Hòa Thượng Tuyên Hóa: 28. Mua chịu quan tài an táng mẹ
Tuy hoàn cảnh của Hòa Thượng bần cùng, nhưng Ngài rất nhiệt tâm giúp đỡ người, thậm chí dạy học miễn phí. Sau khi mẹ Ngài qua đời, Ngài túng thiếu đến nỗi ngay cả quan tài cũng không có tiền mua, không đủ sức lo liệu đám tang cho mẹ. Hòa Thượng không nỡ tẩm liệm bà mẹ đã suốt đời vất vả một cách sơ sài, nên với tấm lòng hiếu thảo, Hòa Thượng mua chịu được một cỗ quan tài để an táng mẹ.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Khi xem chuyện Tam Quốc Chí, đọc đến đoạn Quan Công bị người ta giết hại, tôi khóc luôn ba ngày. Tại sao tôi khóc? Vì tôi cảm thấy thật thương tiếc cho con người chánh nghĩa như Quan Đế Công mà bị giết chết như thế. Nhưng khi mẹ tôi mất, một việc lớn như vậy mà tôi không rơi giọt nước mắt nào. Tại sao? Vì có lẽ tôi có khóc cũng khóc không ra tiếng, vì tôi đã tận hết bổn phận mình lo cho bà.
Tôi nói cho các vị nghe, lúc mẹ tôi mất, tôi ở ngay bên bà và trong túi tôi trống không, không có tới một xu. Lúc đó thật là bần cùng khốn khổ. Tôi mời các ông anh về nhà, họ đều không về, chỉ có ông anh thứ ba Bạch Ngọc Đường về. Tôi hỏi anh: “Mẹ đã mất rồi, chúng ta nên mua loại quan tài nào đây?”
*
Anh nói: “Ái da! Hoàn cảnh của chúng ta bây giờ mà lại có thể mua quan tài nổi sao? Chúng ta ngay cả cơm ăn còn không có tiền, sao có tiền để mua quan tài chớ?”
Tôi nói: “Vậy làm sao đây?” Anh nói: “Lấy mấy tấm ván đóng thành cái hòm rồi đem đi chôn là xong!”
Tôi nói: “Làm như vậy thật là không phải đối với mẹ! Bà sanh ra chúng ta, có nhiều con trai, con gái như vậy, đến lúc chết ngay cả một quan tài cũng không có, thiệt là không tốt chút nào!”
Dù tôi muốn mua quan tài nhưng một đồng xu cũng không có. Vậy phải làm sao đây? Tôi bàn tính với các anh; các anh nhìn tôi, tôi nhìn các anh mà không có biện pháp gì.
Tôi nói: “Các anh không có cách, hay để em đi tìm các bạn của em xem sao.”
Rất may là bình thường tôi có một số bạn cùng nghiên cứu Phật pháp với nhau. Tôi lại tham gia hội Đạo Đức, làm Tổng Khoa Trưởng của hội Đạo Đức ở trấn Lạp Lâm nên có quen biết một số người. Trong số đó có một người bán quan tài, nên tôi liền đến trấn Lạp Lâm để mua chịu quan tài. Chủ tiệm quan tài họ Điền, người ta gọi ông là Điền Lão Ô. Tại sao gọi là Lão Ô (con quạ)? Bởi vì cái miệng của ông rất hắc ám, thích chửi mắng người, lúc trước ông là dân giang hồ, từng ngang dọc trên bờ dưới nước.
*
Tôi đến chỗ đó, ông chủ bán quan tài biết tôi, hỏi: “Chú tới mua quan tài hả?”
Tôi nói: “Tôi không có tiền, ông có thể nào bán chịu cho tôi được không?”
Ông ta nói: “Được, tôi bán chịu cho chú đó! Tùy ý chú muốn mua loại quan tài nào thì cứ việc lựa chọn đi! Lúc nào có tiền thì trả cho tôi cũng được.”
Thế là tôi đã mua chịu được một cỗ quan tài. Lúc ra về, ông chủ tiệm còn nói: “Ngay cả tiền mua quan tài chú cũng không có, vậy nhất định là cũng không có tiền làm đám tang rồi. Tôi cho chú mượn thêm 300 đồng, chú cầm lấy mà dùng, chừng nào có tiền hãy trả lại cho tôi.”
Ông ta lại cho mượn thêm 300 đồng, lúc đó 300 đồng cũng khá lớn, nếu so với tiền ở Hồng Kông thì cũng có khoảng 30,000 đồng để dùng, vì lúc đó mua cái gì cũng rất rẻ. Đang thời đó, tiền rất có giá trị.
Bởi ông ta rất tin tưởng tôi, tôi nói: “Dạ được!”
Bây giờ việc mua quan tài không thành vấn đề nữa, nhưng tôi lại phải nghĩ cách đem quan tài về nhà. Các vị coi! Vì lúc bình thường, tôi thích giúp người, cho nên đến lúc tôi lâm sự tức được cảm ứng và có người giúp lại tôi.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 29. Hiếu thảo cảm động trời đất
Sau khi Hòa Thượng tẩn liệm cho mẹ xong, Ngài chuẩn bị đưa đi mai táng. Vào tháng ba cũng là lúc băng tuyết tan ở Đông Bắc nên đường đi bùn lầy trơn trượt. Những người bà con bạn bè khiêng quan tài rất e ngại về con đường khó đi này. Lúc sáng sớm xuất quan, trời bỗng rơi tuyết lành, phủ lên chỗ bùn lầy nước đọng. Dân làng tán thán rằng, sự hiếu hạnh của Hòa Thượng đã cảm động được trời đất.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Vào ngày 19 tháng 3, tôi thiếu chịu một cỗ áo quan và 300 đồng để chu tất tang lễ cho mẹ. Tôi thuê ban nhạc kèn trống, sắm sửa cơm và thức ăn đãi cho những người khiêng quan tài, chuẩn bị ngày hôm sau tới nơi chôn cất. Chỗ tôi ở cách xa nghĩa địa khoảng 7, 8 dặm. Nhưng gặp nhằm lúc sông tan băng, ở Đông Bắc theo con nước Hoa Đào nên đường đi rất bùn lầy, người đi đường rất khó khăn.
*
Ở Đông Bắc lúc giữa Xuân, hoa đào nở, mưa mùa Xuân mới bắt đầu và nước sông cũng bắt đầu tan băng khiến thủy triều chảy xiết, cho nên gọi là nước Hoa Đào. Vào giữa đêm, khoảng 2 giờ khuya, tôi nghĩ: Người ta khiêng quan tài mà đường đi không được thuận lợi thì phải làm sao đây? Lúc đó tôi chỉ biết cầu nguyện Phật Bồ Tát phù hộ.
Tôi nói: “Con không có duyên với người, cũng không có duyên với trời, nếu như chư Phật Bồ Tát cùng Thượng Đế có thể rơi tuyết lúc trời chưa sáng, khiến đường kết băng để cho dễ đi hơn!” Tôi cứ vậy mà khẩn cầu. Kỳ lạ thay, đợi đến lúc gà gáy hừng sáng, quả nhiên trời rơi tuyết. Nước đọng trên đường đều đóng thành băng, trên băng lại phủ thêm tuyết dày đến một tấc.
Cho nên mười mấy người khiêng quan tài đi không có gì là khó khăn và cũng không mệt lắm. Chúng tôi đến nghĩa trang lúc trời còn chưa sáng. Khi chôn cất xong cũng là lúc mặt trời lên, tuyết mới bắt đầu tan. Tôi nghĩ đây cũng là do cảm ứng đặc biệt của Phật Bồ Tát vậy!
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 30. Thủ hiếu bên mộ mẹ
Tang lễ xong, Hòa Thượng nhắm mắt, tĩnh tọa ngay bên mộ phần mẹ. Lúc đó, Ngài hoàn toàn buông xả tất cả, định chết đói tại mộ phần mẹ.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Lúc bấy giờ, tôi chuẩn bị ở lại đó thủ hiếu. Lúc chưa mai táng mẹ tôi, tôi đã không nói cho ai biết rằng tôi muốn thủ hiếu. Trừ tôi ra, còn các thân bằng quyến thuộc anh chị ruột của tôi đều không ai biết chuyện thủ hiếu này. Tại sao? Vì tôi làm việc gì cũng muốn làm một cách chân thật, chớ không muốn đánh trống la làng đi rao truyền khắp nơi. Chờ đến khi đem mẹ đến mộ phần, chôn cất xong, lúc đó tôi thật sự buông bỏ tất cả. Tôi cũng không tha thiết đến việc vay mượn tiền của người ta, rồi ngồi xuống ngay bên mộ phần không đi về.
Có người hỏi: “Tại sao còn chưa chịu về.”
Tôi nói: “Tôi muốn ở đây bầu bạn với mẹ tôi!”
Những người đưa tang nghe tôi nói kỳ lạ như vậy đều khuyên tôi nên về nhà. Bất cứ ai nói gì đi nữa, tôi cũng không nghe. Tôi ngồi trơ ra đó giống như không nghe biết gì hết vậy. Lúc đó trong tâm tôi cũng không thấy khó chịu, mà chỉ nghĩ: “Mẹ ơi! Mẹ mất rồi, con nguyện ở đây cho có bạn với mẹ, như vậy, mẹ dù chết rồi, cũng không cảm thấy cô đơn!” Rồi tôi cứ ở lại đó thủ hiếu, đại khái là lúc tôi 19 tuổi.
Ghi chú:
Mẹ của Hòa Thượng là Bạch Hồ Thị, người cao lớn, mặt dài, thường mặc một bộ đồ màu lam cũ rách. Bà ăn chay niệm Phật. Lúc bấy giờ trong nhà có 18 người đều ở chung trong một căn nhà và nhà rất nghèo. Bà sanh được 8 người con, 5 trai 3 gái và Hòa Thượng là con út, cũng là người duy nhất trong nhà được đi học.
Lúc bà qua đời trong nhà có hơn mười người, nhà nghèo đến độ hễ ăn bữa sáng là phải lo cho bữa chiều, thật không cách nào chu toàn tang sự. Cho nên Hòa Thượng đến trấn Lạp Lâm mua chịu quan tài và mượn 300 đồng. Mẹ Hòa Thượng qua đời đúng vào lúc tiết thanh minh (quét mộ), đường lộ sình lầy, bùn nhơ rất khó đi. Không ngờ, sáng sớm ngày thứ hai, khí hậu đột nhiên trở lạnh, trời rơi tuyết nên đường lộ kết băng.
Sáng sớm, các thân hữu đến nhà cô của Bạch Cảnh Học để giúp đỡ. Có 24 người luân phiên nhau khiêng quan tài, và họ đi nhanh tới phần mộ họ Bạch. Tại sao phải cần 24 người khiêng quan tài? Bởi quan tài có màu đỏ, bên trên có vẽ 24 đồ án hiếu tử, để biểu thị lòng hiếu thảo của các người con.
*
Chôn cất mẹ xong, Hòa Thượng lưu lại mộ phần của họ Bạch không chịu về nhà. Thân hữu giúp đỡ Ngài bằng cách dùng ba cây gỗ làm chân ba giá, hai bên dùng rơm lúa Cao Lương dựng thành tấm phên.
Hòa Thượng ở đó thủ hiếu. Hòa Thượng nhờ anh em kết nghĩa Phan Nghĩa Chấn thay Ngài hoàn trả vài trăm đồng tiền mua chịu quan tài. Ở khu Viên gia có một vị là Trương Hải Xuân, ông nhớ lại chuyện Hòa Thượng thủ hiếu như sau:
“Có lúc Hòa Thượng lấy thùng đi xách nước, thấy người Ngài cũng không nói chuyện, nếu gặp người già hay trưởng bối, Hòa Thượng “đả thiên” với họ (đả thiên là lễ tiết của người Mãn).
*
Lúc Hòa Thượng thủ hiếu, danh hiếu của Ngài truyền xa, người ta đều xưng gọi Ngài là Bạch Hiếu Tử. Người ở cách xa cả trăm dặm như Mã Xuân Dương, Đường Ngọc Minh ở thôn Tây Hoàng Kỳ, cùng chị dâu thứ ba của Ngài thường thường đem cơm cho Ngài. Tháng 11 năm 1994, Hòa Thượng ngã bịnh nặng được trị liệu ở Los Angeles, California. Con của anh thứ ba Ngài là Bạch Cảnh Học tới thăm và ở bên cạnh. Một hôm sáng sớm, Hòa Thượng bắt điện thoại của Phan Tú Dân gọi từ Harbin, xong Hòa Thượng nói với Bạch Cảnh Học:
“Con có biết Phan Tú Dân không? Bà mới gọi cho ta đó. Bà là con của Phan Nghĩa Chấn, lúc ta đi ngang qua nhà bà ấy, bà mới có 8 tuổi nhưng rất biết chuyện.” Hòa Thượng trầm giọng nói tiếp: “Lúc bà nội con chết thọ 66 tuổi, ta đi đến tiệm quan tài ở trấn Lạp Lâm mua chịu quan tài, lại mượn 300 đồng, là Phan Nghĩa Chấn trả nợ tiền quan tài cho ta. Trải qua nhiều năm, ta không thiếu nợ ai gì cả, chỉ thiếu Phan Nghĩa Chấn 300 đồng, nhưng ông ta đã qua đời lâu rồi!”
Nói xong, Hòa Thượng òa khóc nức nở. Thấy Ngài thương tâm như vậy, Bạch Cảnh Học cũng khóc theo, và quỳ xuống an ủi Hòa Thượng nói: “Sư Phụ, xin Sư Phụ đừng khóc nữa, hãy chú ý thân thể, dưỡng bệnh là trên hết!”
Lê Đình Sứng viết
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Ngọc viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Hôm nay con đọc đến trang 4 rồi, hay lắm luôn. Cảm ơn thầy tuệ tâm nhìu ạ!!!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!