Hòa Thượng Tuyên Hóa: 49. Ngôi mộ Hiếu Tử ở Trường Xuân
Cuối đời Thanh, thời vua Quang Tự, ở Trường Xuân có một vị gọi là Vương Mộng Tỉnh. Mẹ ông bị bịnh chết, an táng tại Trường Xuân. Ông đến chùa Thiên Sơn Danh, Vô Lượng Quán xuất gia học đạo. Mười mấy năm sau, ông ta kết am bên mộ mẹ thủ hiếu ba năm, chỉ uống nước lạnh và ăn gạo sống. Ông ta mất năm 1934. Người dân làng đem ông chôn cùng với chỗ mộ mẹ ông và gọi là “Mộ Hiếu Tử.”
Suốt đời Hòa Thượng lấy hiếu làm đầu, nên không chỉ giảng qua một lần về Vương Mộng Tỉnh này. Mục đích để khuyến khích đệ tử lấy hiếu đạo làm căn bản trong bổn phận làm người.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
Vương Mộng Tỉnh là người sinh vào khoảng vua Quang Tự cuối đời nhà Thanh tại Trường Xuân tỉnh Kiết Lâm. Ông vốn là người thích tu đạo vì cảm thấy đời người giống như một giấc mộng. Khi mẹ ông qua đời, ông trở về Trường Xuân thủ hiếu bên mộ mẹ. Trong thời gian thủ hiếu, ông không ăn đồ nấu chín, chỉ ăn gạo sống; Ông nắm một nắm gạo, đó cũng là thức ăn cho một ngày của ông. Tay nắm được bao nhiêu gạo thì ăn bấy nhiêu. Gạo này không phải do ông mua, mà có người đem đến.
*
Nếu không có ai đem đến cho thì ông không ăn. Nếu có nhiều người đem gạo đến, ai đem đến trước thì ông dùng nắm gạo của người ấy, chớ không ăn gạo của người đem đến sau. Đương thời, Tào Côn là Doanh Trưởng cũng thường đi thăm Vương Hiếu Tử.
Người ta truyền rằng ông có đạo, lại có công phu ra sao sao nên có rất nhiều người tranh giành nhau cúng dường; Có người cho tiền đồng hay tiền giấy, ông cũng để mặc; Tiền giấy bị gió thổi bay mất, hay bị người trộm lấy tiền đồng, ông cũng không thêm chút phòng ngừa nào. Điều này khiến dẫn đến sự dòm ngó của bọn lưu manh, du đảng. Bọn chúng bảo nhau rằng:
“Ông ta không thu cất các tiền lẻ, mặc ai muốn lấy thì lấy, như vậy chắc ông ta có rất nhiều tiền. Nếu không, sao lại để tiền vung vẩy như thế.” Do đó, ban đêm họ đến đánh cướp. Thấy ông ngồi ở đó, bọn cướp gian ác lấy dao uy hiếp bắt ông đưa ra vàng bạc châu báu. Vương Mộng Tỉnh nói ông không có tiền, nhưng bọn cướp không tin bèn lấy dao đâm cổ họng ông rồi mới bỏ chạy.
Ngày hôm sau, cảnh sát đến, thấy ông ta thoi thóp gần chết, không nói được. Lúc đó ở Trường Xuân rất náo nhiệt, vì có nhiều người từ các nước đến cư ngụ ở đó.
*
Cảnh sát hỏi ông, người nước nào giết ông, ông đều lắc đầu. Cảnh sát nói: “Không lẽ trời giết ông sao?” Ông gật đầu. Cảnh sát nói: “Nếu Trời hại ông, chúng tôi không thể nào kêu Thượng Đế bồi thường nhân mạng cho ông được.” Thế là ông tắt thở.
Lúc Nhật Bổn chiếm đóng Đông Bắc, thành lập Đế Quốc Ngụy Mãn Châu, đóng đô ở Trường Xuân. Họ muốn kiến thiết một con đường lớn, mà mộ của Hiếu Tử lại ở nằm chắn ngay giữa đường. Những công nhân muốn dời mộ qua một bên, nhưng ai đào giẫy đến mộ đều té xỉu hay bị thương.
Người Nhật Bổn không tin nên gài mìn, còn cho máy bay bỏ bom, nhưng bom cũng đều không nổ. Họ lại bảo vua Tuyên Thống hạ chiếu chỉ dời mộ. Nhưng mộ Hiếu Tử vẫn sừng sững oai nghiêm bất động ở đó, không ai dời được. Cuối cùng, người ta nghe có tiếng nói trong mộ:
“Bồ đoàn tĩnh tọa đã lâu năm. Tu thân dưỡng tánh thủ chân nguyên. Cốt mẹ ta chưa đến lúc dời. Mộ ta di động chỉ do Trời.” Cả Đông Bắc ai ai cũng biết mộ Hiếu Tử này rất linh thiêng. Có những người từ nơi xa xôi cũng đến đây thắp hương cầu nguyện. Bản thân tôi cũng đến viếng mộ Hiếu Tử và còn lưu lại một đêm ở cổ miếu đạo Lão.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 50. Lục đạo luân hồi
Chúng sanh, sanh rồi lại chết, chết rồi lại sanh, cứ luân chuyển trong vòng lục đạo luân hồi. Hòa Thượng đã từng nói: “Các vị tuyệt đối không thể hoài nghi về lục đạo luân hồi! Nếu các vị nghi ngờ, thì các vị không cần phải tin Phật. Chẳng lẽ Phật nói lục đạo luân hồi là để gạt các vị sao? Nếu các vị có được ngũ nhãn lục thông sẽ thấy lục đạo luân hồi rất rõ rệt.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
1. Heo con tự nguyện đói chết
Ở thành phố Harbin có một Thầy bị bịnh. Một ngày nọ, Thầy cảm thấy mình bị chết, linh hồn đi đầu thai ở một chỗ cách chùa không bao xa. Đầu thai làm gì đây? Làm con heo! Vừa thấy mình là thân heo, heo (Thầy) đó không chịu bú sửa nên đói chết. Hồn liền trở về thân của Thầy và sống trở lại, nói: “Hồi nảy tôi mới đi đầu thai làm con heo đó!.”
Người bên cạnh hỏi: “Thầy làm heo ở đâu?”
Thầy đáp: “Hiện tại tôi cảm thấy đã hết bịnh rồi, để tôi đưa Thầy đến đó coi. Nhà nọ có một con heo sinh ra bảy heo con, tôi là một con trong số đó. Tôi cố ý không bú sữa nên bị đói chết!”
Các Thầy khác bèn đi với Thầy đến đó xem. Quả nhiên nhà ấy có heo nái sanh ra bảy heo con, trong số đó có một heo con bị chết. Đây là kinh nghiệm của vị Thầy này. Tôi cũng biết vị Thầy ấy.
2. Chó con đầu thai làm vợ, lắm nỗi phiền
Tôi nhớ hồi ở Đông Bắc, có một người đóng kịch, vì có chút thông minh nên ông ta học được nhiều vở tuồng. Ông ta là nghệ sĩ và rất yêu thích một con chó. Con chó đó kiếp này lại là vợ của ông ta. Từ sáng đến tối, bà thường hay gây gổ với ông, giống như chó con kêu la tru tréo. Cả ngày bà kiếm chuyện làm ông dở khóc dở cười.
Nếu nói con chó (bà vợ) la lối om sòm, nhưng nó lại nói là giỡn chơi, còn nói là nó đùa giỡn thì nó nói là thật chớ không phải giỡn chơi. Cho nên không biết phải làm sao mới vừa lòng. Ông ta nói với tôi là vợ ông quá ư phiền phức, suốt ngày làm phiền ông. Ông muốn tu hành nhưng bà ta không để cho ông tu hành. Tôi nói:
“Tại vì ông không có định lực, nếu ông có định lực, bà ấy sẽ bỏ ông ngay. Khi bà ta gây sự với ông, ông đừng lên tiếng. Cho dù bả có làm lớn chuyện tới đâu, ông cũng nên mặc kệ. Tới lúc hết duyên thì phân tán, tự nhiên sẽ chấm dứt.”
Ông ta nói: “Thật vậy sao?”
Tôi nói: “Ông thử coi, xem sao!”
Thế là ông tu hạnh nhẫn nhục ở trong nhà, ông tu được 3 năm công phu nhẫn nhục, vợ ông cũng cãi cọ với ông suốt 3 năm, kết quả bà ta qua đời, không còn như chó sủa cấu xé ông nữa.
3. Ông “Lưu tay heo”
Ở huyện Du Thọ, Đông Bắc có “ông Lưu tay heo” vì tay của ông giống như móng heo. Ông Lưu nhớ được những việc xảy ra trong 3 kiếp trước của ông. Lúc đầu ông rất hiếu thuận với cha mẹ. Về sau ông đầu thai vào một gia đình rất giàu có.
Cha ông hơn 40 tuổi mới sinh ra ông. Ông kết hôn lúc 13 tuổi, ông cưới một người vợ, và vợ lớn hơn ông ta một, hai tuổi. Tuy cha của ông đã hơn 50 tuổi, nhưng cũng vẫn chưa đoạn tính dâm dục, nên cưới thêm một bà vợ nhỏ. Bà vợ bé với con dâu có tuổi tác xấp xỉ với nhau. Ông Lưu cưới vợ lúc còn thiếu niên và không đầy hai năm thì sanh được một đứa con trai. Khi con của ông ta đến 13 tuổi, ông lại cưới vợ cho nó. Con dâu lớn hơn con trai của ông vài tuổi.
Qua vài năm sau, cha mẹ ông đều qua đời và vợ bé của cha vẫn còn sống. Ông thấy mẹ kế có sắc đẹp nên lấy bà ta. Đến lúc ông 27, 28 tuổi thì con trai ông chết. Ông thấy con dâu cũng có nhan sắc nên lại dâm loạn với nàng dâu.
*
Đến lúc ông ngoài 40 tuổi, ông đột nhiên tỉnh ngộ, nghĩ rằng: “Ôi! Kiếp này sao tôi tạo quá nhiều ác nghiệp như vậy!” Lúc đó ông ta mới học Phật, tụng Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật. Trì tụng được mười mấy năm thì mất, lúc đó ông đã năm mươi mấy tuổi.
Vua Diêm Vương thẩm vấn ông: “Vì sao ông làm nhiều nghiệp ác như vậy? Nay đáng phải bỏ ông vào chảo dầu chiên mới được!”
Đoạn bảo hai con quỷ đến bắt ông bỏ vào chảo dầu! Lúc đó bên cạnh Diêm Vương có một vị Thẩm Phán quan nói: “Không thể được!”
Diêm La Vương hỏi: “Tại sao không được?”
Phán quan nói: “Vì ông ấy đã tụng Kinh Kim Cang. Trong bụng ông ấy có Kinh Kim Cang nên không sao chiên được. Ngài nên bảo ông ấy đi đầu thai trước. Đợi khi kinh Kim Cang hết rồi, mới bỏ hắn vào vạc dầu sau.”
Do đó Diêm Vương cho ông ta đi đầu thai làm người. Kiếp này ông ta sinh ra trong một gia đình nghèo khổ. Từ bé là đã rất tham ăn, ăn đến nỗi bụng phình trướng to thật to. Đến 5 tuổi thì ông bị bịnh chết.
*
Ba má của ông thấy bụng ông như vậy nói: “Ồ! Bụng của nó sao mà lớn quá thế, không biết trong đó có cái gì?”
Họ bèn mổ bụng ông ra xem thì thấy có thỏi gạch cứng như đá kim cang ở trong đó. Quỷ đứng kế bên bèn đưa ông ta đến vua Diêm Vương.
Vua Diêm Vương nói: “Bây giờ hãy bảo ông ấy đi đầu thai làm heo trước!”
Ông ấy lại đi đầu thai làm heo, được người ta cho ăn béo phì, sau đó bị giết! Trở về địa ngục, lần này vua Diêm Vương muốn lấy chảo dầu chiên ông, thì ông ta nói: “Ngài không cần phải chiên con! Xin hãy cho con đi làm người, và cho con giữ lại một cánh tay heo làm bằng chứng, để con khuyên người thế gian đừng tạo ác nghiệp!”
Vua Diêm Vương nói: “Vậy cũng được!” Rồi cho ông đầu thai trong gia đình nhà họ Lưu. Vì bẩm sinh có tay móng heo nên đa số người ta đều gọi ông là “Ông Lưu Tay Heo.”
Tôi cũng gặp qua người này và nói chuyện rất lâu với ông ấy. Ông ta nhớ rất rõ những việc ông đã làm trong quá khứ.
Lê Đình Sứng viết
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Ngọc viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Hôm nay con đọc đến trang 4 rồi, hay lắm luôn. Cảm ơn thầy tuệ tâm nhìu ạ!!!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!