Hòa Thượng Tuyên Hóa: 56. Xuất gia phát hoằng nguyện
Ba đại nguyện của Hòa Thượng khi xuất gia: Thành lập giáo dục trong Phật giáo, Phiên dịch kinh điển và Kiến lập Phật giáo cơ bản ở Hoa Kỳ. Để thực hiện ba đại nguyện nầy, Hòa Thượng lập ra ba đại tông chỉ, sáu điều mục. Ngài không sợ gian khổ, kiến lập đạo tràng tại Tây phương hầu tiếp dẫn và quảng độ giáo hóa chúng sanh.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Trước khi xuất gia, tôi đã từng tham gia các buổi Thánh Lễ của Thiên Chúa Giáo, Giê Su Giáo. Tôi cảm thấy Thiên Chúa Giáo và Giê Su Giáo rất thịnh hành và có nhiều tín chúng. Vì Thánh Kinh được dịch ra các văn tự ngôn ngữ khác dễ hiểu, cho nên đa số người ta dễ tiếp thọ giáo lý, vì vậy toàn thế giới ở đâu cũng có giáo đường và giáo đồ của họ.
Ý nghĩa của Phật giáo tuy rất viên mãn, nhưng không có nhiều người tin, vì kinh điển không được dịch thành văn tự của Tây phương. Kinh Điển chỉ là chữ Hoa và chữ Phạn nên không được phổ biến. Vì vậy, khi tôi xuất gia, tôi phát nguyện đem các kinh tạng dịch ra các ngoại ngữ trên thế giới. Nhưng tôi học ít, chỉ học có hai năm rưỡi và ngôn ngữ ngoại quốc của tôi như “thổi lửa bằng cây cán bột,” nên chẳng thông chỗ nào.
*
Tôi không biết tiếng ngoại quốc, lại không có trí huệ, vậy làm sao thực hiện đây? Nhất là công việc phiên dịch kinh điển, phải có Quốc Vương, Đại Thần hợp lực ra sức thúc đẩy mới thành. Nếu chỉ dựa vào lực lượng của dân chúng thì làm sao thực hiện được. Tuy làm không được, nhưng khi tôi xuất gia, tôi luôn tâm niệm đem các tạng kinh dịch thành ra tiếng ngoại ngữ. Các vị nào có khả năng phiên dịch kinh điển thì hãy hộ trì cho tôi hoàn thành nguyện lực này.
Ngoài ra, tôi lại muốn kiến lập giáo dục, vì Thiên Chúa Giáo và Giê Su Giáo chú trọng về giáo dục nên ở đâu họ cũng có trường học Thiên Chúa Giáo và Giê Su Giáo. Hơn nữa, đối tượng của họ là giới thanh niên, thế hệ trẻ, khiến các thanh thiếu niên rất tôn sùng đạo. Vì nền giáo dục của Phật Giáo không bằng họ, nên tôi muốn thực hiện nền giáo dục Phật Giáo. Nếu tôi không làm được hai việc này thì đến chết tôi cũng không nhắm mắt.
Khi tôi xuất gia, tôi lập chí muốn đem Phật Giáo truyền đến toàn thế giới. Nơi nào không có Phật pháp, tôi muốn nơi đó có Phật pháp, hơn nữa phải là Chánh Pháp. Hiện tại tôi đã đạt đến mục đích chưa? Còn chưa đạt đến, không những chỉ thế giới này mà năm châu này đều phải có Phật pháp, nhưng đó cũng vẫn là chỗ rất nhỏ. Đợi đến khi tất cả thế giới đều có Phật pháp, lúc đó chí nguyện của tôi mới thành tựu.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 57. Noi gương làm lành
Hòa Thượng rời Trung Quốc rất lâu, đương thời cư sĩ hộ pháp chùa Tam Duyên là Lý Cảnh Hoa và Trình Thiên Hy đều trở thành người thiên cổ. Hòa Thượng đã trước thuật “Thủy Kính Hồi Thiên Lục” vẫn đặc biệt viết bài kỷ niệm hai vị đó, khiến thiện duyên hộ pháp và công đức của họ được trường tồn.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Lão cư sĩ Lý Cảnh Hoa có dáng người cao lớn, ông là Đông Y Sĩ. Ông ta tin Phật, ăn chay niệm Phật lại nhiệt tâm làm thiện. Lúc ông ta bốn mươi mấy tuổi vẫn chưa có con. Hai ông bà rất thành tâm đến chùa Tam Duyên, cầu phương trượng, Hòa Thượng Thường Nhân cho ông bà một đứa con. Hòa Thượng phương trượng từ bi mãn nguyện của ông bà. Năm sau quả thật họ sanh được một bé trai đặt tên Lý Điện Tuyển. Do vậy, lão cư sĩ Lý Cảnh Hoa rất sùng bái, rất tin tưởng Phương Trượng.
Ông ta thấy tôi lúc đó còn trẻ, chỉ là một Sa Di trong chùa mà Hòa Thượng phương trượng tuyển chọn tôi làm Thủ Tọa, lại có rất nhiều người tin tôi, ông ta đã không phục nói: “Chú tuổi trẻ như vậy, sao có nhiều người tin chú đến thế?” Có người tin tôi là ông ta có vẻ đố kỵ.
*
Tôi và Lý Lão cư sĩ quen biết rất thân ở Đông Bắc. Tôi cũng có ghé qua nhà ông ta. Tuy ông ta đối với tôi vẫn tốt đấy, nhưng trong thâm tâm còn có chút gượng gạo. Suốt cuộc đời, ông ta chịu nhiều gian nan nghịch cảnh, tuy chịu khổ nhưng ông vẫn ăn chay.
Mùa Xuân năm 1985 Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới phái một đoàn nữ chúng đi Trung Quốc triều bái Tứ Đại Danh Sơn. Thuận đường họ ghé vào thăm vị lão cư sĩ đồng hương này. Vì Lý Cảnh Hoa và tôi có liên lạc thư từ, cho nên tôi biết địa chỉ của ông ấy, lúc đó ông đã 88 tuổi, và ông vẫn còn nhớ chuyện xưa, nghe nói tôi sẽ về Trung Quốc, ông rất mũi lòng ở nhà thúc thít khóc.
Khi phái đoàn phỏng vấn tới, Lão cư sĩ quỳ trước cửa nhà đón tiếp, miệng nói “Phật sống tới rồi. Hoan nghinh Phật sống trở về đây!” rồi khóc sướt mướt rất thành khẩn. Sau đó không thấy tôi, ông rất thất vọng, nói: “Tôi tưởng Thầy ấy về, ai dè Thầy không về!” Rồi ông ta lại khóc nữa, khiến cho phái đoàn rất cảm động và lúng túng. Vài tháng sau đó, ông bảo con ông là Lý Điện Tuyển phải thành tâm tin Phật, phải trung hậu đối với mọi người và nhiệt tâm làm các việc thiện. Rồi không lâu sau, ông ta an tường vãng sanh.
*
Trình Thiên Hy và Lý Cảnh Hoa là bà con với nhau. Lý Cảnh Hoa ở Khu Tiền Hưng Long Câu. Trình Thiên Hy ở Khu Hậu Hưng Long Câu, cũng tin Thường Nhân Đại sư, và có mối quan hệ rất thâm sâu với chùa chúng tôi. Tôi thường ở nhà ông ta ở vài ngày, lúc đó tôi còn là Sa Di. Mẹ ông ấy ở góa khi còn trẻ. Lúc trẻ ông ta ăn nhậu cờ bạc, mọi người đều gọi ông là Trình “Ba Gai”.
Đợi đến lúc ông thức tỉnh và vì báo đáp ơn mẹ, ông ta bèn cải tà quy chính, từ đó ông nhiệt tâm làm việc từ thiện. Ông có hai bà vợ đều tin Phật. Lúc tôi biết ông, ông được đề cử làm Hội Trưởng Hội Đạo Đức tại thành phố Harbin. Đa số người ta gọi Lão cư sĩ Trình Thiên Hy là Trình Thiện Nhân vì ông ta rất thích giúp đỡ người nghèo.
Ngày xưa là Trình “Ba Gai” là kẻ ác ôn, về sau là Trình Thiện Nhân là người mẫu mực của giới từ thiện cũng là Phật tử kiền thành. Cho nên những điều xấu ngày xưa, ví như đã chết hôm qua và làm các việc thiện về sau ví như mới sanh ra ngày hôm nay vậy. Có một năm nhà của ông náo loạn lên vì có ma. Nơi đó có một gã đàn ông bị tà ma nhập, cả ngày từ sáng tới tối gã ta cứ la lối muốn đốt nhà của ông. Lão cư sĩ Trình hoảng sợ, hôm 30 Tết bao xe tới chùa, cầu Hòa Thượng phương trượng đi trị tà.
*
Hòa Thượng phương trượng liền đẩy qua tôi, nói: “Chú đi đi! Lão cư sĩ Trình cống hiến cho chùa chúng ta rất nhiều, hiện tại gia đình ông ta đang gặp nạn, chú hãy đến nhà của ông ta xem sao.” Tôi đến đó đứng ở phía Nam, gã bị ma nhập đang đứng ở phía Bắc. Gã lấy tay che mắt nhìn tôi, người nhà hỏi gã “Tại sao ông lại nhìn như vậy?” Gã đáp: “Sao mà chói quá vậy, tôi không mở mắt ra được!” Từ đó về sau gã đó không còn muốn phóng hỏa nữa và như vậy là hết tà ma luôn. Các vị thấy, đây có phải là tà ma không?
Lúc đó tôi chỉ khoảng 22 tuổi, Sa Di mặc áo rách, chỉ là một chú tiểu mới xuất gia. Trình Thiên Hy đối với tôi rất tốt, tôi có đến nhà ông ta, ông ấy thường hay đảnh lễ tôi. Con cháu bà con thân thích của ông đều quy y tôi, tôi không nhận cũng không được.
Ghi chú: Năm 1985, lúc ghi âm lại cuộc đàm đạo của Hòa Thượng ở Vạn Phật Thánh Thành với các vị bô Lão ở Đông Bắc, Ngài đã từng đề cập: Tôi ở Đông Bắc, sau khi xuất gia tôi ít qua lại với các bà con của tôi và các vị lão cư sĩ thân thiết lúc trước. Vì tôi coi nhẹ thân tình thế gian, nhất tâm hoằng dương Phật pháp, giáo hóa chúng sanh. Tôi ở chùa có rất nhiều người ở các vùng lân cận tới quy y tôi, nhưng rất ít người cùng quê biết tôi, họ rất ít khi tới gặp tôi.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 58. Heo quỳ xin cứu mạng
Kiếp đao binh là do sát sanh tạo thành, cho nên Phật Giáo nói giới không sát, phóng sanh, thọ giới. Nếu có một người không sát sanh, thế giới này sẽ bớt đi một luồng oán khí. Có mười người không sát sanh, thế giới này sẽ có mười phần sinh khí kiết tường. Nếu các vị vẫn còn tâm sát, không dừng sát sanh, thì chúng sanh đối với các vị cũng không có cảm tình tốt. Nếu các vị thương tiếc chúng sanh, chúng sanh cũng sẽ tốt với các vị. Cho nên người với người, người với súc sanh đều có mối liên hệ với nhau.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Lúc Hòa Thượng Thường Nhân chưa xuất gia, Ngài thủ hiếu bên mộ, người ta gọi Ngài là Vương Hiếu Tử. Lúc Ngài thủ hiếu viên mãn, dân làng ở 48 thôn xóm, liên hợp với nhau cử hành một đại lễ khánh chúc và bàn với nhau về chuyện kiến lập chùa. Lúc chưa cất chùa xong, chín gia đình họ Ngô thỉnh Hòa Thượng đến nhà ông ta nhập thất. Ngô gia có hơn 80 người, đây là một đại gia đình cùng ở chung một chỗ với nhau. Ngày 25 tháng 6 nhà họ Ngô muốn giết heo để chúc mừng, sinh nhật của Mã Vương vào ngày 26. Không ngờ con heo mập mà họ muốn giết biết nhảy qua bức tường chạy đến chỗ Hòa Thượng, Vương Hiếu Tử nhập thấp. Heo quỳ xuống rơi lệ hướng về Vương Hiếu Tử cầu xin cứu mạng.
*
Lúc bấy giờ Vương Hiếu Tử nói với heo rằng: “Kiếp trước ngươi giết heo, nên kiếp này người ta muốn giết lại ngươi, hiện tại ngươi phải chịu quả báo nầy, ngươi hãy mau mau đi đền tội. Nay ngươi đến cầu ta, thì sau khi ngươi chết, ta sẽ cầu siêu độ cho ngươi làm người. Ngươi không thể quỵt nợ không chịu trả.”
Con heo cũng rất nghe lời Hòa Thượng, tự chạy ra cam chịu chết. Từ đó cả nhà họ Ngô đều ăn chay. Một người không ăn thịt thì dễ, nhưng toàn thể gia đình gần một trăm người lại không ăn thịt, việc này mới thật là khó. Vì thấy con heo quỳ khóc lóc với Vương Hiếu Tử. Họ nghĩ: “Ôi! Heo cũng có tánh người, vậy chúng ta không nên ăn thịt nó!”
Và rồi động lòng đến con nít cũng không ăn thịt, người lớn cũng không ăn thịt luôn, còn ảnh hưởng đến cả thôn làng người người đều cũng ăn chay, hàng vạn người quy y Tam Bảo, vì “Heo cũng quỳ trước vị chân tu này, vậy chúng ta hãy mau đi lạy Ngài làm Sư Phụ”.
*
Ngài làm lễ quy y cho người ta không giống như tôi. Các vị chỉ lạy vài cái, thưa: “Con xin bái Thầy làm Sư Phụ.” Vị chân tu này nói: “Được rồi!” và bèn đặt pháp danh cho. Ngài quy y một cách đơn giản như thế! Về sau nhà họ Ngô khi mướn người làm công đều nói trước với họ một cách rõ ràng như: “Ông một năm lãnh được tám ngàn đồng, tôi sẽ trả cho ông chín ngàn đồng, nhưng ông không được ăn thịt, được không?”
Các người làm công vì có thêm chút tiền, nên họ cũng hoan hỷ ăn chay. Tôi đến nhà họ Ngô nhiều lần, và chỉ cần nhắc đến chuyện nầy là mọi người trong nhà họ Ngô đều biết rõ. Họ kể lại với tôi, con heo đó chạy ra làm sao, từ đâu nhảy qua tường, còn ra điệu bộ con heo quỳ xuống như thế nào … Cho nên tôi biết đó là sự thật. Lúc đó tôi còn trẻ nên hỏi những người trẻ tuổi trong nhà họ Ngô: “Vì sao con heo quỳ vậy?”
Họ đáp: “Tôi không biết.”
Tôi nói: “Vậy heo mà chú đang nuôi đó, có biết quỳ không?
Chú ta đáp: “Chúng tôi hiện không có nuôi heo.”
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 59. Hồ Ly quy y
Trong Mười Tám đại nguyện của Hòa Thượng có một nguyện là “Nguyện rằng trong tam giới nếu có một vị trời, tiên, người, A Tu La, các loài bay, lặn, động vật, thực vật, linh giới, rồng, súc sinh, các chúng quỷ thần mà chưa thành Phật, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác.” Với nguyện lực và đức hạnh của Hòa Thượng, Ngài đã cảm hóa được hơn 800 Hồ Ly trắng biến thành người quy y Ngài. Ngoài ra, Ngài đã từng vì mẹ bịnh mà tới thôn Bối Ấm Hà cầu xin thuốc với Hồ Tiên nhưng không được. Nào ngờ sau khi Hòa Thượng xuất gia Hồ Tiên này cũng tới cầu xin quy y với Ngài.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Tại thôn Tương Lam Kỳ, Tứ Đồn, một hôm có hơn 800 Hồ Ly trắng biến thành người đến quy y tôi. Chúng nó chân thật tu hành, chuyên làm việc lợi ích cho người và trị bịnh cho người mà không lấy tiền.
Tại Đông Bắc có một loại tà thuật, có thần hoặc tiên nhập vào để trị bịnh cho người. Tiếng Quảng Đông gọi là “Quỷ nhập thân”, Đông Bắc gọi là “Khiêu Thần”, lại gọi là “Tát Mãn”. Khiêu (nhảy) thần là thần nào nhảy? Hễ Thần mà nhập vào thì hắn có thể đốt nón sắt, dây thắt lưng sắt, giày sắt cháy đỏ hồng rồi đội lên đầu, buột vào lưng, mang vào chân, đó gọi là “Hoa” (lưỡi cày), còn gọi là “quải giáp” (áo giáp) tức dùng dùi sắt xuyên qua vai, nếu thần không nhập thì hắn không thể làm như vậy được.
*
Ở Bắc phương có loại rìu cắt cỏ, nặng cỡ mười mấy cân, trên rìu có một cái lỗ. Hắn cắm dùi sắt vào phía trước và phía sau thân, rồi mang bốn cái rìu trên người kêu boong boong leng keng, oai phong không thể tưởng. Các vị nhìn thấy là khiếp sợ nổi da gà, ghê rợn như vậy. Hơn 800 con Hồ Ly này cũng nhập vào thân người rồi trị bịnh cho người ta, nhưng khi chúng nó tới, chúng không nhún, cũng không nhảy, xem giống y như người thường để trị bịnh, bắt mạch hoặc kê toa thuốc.
Chúng trị bịnh không lấy tiền, chuyên dốc sức làm nghĩa vụ thiện. Cho nên có rất nhiều người tin tưởng chúng. Người trong thôn thường đốt nhang lễ lạy, và mua đồ cho chúng nó, nhưng chúng nó cũng không muốn. Thông thường thì hồ ly thích ăn thịt gà, nếu các vị cúng cho nó một con gà thì nó vui mừng khấp khởi. Nhưng chúng hồ ly này cũng không muốn gà, không ăn thú vật sống mà chúng đều ăn chay.
Sau đó Hồ Ly cũng nói chuyện với người ta, rằng: “Tôi chỉ gặp các vị ba năm thôi, vì ba năm sau, tôi sẽ đi theo Sư Phụ tu hành.” Người ta hỏi: “Ai là Sư Phụ của ông?” Y đáp: “Tới lúc đó, các người sẽ biết, bây giờ tôi không thể nói được.”
Ba năm sau, khi tôi đi ngang qua nơi đó, Hồ Tiên đến cầu xin quy y. Sau khi nói chuyện với chúng xong, ngay hôm đó tôi cho quy y hơn 830 con hồ ly cùng một lúc và phái chúng nó tới núi Lạp Pháp ở huyện Giao Hà tu hành.
*
Núi Lạp Pháp còn gọi là tảng đá lớn Lạp Pháp vì ở đó có rất nhiều thạch động. Từ đó về sau, ở đó không còn Hồ Tiên trị bịnh cho người ta nữa. Dân địa phương đều không thích tôi, họ nói vì tôi đã đem Thầy thuốc của họ đi mất. Lúc mẹ tôi bị bịnh, ở thôn Bối Ấm Hà có một Hồ Tiên rất hiển linh, thường ban bố thuốc men cho người. Tôi đã từng vì mẹ mà đi tới đó cầu xin thuốc, nhưng quỳ ba ngày ba đêm cũng không cầu được thuốc.
Đợi sau khi tôi xuất gia, Hồ Tiên này nhập vào người bà con của tôi, cũng muốn quy y tôi. Tôi hỏi y là ai? Y đáp y là Hồ Tiên ở Bối Ấm Hà chuyên bố thí thuốc men cho người ta. Tôi bèn tính sổ nợ với y, nói: “Lúc ngươi bố thí thuốc, tôi tới xin thuốc, tại sao ngươi không cho tôi thuốc, giờ đây lại còn muốn quy y tôi nữa hả?”
Hồ Tiên nói: “Lúc Thầy quỳ ở đó, có một luồng ánh sáng màu vàng chói khiến con mở mắt không ra, nên không cách nào cho thuốc được!”
Tôi đặt tên cho y là Pháp Thiên Pháp Đại. Đây là lần thứ hai có Hồ Tiên (hồ ly) quy y tôi.
Ghi chú: Núi Quan Đông Kỳ – Núi Lạp Pháp Núi Lạp Pháp nằm ở phía Bắc của thị xã Giao Hà, Kiết Lâm thuộc nhánh núi Trường Bạch cao 886.2 m so với mặt biển và chiếm diện tích 12 km2. Núi có dốc đứng, đỉnh núi cao chót vót cheo leo chơm chởm, nghe nói có 72 động và 81 đỉnh.
*
Vì núi có hình giống như cây chỉa bằng sắt nên có tên là “Cửu đỉnh thiết xoa sơn” (núi có chín đỉnh như cây chỉa bằng sắt). Hơn nữa vì trên núi có nhiều tảng đá lớn tục gọi là “Lạp Pháp Lạp Tử” tức là đá lớn Lạp Pháp. Trừ các kỳ động trong núi Lạp Pháp ra còn có vô số khối đá kỳ dị khác. Đó là nơi mà xưa kia các đạo sĩ tu luyện ở đó; có các kỳ quan như Kim Quy triều bái, dấu chân Tiên nhân, Gấu già quán thiên, Tượng đá mặt thân Phật, v.v…
Núi Lạp Pháp có hơn 100 chỗ thạch động, đa số do thiên nhiên hình thành. Trong số đó có Xuyên Tâm Động, Trích Thủy Động, Thông Thiên Động là nổi tiếng nhất. Dân địa phương xưng Xuyên Tâm Động là Vua Động. Trong động khoáng rộng bằng phẳng có thể chứa hơn ngàn người, có ba cửa động ở phía Đông, Tây và Nam. Phía Đông có thể nhìn mặt trời lên, phía Tây xem mặt trời lặn, phía Nam có thể trông ra biển Vân Hải.
Trích Thủy Động cũng nằm ở phía Đông trệt về trước cửa Xuyên Tâm Động. Nước trong Động là nước suối giống như có hai cái hồ nhập lại chứa nước, nước đó trong và ngọt, quanh năm không cạn. Hòa Thượng kể: Tôi đều phái những đệ tử quy y kỳ kỳ quái quái của tôi đến đó tu hành. Tôi cũng đã đến nơi đó rồi. Tôi từng thâu Như Ý Ma Nữ cốt vài ngàn năm và phái y đến Vạn Thánh Linh Lung Động tu hành.
*
Tại sao gọi là Vạn Thánh Linh Lung Động? Vì động này có ba cửa, ở bên này có thể nhìn thấy bên kia, bên kia lại có thể nhìn thấy bên này, địa thể trong suốt giống như ly thủy tinh; vì nếu để gì trong ly là thấy biết ngay, nên bên trong có thể nhìn thấy bên ngoài, bên ngoài có thể nhìn thấy bên trong. Ba cửa động này tương thông với nhau. Ở đó có một ngôi chùa, vật liệu tạo chùa là do dê kéo lên. Vì núi rất cao, nên mỗi lần lên núi, nó chỉ có thể kéo theo hai cục gạch hoặc một khúc gỗ mà thôi!
Bên ngoài cửa động về phía Tây có Động Lão Quân tức Động của Lão Tử, cửa phía Đông là Động Trích Thủy, có nước chảy xuống, chứa đủ cho muôn người vạn ngựa uống. Ra phía sau là Động Kỷ Tiên, tức Kỷ Tiểu Đường, là người Đông Bắc, ông đã thâu nạp năm con quỷ và còn bắt được Hắc Ngư Tinh (cá) ở núi Lạp Pháp.
Vào triều Minh, tại Bắc Kinh có một vị quan họ Hắc, mọi người gọi ông là Hắc Đại Nhân, thật ra ông ta không phải là người mà là Hắc Ngư Tinh. Kỷ Tiểu Đường biết được, nên muốn quy nạp Ngư Tinh này. Có một hôm, đợi hắn ta đi ngang qua núi, Kỷ Tiểu Đường bèn dùng ấn Chưởng Thủ Lôi đánh chết Hắc Đại Nhân. Không ai biết được trong núi có bao nhiêu cái động. Thí dụ như hôm nay các vị tra khảo là 72 động, ngày mai thì là 73 động, ngày sau nữa các vị đếm lại thì hoặc là 70 động.
*
Nói tóm lại, các động không có số mục nhất định. Trong núi có rất nhiều thần tiên, đã có người lên núi thấy có hai ông Lão đánh cờ trên đó và đi lần tới xem, nhưng vì không kềm được nên y ho lên một tiếng. Thế là hai ông Lão có râu rất dài thấy có người bèn hỏi: “Ê, ngươi làm sao đến đây được?” Nói rồi cửa đá của động tự động đóng lại! Y quỳ ở đó cầu đạo, cầu pháp và quỳ cho đến chết. Mộ phần của người này hiện vẫn còn ở phía ngoài động.
Tôi đã từng gặp Lý Minh Phước, ông ta là người biết võ thuật, chạy nhanh như khỉ vậy! Sáng sớm khoảng 4 giờ hơn, tôi lên núi thì thấy ông ta đang lạy Phật ở trên đó. Ông bới đầu tóc và đầu tóc của ông ta nặng cỡ bảy, tám cân. Ông chưa bao giờ gội đầu, trên đầu lại cài một cây trâm. Ông có khuôn mặt nhỏ thó, mắt nhỏ, mũi nhỏ, miệng nhỏ, nhưng rất có sức mạnh. Lúc trước, ông giúp người ta làm đường rầy xe lửa. Trong khi tám người họ khiêng một thanh sắt, còn ông mình bê luôn hai thanh sắt, mỗi nách kẹp một thanh.
Cuối cùng ông ta bao nhiêu tuổi? Người của thời đại nào? Không ai biết được. Tôi đến nơi đó đã từng gặp qua một người kỳ quái như vậy.
Lê Đình Sứng viết
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Ngọc viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Hôm nay con đọc đến trang 4 rồi, hay lắm luôn. Cảm ơn thầy tuệ tâm nhìu ạ!!!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!