Hòa Thượng Tuyên Hóa: 62. Cầu con được mãn nguyện
Ông Phan Tế Thời là người rất giàu có ở huyện Song Thành, hai vợ chồng đã quá 40 tuổi vẫn không có con, nên rất lấy làm hối tiếc. Họ rất ngưỡng mộ đức hạnh của Hòa Thượng. Sau khi quy y, họ siêng năng học tập Phật pháp. Hai vợ chồng thường đối trước Bồ Tát Quán Thế Âm cầu Bồ Tát gia hộ cho họ có con. Phan Tế Thời thỉnh Hòa Thượng chỉ dạy cho việc cầu con.
Hòa Thượng Tuyên Hóa bảo: “Ông nên làm nhiều việc thiện, sao ông không đem phân nửa tài sản của ông bố thí cho tất cả chúng sanh để tích lũy công đức. Nếu làm được như vậy tin rằng ông sẽ được mãn nguyện.” Nghe Hòa Thượng chỉ bảo xong, ông bèn phát tâm bố thí, sửa chùa, tạc tượng, cúng dường Tam Bảo, trợ giúp hội Từ Thiện. Qua năm sau, vợ ông sanh được một bé trai, đặt tên là Thí Đức. Đứa bé này thông minh lanh lợi. Sau khi có con, ông càng tin sâu Phật pháp, hằng ngày tụng kinh niệm Phật, siêng tu pháp lành.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 63. Tiên đoán sự thật
Việc Hòa Thượng cứu người được lan rộng và nơi Ngài ở bỗng trở thành “trạm cấp cứu” trong thôn. Ông Lý Thanh Sơn ở thôn Dương Gia Điếm muốn trị bịnh cho em của ông, cũng chạy đi tìm Hòa Thượng cứu giúp. Hòa Thượng tới nhà ông, vừa bước vào nhà, Ngài cảm thấy có sự khác lạ. Hòa Thượng nói với ông ta: “Nhà này âm khí quá mạnh, tôi không thể nào giải cứu được. E rằng mấy ngày sau sẽ có việc bất hạnh xảy ra!”
Qua bảy ngày sau, Lý Thanh Sơn gây gổ với người em, và trong phút chốc mê mờ bèn tự tử chết. Không bao lâu sau, em và con gái của ông cũng bị bịnh mà qua đời.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 64. Hàng phục con Tinh Mã Hầu
Hòa Thượng không nỡ thấy người khổ sở, cho nên trị cho nhiều người mang bịnh quái gỡ. Hòa Thượng nói: “Đây không phải là tôi có năng lực gì, hoặc có thần thông chi diệu dụng, đều là do Phật Bồ Tát gia hộ, cho nên người nào thành tâm tất sẽ có sự cảm ứng của Phật Bồ Tát.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Con người có rất nhiều bịnh, đa số do nghiệp chướng tới đòi nợ, đó cũng là bịnh tà, mà có một số người biết được. Bịnh tà tức bị ma nhập. Lúc tôi ở Đông Bắc đã từng gặp một con mèo trúng tà, bị ma nhập, cả ngày nó nhảy lên, nhảy xuống không ngừng. Nói chung là nó đã phát điên. Loại mèo này nếu chết sẽ thành mèo ma đi phá hại người làm cho người ta mê muội hồ đồ không biết gì. Tôi gặp qua rất nhiều hiện trạng như vậy.
Tôi nhớ trong hội Đạo Đức ở Đông Bắc, có một cô Chủ Nhiệm ban tập sự họ Từ. Lúc đó, có một em học sinh bị ma nhập, cô Từ tưởng mình là Chủ Nhiệm ban tập sự có địa vị và quyền lực, nên đích thân trị bịnh cho em này. Trước hết cô ta hớp một ngụm nước rồi phun lên mặt của đứa nhỏ. Ma này không sợ bị phun nước lạnh, nó không những không bỏ chạy mà còn nói: “Cô muốn trị tôi hả? Tôi nay sẽ nhập vào người cô đây, xem cô có cách gì?” Lúc đó đứa bé thì trở lại bình thường, nhưng cô Từ lại bị trúng ma, trúng tà.
*
Từ đó cô phát ma khí, không thể ở trong hội Đạo Đức phải đi về nhà. Ở nhà, mỗi ngày cô đều bị ma đến quấy rày, khiến cô không yên. Ma này là ma gì? Đó là một con khỉ lớn, tinh hầu này nhập vào giày vò cô, nói nó thương yêu cô cỡ nào, rồi mê hoặc cô để quan hệ với nó. Sau đó, cô bị ra máu ở bảy chỗ, con Tinh Hầu này còn hút hết tinh khí của cô khiến cô thoi thóp chờ chết.
Hội Đạo Đức nghe nói Tam Duyên Tự có Hòa Thượng phương trượng là Vương Hiếu Tử biết trừ ma, bèn cho người tới chùa thỉnh Hòa Thượng về nhà họ. Nhưng việc gì Hòa Thượng cũng bảo tôi đi chớ Ngài không đi. Lần này Ngài lại sai tôi đi. Trước đó họ đều nói với con Tinh Hầu là họ đã đi mời ai đến rồi. Con Tinh Hầu nói: “Mời người đó chỉ tốn công thôi, ông ta cũng chẳng làm gì được tao đâu! Dù bọn bây có mời được Tế Công tới đi nữa, tao cũng không ngán!”
Dường như con khỉ này cái gì cũng không sợ. Đợi khi tôi tới nơi, nó bèn nhập vào cô và bắt đầu đấu pháp, cứ đấu, đấu, đấu! Đấu hết hai ngày như vậy, tôi mới hàng phục được nó. Cô Từ nhờ đó mà thoát chết.
Hòa Thượng Tuyên Hóa 65. Nợ mạng người phải trả
Vì nghiệp báo của sát sanh khiến chúng sanh bị giết hại không ngừng, lại hổ tương báo thù và cùng nhau tạo nghiệp. Sự tuần hoàn của loại tánh ác này khiến người sợ rởn tóc gáy! Nếu các vị hiểu được đạo lý của việc không sát sanh tức sẽ không làm các điều ác và làm các việc lành. Hòa Thượng từng nói: “Trên thế giới này, người không hiểu Phật pháp là người khổ nhất, còn ai hiểu biết được Phật pháp mới là người vui nhất.” Điều này thật không sai chỗ nào.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Phàm người nào mắc bịnh đều có nguyên nhân của nó cả, như có thể là do oan gia tới đòi mạng, hoặc là đòi nợ, hoặc là tới báo thù… Tôi đã gặp qua một người bị bịnh điên cuồng, hắn đi tới ba bước, rồi lui lại hai bước, ngước đầu lên trời, giống như kẻ sai rượu. Hắn thường nói hai câu: “Tam quang phổ chiếu thấu tam tài. Vô hữu oán nghiệt ngã bất lai.” Tức là nói mặt trời, mặt trăng, tinh tú ba loại quang này chiếu thấu trời, đất và người. Nếu như ông ta không có nợ oan nghiệt thì oan nghiệt sẽ không đến hành ông bị bịnh này.
Tôi có gặp một người, dù tôi làm sao đi nữa cũng trị không được cái bịnh của bà ta. Bịnh này ra sao? Bà này thường đến nhà người khác, nếu bà không nói là ông Táo của nhà này thì nói là tổ tiên của nhà nọ hoặc là cha mẹ của họ, đó là một chứng bịnh điên khùng và tôi muốn trị cho bà ta hết bịnh. Lúc trị bịnh, trên đầu bà lại mọc ra một cái sừng, dài khoảng hai tấc, những người ở đó đều thấy cái sừng này lòi ra.
*
Tôi thấy kỳ lạ nên nghiên cứu kỹ lại, thì ra 20 năm về trước, bà cùng với cha của bà đã chôn sống người chị ruột của bà. Chuyện đó cách nay cũng đã hơn 70 năm (Hòa Thượng khai thị năm 1990). Khi xưa người ta rất là cổ hủ, vì chị của bà không chồng mà mang thai, nên cha của bà không chịu nổi mới đào một cái hố rồi cùng bà là đứa con nhỏ đem chôn sống chị bà, đứa con gái lớn của ông trong cái hố đó. Lúc bấy giờ, linh hồn của người chị và thai nhi tới đòi mạng bà, khiến cho bà khùng khùng điên điên.
Đợi khi tôi trị bịnh cho bà, chị của bà dùng pháp thuật khiến bà mọc ra một cái sừng và còn cho tôi biết rằng đây là một xác mà hai mạng người, nên không thể đem Phật pháp ra cứu bà ta được. Từ đó tôi nhận biết rằng, tất cả bịnh oan nghiệt đều do tiền nhân hậu quả. Cho nên tất cả những người bịnh là do oan nghiệt tới đòi nợ. Cũng giống như hiện nay có rất nhiều người bị bịnh ung thư, đó đều là vì họ đã sát sanh quá nhiều và cũng ăn quá nhiều thịt. Cho nên họ mới bị trúng độc nặng nề và vì thế mới sanh ra bịnh ung thư. Đây đều là có oan nghiệt ở đấy tới đòi nợ.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 66. Sự giáo hóa của Bồ Tát
Chúng ta đều biết là Địa Tạng Vương Bồ Tát rất có duyên với chúng sanh ở thế giới Ta Bà. Có người thường thường trong mộng được sự giáo hóa của Bồ Tát Địa Tạng, chỉ cho ra khỏi con đường mê muội. Hòa Thượng đã trải qua những chuyện như vầy mà ông họ Mã là một trong số người đó.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Tại Châu Gia Sạn có một ông cảnh sát tên Mã Hỷ Ngũ, ông đã quy y với Hòa Thượng phương trượng ở chùa tôi. Ông ta thường thấy Bồ Tát Địa Tạng. Ngài Địa Tạng còn đích thân truyền dạy cho ông một bài chú, nhưng không cho phép ông nói với bất cứ người nào. Đó là pháp bí mật của Mật Tông, không được nói với ai hết. Thậm chí người đó là vợ, là Sư Phụ của ông, ông cũng không được phép nói cho họ nghe.
Có một lần ông hăm hở đến chùa nói với Hòa Thượng phương trượng: “Sư Phụ, con thường mơ thấy Bồ Tát Địa Tạng, Ngài còn dạy con niệm một bài chú nữa! Chú này rất linh nghiệm, nhưng Ngài không cho con nói ra ngoài.”
Hòa Thượng phương trượng đáp: “Vậy ông có thể niệm cho tôi nghe thử hông?”
Ông ta nói: “Dạ không được! Chú này không được niệm cho bất cứ một ai, không thể niệm ra tiếng đâu, Bồ Tát Địa Tạng nói chỉ tự mình con biết thôi, nên con không thể nói cho người khác biết.”
*
Tôi nói: “Tôi không tin là chỉ có một mình ông biết? Tôi cũng biết vậy! Chẳng có gì hay ho lắm đâu?”
“Ồ! Thầy cũng biết hả? Vậy Thầy nói cho tôi nghe thử xem!”
Tôi nói: “Tôi không muốn nói ở nơi đây, đợi một lát vào phòng tôi, tôi sẽ nói cho ông nghe!”
Nghe vậy, ông ta lật đật đảnh lễ Hòa Thượng phương trượng ba lạy rồi lui ra và theo tôi vào phòng của tôi. Tôi nói: “Bồ Tát Địa Tạng dạy ông bài chú như vầy vầy phải không?”
“Ồ! Sao Thầy biết được?”
Tôi nói: “Bồ Tát Địa Tạng nói cho tôi biết đó! Lúc Ngài nói với ông, tôi nghe được đó mà!”
Việc này cũng kỳ diệu thật và bởi thế nên ông ta hết sức tin tưởng tôi. Về sau ông rất cung kính cúng dường tôi. Ông còn bảo vợ con ông nên đến quy y tôi và thường hay mời tôi đến nhà ông ta thọ cúng dường. Hễ gặp ai ông đều nói: “Sư huynh này của tôi việc gì cũng biết hết đó!” Ông ấy gọi tôi là Sư huynh vì ông ta quy y với Hòa Thượng phương trượng. Nhưng ông ta đã không hiểu Phật pháp, không biết là người tại gia không được gọi người xuất gia bằng Sư huynh.
Tôi nói: “Ông đừng có nói bậy rằng, cái gì tôi cũng biết hết nha! Thử hỏi, tôi ăn bao nhiêu hạt gạo, tôi có biết không? Vậy tôi làm sao có thể ‘cái gì cũng đều biết hết’ được chớ?”
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 67. Thợ may xuất gia
Đệ tử xuất gia đầu tiên của Hòa Thượng là Quả Năng họ Lộc. Chú vốn là một thợ may rất nghèo, tiền kiếm được đều bị bạn gái lấy đi hút thuốc phiện hết. Chú bỗng chán ngán tình đời mà quyết tâm xuất gia tu đạo.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Có một năm vào mùa Đông, tôi có chuyện đến phía Nam Harbin nên đi qua một quán trọ nọ. Chủ quán trọ này là đệ tử quy y của tôi cho nên tôi ghé vào thăm ông ấy.
Ông ta nói: -Trong quán trọ của con có một người khách ăn chay, muốn xuất gia tu hành, nhưng chưa tìm ra chùa nào cả. Sư Phụ, Sư Phụ có thể thâu nhận chú ta không?”
– Tại sao chú ta muốn xuất gia?
– Chú ấy là người Sơn Đông, làm nghề thợ may và chung sống với một cô bạn gái hút thuốc phiện. Tiền chú kiếm được không đủ cho cô bạn dùng. Một hôm, bạn gái này gom hết tiền bạc của chú ấy bỏ đi, nên chú ta mới giác ngộ muốn xuất gia tu hành đó. Chú ta đã từng đến chùa Cực Lạc ở Nam Cương, Harbin, nhưng Thầy Như Quang ở đó không chịu nhận chú làm đệ tử. Chú ta không còn cách nào khác là tạm ở lại quán trọ của con trước đã. Con thấy chú ấy ngày nào cũng ủ rủ không vui và cũng không có chuyện trò với ai hết, thấy tội nghiệp lắm!
*
– Ông bảo chú ấy ra đây!
Ông chủ quán bèn đi kêu chú ấy nhưng chú ta không ra, có lẽ thấy tôi ăn mặc rách rưới, không giống như tướng Hòa Thượng có chùa. Đợi kêu lần thứ nhì, chú ta mới miễn cưỡng đi ra. Người Sơn Đông có tánh rất thẳng thắn, nên chú ta vô đề liền: “Thầy bảo con ra đây để làm gì?”
Tôi đáp: “Tôi đến đây là để tìm chú đấy!”
Chú ta rất ngạc nhiên, hỏi: “Thầy biết con sao?”
Tôi nói: “Thôi đừng nói chuyện này nữa, chú muốn xuất gia phải không? Chùa tôi đang thiếu một người nấu cơm, nếu chú tới giúp việc thì ở đó có cơm cho chú ăn, có chỗ cho chú ở, nhưng không có tiền cho chú xài à nghen! Chú có muốn đi không?”
Nghe tôi nói nhận chú làm đệ tử nên chú rất đỗi vui mừng nói: “Con muốn đi!”
*
Lúc đó tôi bèn cởi bớt một lớp áo đang mặc đưa cho chú, nói: “Chú mặc vào đi, rồi theo tôi xuất gia. Đi!” Chú không nói lời nào và theo tôi về chùa Tam Duyên lo việc nấu nướng trong bếp. Sau đó chú thọ giới Sa Di, có pháp danh là Quả Năng. Vị đại đệ tử này của tôi, thường bỏ nón lá ra phía sau lưng, miệng cười toe toét, hi hi ha ha tối ngày, có dáng điệu giống như Bồ Tát Chiên Đà La trong chú Đại Bi vậy. Có một hôm, chú ta bỗng nổi hứng, chưa có sự chấp nhận của chùa, tự ý xây một cái kháng (giường bằng gạch) trong phòng.
Lúc đầu tôi không biết chi cả, nhưng có người nói bóng nói gió trước mặt tôi rằng: “Tự mình không dạy nổi đệ tử mà còn thâu nhận đệ tử, thật ngượng mặt, xấu hổ thì thôi đi! Phận làm đệ tử chưa xong, lại muốn làm Sư Tổ!” Tôi nghe vậy, cảm thấy kỳ lạ, liền đi xem coi chú ta đã làm chuyện gì.
Trên đường gặp một Sư huynh, huynh ấy nói với tôi: “Đệ tử của chú tạo phản, y không tuân theo quy củ của chùa gì hết, chưa được đồng ý mà tự mình dám làm giường sưởi rồi. (kháng bằng gạch, phía dưới là lò sưởi). Lúc tôi bước vào phòng xem thấy chú ta đang ngồi thiền trên cái kháng mới xây.
*
Thấy tôi vào, chú xuống kháng đảnh lễ. Tôi hỏi: “Ai bảo chú làm kháng này vậy?”
Chú nói: “Không ai cả!”
Tôi nói: “Tức nhiên không có ai bảo làm, tại sao chú lại tự ý, tùy tiện xây kháng chớ? Vậy là phạm quy luật rồi!”
Chú ta không có lời gì để nói bèn sụp quỳ xuống đó. Tôi nói: “Chú lên chánh điện sám hối, quỳ một cây nhang cho tôi!” (tức là quỳ cho đến khi nào tàn hết một cây nhang mới thôi.) Nửa giờ sau, tôi lên chánh điện không thấy chú ta quỳ hương. Tôi lại đến phòng chú thì thấy chú ta đang ngồi vá áo trên kháng. Tôi hỏi chú: “Quả Năng, tại sao chú không quỳ hương?”
Chú nói: “Đợi một chút!”
Tôi nói: “Nếu chú không Bồ Tát Chiên Đà La muốn quỳ thì để tôi quỳ giùm cho chú vậy!”
Nói xong, tôi lên chánh điện thắp hương và quỳ trên sàn gạch. Quả Năng thấy tôi quỳ, không chịu nổi, đứng phía sau tôi tha thiết khẩn khoản rằng: “Sư Phụ, con biết lỗi rồi, con xin Sư Phụ tha thứ cho con! Sư Phụ, xin Sư Phụ hãy đứng lên, con đang quỳ đây nè!” Tôi nói: “Tôi dạy đệ tử không nổi, nhưng tôi có thể tự dạy mình mà!”
*
Trải qua sự giáo huấn lần này, chú ta biết được hễ có lỗi tất phải mạnh dạn sửa đổi. Về sau, bất cứ nơi đâu, chú cũng đều tuân theo quy củ phép tắc đàng hoàng, lúc nào cũng dụng công tu hành. Có lần, tôi bảo chú ta đi làm công chuyện ở một thôn quê. Tôi nói: “Giao cho chú cây phất trần này, chừng nào gặp việc gì cấp bách hẳn lấy ra dùng, còn nếu không có chuyện gì khó khăn thì chớ dùng đến.”
Khi chú ta đến đó, có rất nhiều người đến tìm chú chữa bịnh cho họ. Quả Năng lấy phất trần của tôi ra, rồi chú phất người này một phất, phẩy cho người nọ một phẩy mà bịnh họ đều hết. Sau đó dân chúng lại ùng ùng kéo đến tìm chú. Cho nên từ sáng đến tối chú không có thời gian nghỉ ngơi mà cứ dùng phất trần để quét bịnh cho họ. Chú ta trở về nói với tôi: “Sư Phụ, cây phất trần của Sư Phụ linh thật! Người ta có bịnh gì, con phẩy một phẩy là hết bịnh ngay.”
Tôi nói: “Sợ rằng sau này các bịnh của họ sẽ vào thân của chú đấy, để tôi xem coi lúc đó chú phải làm sao?”
Tôi chỉ nói với chú ta như vậy và chú ta cũng không chú ý gì. Quả nhiên vài năm sau, chú tới Nam Hoa Tự với tôi và phát sanh bệnh ma chướng ở đó.
Lê Đình Sứng viết
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Ngọc viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Hôm nay con đọc đến trang 4 rồi, hay lắm luôn. Cảm ơn thầy tuệ tâm nhìu ạ!!!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!