Thượng làm Thầy, và khẩn cầu Hòa Thượng từ bi, khai mở trí huệ cho các em học bài mau thuộc. Hòa Thượng từ bi truyền dạy pháp học thuộc bài: “Ba tới: tới mắt, tới miệng, tới tâm” và “Ba trên: Trên đường, trên cầu, trên gối”. Bọn học trò nghe lời dạy, hết lòng lãnh hội.
Sau khi trở về, quả nhiên chúng đều khai mở trí huệ. Cha mẹ cùng thầy giáo đều khó tin về sự tiến bộ của bọn chúng. Từ đó bọn học trò cầu xin quy y Hòa Thượng ngày càng thêm nhiều.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 41. Ăn Mày học cách tạo mạng
Có một gã ăn mày là Kỷ Đại Phúc, cũng tới lui chòi rơm lễ bái Hòa Thượng. Gã thỉnh vấn Hòa Thượng: “Tại sao đời này con lại bần cùng như vầy?”
Hòa Thượng giảng giải đạo lý nhân quả ba đời, và nói với gã: “Trong Kinh Thư nói: Do nhân gì đời nay được phú quý? Là bởi đời trước trai tăng, bố thí người nghèo; Do nhân gì mà đời này chịu cảnh nghèo hèn? Là bởi đời trước keo kiết, không muốn cứu tế người nghèo.”
Kỷ Đại Phúc nói: “Con thường tự nghĩ, con đã không làm chuyện gì thiếu lương tâm, mà giờ đây bị cảnh cùng khốn phải đến từng nhà xin ăn. Vậy chắc là do đời trước con đã keo kiệt, bủn xỉn, không biết bố thí. Ngài có biện pháp nào cứu vãn cho đời sau này của con không?”
*
Hòa Thượng đáp: “Quân tử học cách tạo mạng, chỉ cần ông bắt đầu từ đây, nỗ lực làm việc thiện, quảng tích âm đức; Tức ông có thể tự tạo cho mình một vận mạng mới, vậy thì có phúc nào mà cầu không được? Ngày xưa có vị Chu Kỳ, cũng là ăn mày, nhưng từ lúc ông ta hiểu rõ đạo lý nhân quả báo ứng; Rồi nỗ lực tích lũy công đức, tu tạo cầu Song Thiện, mà đời sau ông đầu thai trong nhà Đế Vương, thọ hưởng tôn vinh phú quý ở ngôi vị Thái Tử. Đây chẳng phải là đã tự cứu vãn vận mạng của mình hay sao?”
Kỷ Đại Phúc nghe xong rất đỗi vui mừng, phát nguyện từ đây sẽ tích thiện tu đức và thỉnh cầu quy y Tam Bảo. Từ đó về sau, lúc đi xin ăn, miệng ông niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” không gián đoạn. Khi xin được tiền, gạo, ông đem tế bần giúp người và qua nhiều năm tháng ông đều làm thiện như vậy không tiếc sức lực.
Vào mùa Đông năm Dân Quốc thứ 29 (1940) , ông biết trước ngày vãng sanh mà an tường qua đời trong tiếng niệm Phật.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 42. Giáo hóa một bà hung tợn
Trong thôn Hòa Thượng, có một bà tên Viên Mộ Hàng, nổi tiếng ngang ngược hung hăn. Bà không những bất kính chồng, lại còn đánh mắng cha mẹ chồng; Vừa bất hòa với chị em dâu và còn hung dữ với hàng xóm láng giềng. Trừ các việc này ra, bình thường bà ta bất kính quỷ thần; Lại còn có ác ý hủy báng, càng không nói tới đạo lý nhân quả.
Nói chung, chuyện tốt thì bà không duyên, nhưng chuyện xấu thì đều có phần. Người trong làng đều coi bà như là “Mụ Cọp Cái.” Có một ngày, bà theo người ta đến nơi Hòa Thượng thủ hiếu. Thấy Hòa Thượng ngồi kiết già, chắp tay, mặt hướng phía Tây miệng niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật” không ngừng.
Thấy thế bà rất thắc mắc, bèn hỏi Hòa Thượng: “Ông đang làm gì vậy?”
Hòa Thượng đáp: “Vì báo đáp ân mẹ dưỡng dục, nên tôi niệm Phật cầu cho bà được siêu thoát, hy vọng mẹ tôi sớm được vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới. Thế mới làm tròn bổn phận làm con phần nào.”
Bà Viên Mộ Hàng vốn đã không tin quỷ thần, nên nghe xong bà càng nghi ngờ, hỏi vặn Hòa Thượng: “Con người chết rồi, thật là có thể biến thành quỷ à?”
*
Hòa Thượng đáp: “Không cần thiết phải chờ đến chết mới thành quỷ? Có một số người lúc sống mà có tâm quỷ, nói lời quỷ, làm việc quỷ, vậy họ cùng quỷ có gì sai biệt? Nếu ai sân hận người tức y là quỷ mặt đỏ, oán người là quỷ mặt vàng; Não người là quỷ mặt trắng, giận người tức là quỷ mặt xanh, phiền người tức là quỷ mặt đen.
Nếu như xử sự với người bằng hận, oán, não, nộ và phiền tức là có năm con quỷ náo loạn trong nhà. Gia đình tuyệt đối không bình an, không những bị hao tài tốn của mà còn rước họa vào nhà.”
Hòa Thượng nói thêm với bà rằng: “Tâm người là thần, thần tức là tâm. Hễ làm việc gì mà không thấy hổ thẹn với lương tâm, tức là biết kính trọng thần. Còn như làm điều trái ngược với lương tâm, cũng tức là lừa dối thần. Như thế, chết rồi sẽ đọa vào địa ngục, chịu đủ các loại thống khổ. Lúc đó bà muốn thoát ra địa ngục cũng dài đăng đẳng không kỳ hạn!
Vì chúng sanh bội giác hợp trần, mê chân mà đuổi theo vọng, nên tương lai sẽ bị quả báo. Nếu có thể quay mặt với trần lao mà hợp với giác ngộ, xả vọng quy chân, thì cùng giống Phật không khác. Tức viễn ly sáu nẻo luân hồi, liễu sanh thoát tử.”
*
Bà Viên Mộ Hàng vừa nghe, quá đổi kinh hoàng nói: “Tôi lúc trước không biết bổn phận và đạo lý làm người. Cũng không tin nhân quả báo ứng, một mực làm xằng làm bậy. Nay mong Thầy từ bi chỉ dạy, mới biết tội nghiệp mình thâm trọng, sợ rằng ăn năn hối lỗi không kịp nữa.”
Nói xong, Bà khóc ròng và quỳ xuống cầu khẩn Hòa Thượng cứu độ bà. Hòa Thượng nói: “Bà tất nhiên biết lỗi lúc trước, đây là lương tâm của bà đã phát hiện để nảy mầm thiện căn. Thôi bà đừng quá bi ai! Vì là người chớ không phải là Thánh Hiền, nên ai mà không có lỗi?
Chỉ cần bà thành tâm sám hối, tức sẽ tiêu trừ tội nặng. Bao nhiêu chuyện cũ bà thí như đã chết ngày hôm qua rồi. Khi sửa lỗi xong, bà nên làm việc thiện, hiện thân người tại gia hoằng dương Phật pháp; Khuyên người làm thiện, quy y Tam Bảo. Đến khi công đức bà được viên mãn, tất có thể tiêu trừ các tội xưa.
Tại sao? Bởi vì người đại ác nếu có thể sửa đổi quay đầu tức là đại thiện. Còn người đại thiện mà tạo tội, cũng giống như là đại ác.” Bà Viên Mộ Hàng nghe lời dạy xong, ngừng khóc mĩm cười. Bà hoan hỷ đảnh lễ Hòa Thượng ba lạy, cầu xin quy y.
*
Sau khi quy y Tam Bảo, bà Viên Mộ Hàng không những quyết tâm sửa đổi tội xưa, mà còn ăn chay, niệm Phật. Bà đi khắp nơi hoằng pháp, khuyến hóa người đời suốt cả 10 năm không biết mỏi mệt. Có hơn 800 người đã được bà cảm hóa mà quy y Hòa Thượng. Bạn bè, dân làng thấy bà khác hẳn với lúc trước như hai người khác nhau. Bây giờ bà đã trở thành người hiền nên mọi người tôn xưng bà là “Quán Âm tiếp dẫn”.
Năm Dân Quốc thứ 33 (1944) khoảng cuối tháng 8, bà nói trước với người nhà bà rằng: “Tôi vốn gây tội ác nặng nề, nhưng vì quy y Tam Bảo, sửa lỗi hướng thiện; Tạo công đức khuyến hóa người đời, nên Sư Phụ bảo tôi vào ngày 19 tháng 9 sẽ là ngày tốt cho tôi vãng sanh Tịnh Độ. Các người chớ có bi thương, đến giờ đó chỉ cần giúp tôi niệm Phật là được!” Quả nhiên vào ngày 19 tháng 9, bà chắp tay mỉm cười qua đời trong tiếng niệm Phật. Bà hưởng thọ được 69 tuổi.
Lê Đình Sứng viết
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Ngọc viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Hôm nay con đọc đến trang 4 rồi, hay lắm luôn. Cảm ơn thầy tuệ tâm nhìu ạ!!!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!