Hòa Thượng Tuyên Hóa: 54. Mừng, giận do tâm
Hòa Thượng thật có biện tài vô ngại, chỉ cần Ngài sửa một chữ, đổi một chút là khiến người chuyển từ giận dữ sang vui mừng khâm phục. Từ những câu chuyện dưới đây cho chúng ta thấy được con người sở dĩ mừng vui hay hờn giận chỉ sai biệt ở tơ hào, tất cả đều do tâm tạo.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Ở Trung Quốc, khi Tết đến bất luận ở chùa hay ở nhà người ta thường viết câu đối liễn, còn gọi là huy xuân. Lúc đó tôi là Sa Di ở chùa, tôi viết: “Như ý cát tường,” hoặc viết những câu cát tường khác. Khi tôi viết bốn chữ “Trí huệ như hải,” vì viết rất nhanh, nên nét chữ xem rất có thần. Có một sư huynh Sa Di thấy bốn chữ này rất hoan hỉ nên mãi lẩm bẩm: “Trí huệ như hải, trí huệ như hải, trí huệ như hải … cứ lầm bầm hoài nghe rất chướng tai.
*
Tôi nói: “Tôi thấy nghiệp lực huynh mới như hải đó!” À, tôi chỉ nói vậy, mà Sư huynh ấy nổi trận lôi đình:
“Tôi thấy đệ viết mấy chữ như rồng bay phượng múa như vậy, không nhẫn được nên buộc miệng đọc ra, vậy mà đệ lại nói nghiệp lực tôi như hải. Có phải đệ muốn mắng tôi không?”
Đoạn huynh ấy sần sộ như muốn đánh lộn với tôi vậy.
Tôi nói: “Huynh chớ vội nóng nảy, tôi nói nghiệp lực huynh như hải, thì huynh đáng lẽ không nên nóng giận, mà còn phải cám ơn tôi đã chúc phước cho huynh mới phải chứ!”
– Há có lý này à! Đệ nói nghiệp lực tôi như hải, mà còn muốn tôi cám ơn đệ? Là đạo lý gì thế!
Tôi nói: “Huynh có biết thế nào là nghiệp không? Nghiệp lực là những gì mình tạo tác ở kiếp trước thì kiếp nầy phải chịu. Nghiệp lực có thiện nghiệp và ác nghiệp. Tôi đâu nói ác nghiệp huynh như hải, giả như tôi nói thiện nghiệp huynh như hải, thì sao?”
Huynh ấy trố mắt, cứng miệng, rồi nói: “Vậy thì không có vấn đề gì!”
Huynh ta nghe tôi giải thích như vậy liền hết giận, vui vẻ trở lại và lại còn xin lỗi tôi. Các vị thấy có kỳ diệu lắm không! Khi tôi chưa nói rõ chữ đó, huynh ta đã nổi sân, tôi lại thêm vào một chữ Thiện nghiệp như hải, thì huynh tức khắc không còn nóng giận nữa, các vị nói có kỳ quái không? Tâm con người thì kỳ quái như vậy, chỉ xê xích một chữ thôi tức họ sẽ hỷ (vui) hoặc nộ (giận), nghiệp lực là thế đấy!
*
Lại một lần nữa, cũng là vị Sa Di nầy. Khi thấy tôi cầm một cuộn giấy, huynh ta lại nhiều chuyện hỏi tôi: “Cái gì vậy? Cái gì vậy?”
Tôi nói: “Là giấy giao kèo bán huynh đó!”
Huynh ta lại nổi sân lên: “Đệ có tư cách gì để bán tôi hả? Đệ có quyền gì bán tôi chớ?”
Tôi nói: “Đương nhiên là tôi có quyền. Tôi bán huynh, đáng lý huynh phải rất hoan hỷ mới phải, nếu huynh không hoan hỷ, tôi sẽ không bán đâu! Tôi bán huynh, có người mua huynh, huynh nhất định phải hoan hỷ đó!”
Huynh ta bốc lửa sân, nói: “Thật là vô lý! Đệ bán tôi, có người mua tôi, mà tôi còn thấy hoan hỷ nữa sao?”
Tôi trả lời: “Huynh biết tôi bán huynh cho ai không?”
Huynh ấy hỏi: “Bán cho ai?”
Tôi đáp: “Tôi đem huynh bán cho Phật Thích Ca Mâu Ni để vĩnh viễn được làm Hòa Thượng đấy!”
Lúc bấy giờ huynh ta trố mắt nhìn tôi. Tôi nói: “Có được không? Huynh có mừng hay không?”
– Được, được!
Các vị đừng tưởng là tôi nói chuyện đùa, các vị thử nghĩ xem, đã đem huynh ấy bán đi, mà huynh ấy còn vui mừng nữa, đó cũng là diệu pháp đấy!
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 55. Sa Di Thủ Tọa
Đợi đến khi phương trượng, Hòa Thượng Thường Nhân về chùa Tam Duyên, Ngài phá lệ mà tuyển Hòa Thượng làm thủ tọa, thậm chí rút thăm ba lần ở trước Bồ Tát Vi Đà, đều rút trúng tên Hòa Thượng. Hòa Thượng đã từng nói: “Bồ Tát Vi Đà đã phát nguyện, dù các vị tu hành có được ba phần, nhưng sẽ được bảy phần cảm ứng. Bồ tát sẽ giúp các vị, nếu các vị không tu hành, đương nhiên sẽ không có cảm ứng.”
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Một thời gian sau, Hòa Thượng phương trượng trở về chùa. Vừa gặp tôi, Phương Trượng nói: “Chú tới rồi đó hả!”
Tôi đáp: “Dạ! Con tới rồi!”
“Tốt lắm, Thầy mời chú làm Thủ Tọa đó!”
Sau đó Ngài mở cuộc họp tuyển chọn Thủ Tọa. Trong chùa trừ Hòa Thượng phương trượng ra thì chức vị Thủ Tọa là lớn nhất. Trong chùa có mười mấy vị Thầy mà Phương Trượng không tuyển chọn, Ngài lại chỉ định tôi làm thầy Thủ Tọa. Mọi người đều phản đối rằng: “Chú ấy mới xuất gia, sao làm Thầy Thủ Tọa cho được?”
Phương Trượng nói: “Như vậy chúng ta hãy đến chỗ thờ Bồ Tát Vi Đà rút thăm.”
*
Thế là tên những người có tư cách làm Thủ Tọa được viết trên giấy rồi bỏ vào ống tre và lắc ra tên ai, thì người đó làm Thủ Tọa. Lắc vài lần, kỳ lạ thay! Có lẽ Bồ Tát Vi Đà muốn tìm chút việc cho tôi làm, nên lắc ba lần đều văng ra tên của tôi. Sau đó không ai dám phản đối nữa, vì do Bồ Tát Vi Đà an bày mà.
Cho nên lúc còn là Sa Di, tôi đã làm Thầy Thủ Tọa cho chùa rồi vì Hòa Thượng phương trượng đã nhận ra tôi. Sự quyết định này khiến cho một số Thầy lớn trong chùa tức chết được. Các Thầy đó gặp tôi, người này thì trừng mắt, người kia thì cau mày khỉnh mũi, tỏ thái độ khinh thường tôi và nói:
“Hòa Thượng phương trượng thật điên đảo, ai đời cho Sa Di làm Thủ Tọa chứ? Đúng là lừa sư diệt tổ!” cứ như thế mà mắng nhiếc tôi. Tuy bị sỉ nhục, nhưng tôi cảm thấy rất mát ruột. Ai mắng tôi thì tôi coi như đang ăn đường mật; ai đánh tôi, tôi coi như được ăn bánh “nhân đậu”.
*
Làm Thủ Tọa rồi, Hòa Thượng phương trượng lại còn muốn dạy tôi làm quản gia tức như là trụ trì vậy. Tôi nghĩ: “Việc này quá phiền phức đi! Tôi không cầm giữ tiền, thì các vị thử làm sao cai quản cái (gia) chùa này được chứ?” Cho nên khi Phương Trượng bảo tôi làm trụ trì, tôi nói: “Dạ được, nhưng con không đụng tiền! Người khác giữ tiền, người khác đếm tiền, con đi đến bất cứ nơi nào, con cũng không giữ tiền, nếu Thầy chấp thuận điều kiện này thì con sẽ làm trụ trì của chùa!” Cũng vì vậy, tôi bắt đầu trì giới “không nắm giữ tiền bạc, của cải!”
Lúc đó ở Đông Bắc, có một khoảng thời gian tôi và tiền phân cách, tôi không sờ đến tiền. Khi đi xe lửa, tôi tới trạm xe đợi. Có điều rất kỳ lạ là mỗi lần tôi đến bất cứ nơi nào, đợi ở trạm xe, thì nhất định đều có người quen thuộc đến hỏi tôi đi đâu và mua vé cho tôi.
Lê Đình Sứng viết
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Ngọc viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Hôm nay con đọc đến trang 4 rồi, hay lắm luôn. Cảm ơn thầy tuệ tâm nhìu ạ!!!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!