Hòa Thượng Tuyên Hóa: 68. “Khổ” thông, thần thông
Hòa Thượng từng nói: “Lứa tuổi để đào tạo nhân tài trẻ em được ngũ nhãn lục thông dễ nhất là: trai thì trước khi 16 tuổi, còn gái thì trước lúc 14 tuổi.” Lúc Hòa Thượng ở Đông Bắc, Ngài đã từng chỉ dạy cho sáu chú đệ tử nhỏ đều được Ngũ Thông. Sau đó chúng theo Hòa Thượng đi hóa độ dân chúng tại Đông Bắc.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Có một chú bé 14 tuổi, chú rất tin tưởng tôi và rất muốn học thần thông, nên làm thị giả cho tôi. Chú đi theo tôi cũng được hơn 100 ngày. Tôi nói: “Chú muốn học thần thông, trước tiên phải chịu “khổ thông”; khi thọ hết khổ rồi mới có thể được thần thông, nếu chú chịu khổ không nổi thì sẽ không được thần thông!” Rồi tôi cho chú chịu mọi thứ khổ, điều nhẫn không được cũng phải nhẫn, việc nhường không được cũng phải nhường, thức ăn không được cũng phải ăn, cái chịu không nổi cũng phải chịu. Mỗi ngày tôi cho chú ta nếm đủ mùi vị khổ.
*
Có một lần, chúng tôi ở trong nhà một vị cư sĩ nọ và hễ đến bất cứ nơi nào, chúng tôi đều ngồi thiền hai giờ đồng hồ trước khi đi ngủ. Bữa đó, chắc có lẽ quá mệt, nên chú ta ngồi được một giờ là nằm dài ra ngủ. Tôi đi tới lấy gối nằm của chú liệng xuống đất. Chú biết là tôi không cho phép chú nằm, nên chú ta mau thức dậy ngồi thiền tiếp. Và chú ngồi đến khi nào tôi nghỉ thì chú mới được nghỉ, đó là lần thứ nhất.
Còn có một lần trời mưa, chúng tôi đang trên đường đi, thấy có một cái bánh ở dưới đất. Bánh này dày như bánh mì, bị ngâm dưới nước mưa. Chú nói với tôi: “Sư Phụ, ở dưới đất có cái bánh kìa!”
Tôi nói: “Chú lượm lên ăn đi!”
Chú ta cười cười thôi chớ không có nhặt cái bánh đó lên. Đợi đi thêm một dặm đường nữa, tôi nói với chú: “Mỗi ngày chú đều muốn cầu thần thông, hôm nay nếu chú ăn cái bánh kia, chắc chú đã được thần thông rồi! Nhưng tiếc quá, lúc đó chú đã không ăn nó!”
Chú nói: “Vậy để con trở về đó ăn.”
Tôi nói: “Đã nói toẹt ra rồi, không còn linh nghiệm nữa. Bây giờ chú có ăn đi nữa cũng không có tác dụng gì!”
Chú nghe xong bèn khóc òa. Tôi nói: “Từ từ đã, sau này chú vẫn còn có cơ hội mà!”
*
Qua năm tháng sau, chú ta hốt nhiên bừng tỉnh, cái gì cũng biết hết. Trừ lậu tận thông ra, chú ta được thiên nhãn thông, túc mạng thông, thiên nhĩ thông, có được năm thần thông. Người nào trong tâm nghĩ gì, chú ta đều biết, rất là lợi hại! Tại sao chú ta mau có thần thông như vậy? Vì chú ta là đồng tử, cho nên tu hành rất mau tiến bộ; nhưng cũng không phải là việc dễ dàng đâu. Ở Đông Bắc, tôi đào tạo được sáu chú như vậy. Bây giờ tôi đến đây (Mỹ) nên không biết các chú hiện ra sao?
Lúc bấy giờ, các chú và tôi đi khắp nơi hóa độ người, các chú giúp tôi rất nhiều. Tôi nay ở đây nếu lại có sáu người như vậy tới phụ giúp tôi, thì không cần bảo người ta tin Phật, tự nhiên người ta cũng tin!
Tôi ở Đông Bắc còn có một đệ tử, chú này khoảng 14 tuổi. Tuy rằng là đệ tử nhỏ, nhưng thần thông của chú không nhỏ chút nào. Chú có thể lên đến trời và chui xuống đất. Chú có được ngũ nhãn nhưng không được lậu tận thông. Nếu được lậu tận thông là chứng đắc quả vị A La Hán rồi.
*
Một ngày nọ, chú ta chạy lên trời chơi. Thiên ma trên đó rất thích chú, bèn nhốt chú vào trong cung điện của ma vương, là một cung điện sáng bóng trong suốt giống như xây bằng lưu ly, vô cùng mỹ lệ. Vì chú có ngũ nhãn, nên thấy được pháp thân mình đến chỗ đó nhưng không ra được.
Chú bèn nói với tôi: “Sư Phụ, con lên trời, bây giờ không trở về được!”
Tôi nói: “Ai bảo chú đi vậy?”
Chú ta nói: “Con tưởng ở trên đó vui lắm nên mới đến xem thử, ai ngờ mấy người trên đó không cho con về.”
“Chú nghĩ chơi vui thì được, nhưng chú không được lên đó chơi! Đó là thiên ma ở trời lục dục thiên, chuyên môn phá hoại định lực của người tu hành đấy!”
Nghe tôi nói vậy chú ta càng hoảng hốt, nói: “Ma vương nhốt con lại rồi, không cho con trở về, vậy phải làm sao đây?”
Tôi nói: “Chú đừng sợ! Ta nay dạy cho chú cách trở về.”
Tôi dùng chú Ngũ Đại Tâm trong chú Lăng Nghiêm khiến cung điện của ma vương tan biến mất. Do đó chú ta mới được thoát thân trở về. Thật là đã xảy ra chuyện như vậy.
*
Mỗi ngày tôi thường cùng với 20 mấy đệ tử quy y của tôi niệm chú Đại Bi. Mỗi lần niệm là chúng tôi quỳ niệm đến hai giờ đồng hồ. Trong nhà vốn không có bông hoa, nhưng khi chúng tôi trì chú Đại Bi khoảng hơn 200 biến là nghe có mùi hương thơm ngát khắp nhà. Loại hương này tuyệt không có ở nhân gian, từ xưa đến nay chúng tôi chưa bao giờ ngửi được mùi hương như vậy.
Tôi có một chú đệ tử vừa trì chú Đại Bi vừa hít ngửi mùi hương thơm, càng thơm chừng nào, chú ta càng hít dữ chừng nấy: “A! Thơm quá! – A! Thiệt là thơm quá!” Tôi nói: “Chú làm cái gì vậy hả?” “Thơm quá đi thôi!” Tôi nói: “Chú hãy chuyên tâm trì chú Đại Bi đi, chớ có chạy theo mùi hương như vậy.”
Về sau các đệ tử của tôi đều được một số cảm ứng, cũng đều khai mở trí huệ hiểu biết các pháp và tâm lượng cũng lớn rộng. Sau đó, tôi muốn đem các chú trẻ này tới đây, nhưng rất tiếc là các chú không thể đi xa nhà. Sau này các chú đều bị mất trí huệ đã có được cũng như tất cả các sự diệu dụng khác. Hiện tại các chú cũng giống như những người bình thường khác mà thôi!
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 69. Đại Lão Hòa Thượng Thường
Nhân Đại Sư Thường Nhân là người ở thôn Chính Hoàng Kỳ, Tứ Đồn, huyện Song Thành, tỉnh Kiết Lâm, sinh vào cuối triều Thanh. Ngài chưa từng được đi học, nhưng bẩm tánh thuần hậu và gặp vận may. Lúc Ngài 18 tuổi được ảnh hưởng bởi sự thủ hiếu của ông Dương Nhất, Ngài tự quy định mỗi ngày lễ lạy cha mẹ mình. Mười năm sau, trong vòng 18 ngày cha mẹ Ngài lần lượt bị bịnh và cả hai đều qua đời. Ngài tức Vương Hiếu Tử bèn kết am thủ hiếu.
Trong thời gian thủ hiếu, Ngài tịnh khẩu, chỉ ăn gạo sống. Lúc sắp mãn hạn ba năm thủ hiếu, Ngài dự tính đến Thiên Quảng Nhị Sơn tu hành. Sau có quới nhơn chỉ bảo rằng: “Vì Thầy thành tâm thủ mộ, lòng hiếu thảo của Thầy đã cảm động đến trời, mong nhờ ơn đức Thầy sẽ hóa độ chúng sanh sau này. Thầy có duyên với huyện Song Thành chớ không phải ở Thiên Quảng Sơn.”
Lão Hòa Thượng Thường Nhân thủ hiếu được sáu năm, công phu thiền định tam muội càng siêu xuất và đã hiển hiện nhiều cảnh giới không thể nghĩ bàn. Qua hành động và cử chỉ Ngài đã ngấm ngầm dạy bảo hóa độ rất nhiều người. Sau khi thủ hiếu viên mãn, dân làng trong 48 thôn hợp nhau cử hành nghi lễ khánh chúc long trọng, đồng thời họ cùng tuyên thệ sẽ hợp lực với nhau ủng hộ Tam Bảo, kiến lập chùa Tam Duyên làm đạo tràng mãi mãi.
*
Vào năm Dân Quốc thứ 28 (1939) Đại Sư Thường Nhân thọ nhận pháp của Đại Lão Hòa Thượng Thanh Trì tại Thượng Phòng Sơn, Bắc Kinh. Về chùa, Ngài cử hành lễ thăng tòa nhậm chức phương trượng. Ngày 17 tháng 3 là sanh nhật của Ngài. Các cư sĩ ở cách xa ngàn dặm cũng tụ hội về chúc thọ Ngài. Thậm chí quan khách tới dự lễ có đến hơn 5 ngàn người. Tướng quân khu tư lệnh Nhật Bổn cũng đến lễ bái.
Bình Phòng vốn là khu quân mật, cấm túc sự đi lại của dân chúng. Nhưng vào ngày này chính quyền cũng xả cảng cho mọi người lui tới chùa dự hội. Đây là một Đại lễ long trọng rất hiếm có thời bấy giờ. Lão Hòa Thượng cũng nhân buổi lễ bèn sáng tác kệ chúc mừng:
Vua Thuấn đại hiếu cảm động trời,
Voi giúp canh tác, chim nhổ cỏ.
Sư tôi hôm nay càng chí hiếu,
Người trời chúc mừng, Phật cũng vui.
Sau lễ Thăng Tòa, Ngài quyết định mở mang tùng lâm, cất thêm phòng xá cho Tăng chúng và thâu nhập chúng Tăng, thành lập thập phương thường trụ. Hầu hoàn thành công trình này phải cần một ngân khoản lớn. Đương thời có một phú ông muốn tự mình đài thọ hết khoản chi phí, nhưng Lão Hòa Thượng khước từ, nói:
*
– Vì đây là đạo tràng của thập phương nên do thập phương thí chủ bố thí trồng phước, vì thế tôi muốn đi quyên góp hóa duyên với từng nhà để góp gió thành bão. Nếu mọi người cùng nhau hợp lực, đoàn kết nhất trí tức chúng ta sẽ thành công, đều là do bá tánh cùng nhau tạo phước.
Sau đó Ngài bảo Hòa Thượng đi quyên góp từng nhà một, không phân biệt giàu nghèo mà từ bi bình đẳng quảng độ chúng sanh. Sau khi Nhật Bổn đầu hàng vô điều kiện, ách vận của Trung Quốc vẫn chưa kết thúc. Đông Bắc lại bị Nga Xô xâm chiếm, rồi cướp giật đốt nhà, giết hại dân chúng tạo tội ác tầy trời. Hòa Thượng nhận thấy tình thế không ổn định nên đề nghị ngưng việc tu cất chùa chờ đợi thời cơ.
Lão Hòa Thượng không nghĩ là vậy và tiếp tục công trình xây cất tạo phước lành cho chúng sanh. Sau khi chùa Tam Duyên được hoàn tất, năm 1946 Đại Lão Hòa Thượng đi vân du bốn phương (Hòa Thượng lúc đó 29 tuổi đi các nơi tham phỏng). Đại Lão Hòa Thượng viên tịch tại chùa Niêm Hoa, hưởng thọ 72 năm, giới lạp 22 năm.
Hòa Thượng làm kệ tán:
Được trời ưu đãi, quy về chân nguyên.
Một chữ không biết, vạn pháp tự thấu.
Chí đức chí hiếu, tận nghĩa nhân từ
Ví như sao sáng, Bắc Đẩu tụ tập.
Lại tán rằng:
Ít nói, trầm mặc, lời chậm rãi,
Cung hành thực tiễn biết đúng thời.
Thành khẩn, hoan hỷ cùng khiêm nhượng,
Cung kính, thuần hiếu, mong cận Sư,
Thủ hiếu sáu năm tu phạm hạnh,
Lưu danh thiên cổ, tiếng vang lừng,
Nghe danh hóa độ đức nghiệp trọng,
Người tin nghe pháp giữ chánh niệm.
(Ngày 22 tháng 11 năm 1985)
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 70. Cất chùa kết duyên
Hòa Thượng vì giúp đỡ tu sửa chùa Tam Duyên nên theo Hòa Thượng phương trượng bôn ba các nơi mượn xe, tìm người vận chuyển vật liệu kiến trúc.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Lúc tu sửa chùa, tôi vẫn còn là Sa Di. Vì giúp đỡ Hòa Thượng phương trượng tu sửa chùa nên phải ra ngoài hóa duyên. Tuy Hòa Thượng không tịnh khẩu nhưng Ngài nói chuyện không mấy khéo và nói rất chậm rãi. Các vị có nói với Ngài một tiếng đồng hồ đi nữa, Ngài cũng chỉ đáp lại các vị một câu vỏn vẹn.
Ngài là người không thích nói chuyện. Đi tới nơi nào, cũng không biết là Ngài thật có định lực hay giả bộ, vì Ngài thường nhắm mắt giống như Lão Tăng đang nhập định vậy. Hai thầy trò đi hóa duyên mà Ngài lại nhập định như thế thì tôi chỉ có nước phải xuất định thôi. Cho nên đi đến đâu quyên góp tôi cũng là người nói chuyện. Tôi thường không nói gì nhiều và cũng không khéo ăn nói. Khi hóa duyên tức quyên góp, tôi nói làm sao? Tôi nói thẳng rằng: “Chúng tôi hôm nay đến nhà của các vị. Các vị có biết tại sao chúng tôi tới đây không?”
Có người hỏi: “Để làm gì?”
*
Tôi nói: “Vị Hòa Thượng này là Vương Hiếu Tử mà mọi người tôn kính, Ngài hiện là Hòa Thượng phương trượng của chùa chúng tôi. Hôm nay chúng tôi đến nhà các vị, các vị nên sanh tâm hoan hỷ. Tại sao phải sanh tâm hoan hỷ? Chúng tôi hiện đem phước đức tới nhà các vị, cho các vị có cơ hội để trồng phước lành. Vì e rằng các vị không có thì giờ tới chùa tạo phước nên chúng tôi mới đem phước tới tận nhà các vị đây. Các vị muốn nhận thì nhận, còn không muốn thì chúng tôi cũng không miễn cưỡng. Chùa Tam Duyên của chúng tôi hiện đang xây cất, nếu các vị có tiền thì bố thí chút tiền còn không tiền thì ra chút sức làm công quả.”
Các người đó vừa nghe tôi nói có Vương Hiếu Tử đến là vội vàng cúi lạy, đảnh lễ. Họ vốn không biết lễ lạy, nhưng vì đức độ của Hòa Thượng phương trượng rất lớn, danh tiếng cũng vang lừng, nên đã cảm động đến rất nhiều người tranh nhau phát tâm bố thí những cái khó xả nhất. Người này nói: “Số tiền kiếm được trong mười mấy năm qua, nay con xin cúng hết.” Người kia nói: “Ở chỗ kia con có món nữ trang, chiếc vòng vàng, con cũng quyên cho các Thầy luôn.” Cho nên chúng tôi quyên được rất nhiều tiền để tu sửa chùa, nhưng vẫn không đủ sở phí.
*
Người Hoa toàn là thích nghe nói lời cát tường, nên nhiều bà có con nhỏ thấy chúng tôi đến nhà quyên góp liền bế con tới hỏi Hòa Thượng phương trượng: “Thầy coi dùm đứa bé này có dễ nuôi hay không vậy?” Bất cứ bà nào hỏi vậy, Hòa Thượng phương trượng đều đáp là “Dễ nuôi!”
Tôi hỏi nhỏ Ngài: “Thầy làm sao biết được con của bà ta là đứa dễ nuôi mà Thầy đều nói là con họ dễ nuôi hết trơn vậy?”
Hòa Thượng phương trượng nói: “Các người đàn bà họ đều thích nghe lời khen, cho nên tôi mới nói điều họ thích nghe đó mà.”
Tôi nói: “Như chuyện lúc trước, có một bà hỏi con bà có dễ nuôi không? Thầy cũng đáp là ‘Dễ nuôi,’ ai ngờ đâu, không quá ba ngày sau là đứa bé đã qua đời.”
Hòa Thượng phương trượng hỏi tôi: “Vậy phải trả lời ra sao mới ổn hả?”
Tôi nói: “Nếu lại có người đến hỏi con họ có dễ nuôi hay không, Thầy cứ bảo họ lại hỏi con là được rồi.”
*
Qua ngày sau, lại có người bồng con tới hỏi về vấn đề này, tôi nói: “Con bà có dễ nuôi hay không? Chuyện này bà phải tự hỏi mình. Tại vì sao? Thí dụ như con bà vốn trường thọ, tôi cũng nói là nó ‘dễ nuôi thành tài’. Nhưng bà không kiêng nể gì cả mà tạo nghiệp, con bà sẽ vì nghiệp bà tạo đó mà bị chết yểu. Lúc đó bà sẽ nói tôi, người xuất gia này nói không linh nghiệm.
Nói cách khác, nếu con bà vốn yểu mạng, nên tôi nói là ‘khó nuôi thành tài’. Nhưng bà tức thời thức tỉnh sửa ác, âm thầm làm thiện tạo đức. Như vậy đã tăng thêm phước thọ cho đứa bé. Cho nên bà nuôi nó nên người không cực khổ gì. Lúc đó bà cũng sẽ nói tôi, người xuất gia này nói không linh nghiệm. Cho nên, bà không nên hỏi người ta ra sao, mà tất cả phải phản hồi lại hỏi chính mình mới phải!”
*
Có một lần ở Harbin, chúng tôi gặp một Mục Sư người ngoại quốc. Ông nói với chúng tôi: “Phật giáo muốn người ta lạy tượng Phật bằng gỗ, đây thật là điều mê tín, không có lợi ích chi cho con người!”
Tôi đáp: “Ông không bái tượng gỗ, thì lại có ích lợi gì chớ?”
Đức Cha đó nói: “Thì không bị mê tín đó.”
Tôi nói: “Lạy Phật là giảm bớt tập khí tự đại kiêu ngạo của chúng ta, cũng là cách thể dục hay nhất để tăng cường sức khoẻ, vậy còn có cái gì tốt hơn cái này nữa? Còn như ông nói là “mê tín” thì đó vốn là cái danh từ bình thường nhất. Cho nên “mê tín” là chỉ cho kẻ phàm phu bị mê hoặc. Nếu người đó sanh khởi tâm cầu tin chánh pháp thì tương lai quyết định sẽ thành Phật, không chút nghi ngờ.
Ngoài ra còn có một loại “tín mê” tức là tín mà mê, thường là loại ngoại đạo. Ngoại đạo tuy có tín ngưỡng, nhưng tin theo một cách mù quáng, vô đường tà mà không biết, nên tương lai tạo nghiệp thọ báo không thể nói hết. Còn có một loại là “mê bất tín” là chỉ thiên ma. Thiên ma mê hoặc khiến người đọa lạc thành quyến thuộc của hắn mà bài xích chánh pháp, tất nhiên trong tương lai phải chịu vô biên khổ não.
*
Sau hết là “tín bất mê” đó là thánh hiền. Vì tin chánh pháp nên thánh hiền được giác ngộ, lúc nào cũng “bát nhã thường minh”, chiếu phá hết thảy mê ám. Do quán như vậy, nên tin Phật, lạy Phật là pháp môn phương tiện thù thắng nhất.
Tôi nhớ lúc bấy giờ ở thôn Đông Tỉnh Tử có một căn nhà nuôi toàn chó Bẹc-giê rất hung hăn. Dân làng ở đó sợ chúng như sợ cọp, không ai dám tới nhà đó. Chúng tôi đến nhà quyên góp, bọn chó không những không sủa như điên mà còn vẩy đuôi hoan nghinh, ngoan ngoãn như các chú cừu hiền lành, khiến cho các người hiện diện ở đó khó mà tin nổi.
Lại có ông thợ mộc họ Trương, tôi nói với ông: “Chùa Tam Duyên hiện đang xây cất, ông có thể tới chùa làm thợ mộc 10 ngày được không?”
Ông nói: “Dạ được.”
Tôi hỏi ông: “Tiền công là bao nhiêu?”
“Mỗi người 12 đồng.”
“Ông có thể nào trợ giúp trả tiền công cho bốn người không?”
Ông ta nói: “Con đâu có nhiều tiền như vậy.”
Tôi nói: “Hiện trong túi ông có đó, sao lại không chớ?”
Ông Trương không tin lời tôi nói, lập tức móc túi ra, quả nhiên không nhiều cũng không ít, vừa đủ “48 đồng.”
Ông ta tấm tắc thán phục không ngừng, và hoan hỷ cúng hết số tiền đó.
Lê Đình Sứng viết
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Ngọc viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Hôm nay con đọc đến trang 4 rồi, hay lắm luôn. Cảm ơn thầy tuệ tâm nhìu ạ!!!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!