Hòa Thượng Tuyên Hóa: 46. Chú, Cháu bái Sư
Người xưa vì muốn liễu sanh thoát tử, không sợ gian nan, trèo non vượt biển, tìm thầy học đạo, gặp thiện tri thức mà y giáo phụng hành quyết không thay đổi chí nguyện. Chuyện Quan Chiêm Hải bái sư khiến chúng tôi cảm nhận mình có nhiều phước báo mới được làm đệ tử Hòa Thượng.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể: Quan Chiêm Hải theo ông chú đi khắp nơi cầu đạo hết 3 năm, sau thêm 2 năm nữa, nên trước sau là 5 năm đi cầu đạo nhưng cũng chưa tìm được Sư Phụ. Ông ấy đối với tôi rất tốt, hằng năm vào những dịp lễ lớn ông hay mua lễ vật tặng tôi. Lúc đó tôi chỉ biết là ông rất tử tế với tôi mà thôi. Một lần nọ, tôi và ông đến chùa Tam Duyên, gặp Hòa Thượng phương trượng, tôi tưởng ông sẽ lạy Ngài làm Sư Phụ, nhưng ông ta cũng không lạy.
Trên đường về, đi đến nửa đường, qua một khu rừng, ông ấy nắm lấy tay áo tôi và quỳ trước mặt tôi. Tôi nói: “Ông làm gì vậy?”
Ông ấy nói: “Bấy lâu nay tìm đạo, người tôi tin tưởng nhất là Thầy nên tôi nay nhất định bái Thầy làm Sư Phụ!”
Lúc đó, tôi giả vờ giận dữ, vẩy tay áo, quay lưng bỏ đi. Đi được khoảng nửa dặm, tôi quay đầu nhìn thì thấy ông ta vẫn còn quỳ ở đó khóc.
*
Tôi quày lại đến trước mặt ông ta, nói: “Ông làm gì vậy?”
Ông ấy đáp: “Thầy nhất định phải thâu tôi làm đệ tử, nếu không, tôi sẽ quỳ ở đây cho đến chết!”
“Ông muốn quỳ chết ở đây thì cứ việc, không có ai bồi thường tánh mạng cho ông đâu, đây là do ông tự nguyện quỳ đó nhé!”
Tôi lại bỏ đi, đi xa khoảng một dặm, mà ông ấy vẫn còn quỳ ở đó. Thấy cảnh trạng quỳ khóc này khiến tôi không nỡ bỏ đi, nên tôi quay trở lại và miễn cưỡng nhận ông ta làm đệ tử quy y. Ông là đệ quy y đầu tiên của tôi ở Đông Bắc. Trước khi quy y, ông đã ăn chay, sau khi quy y, ông lại quá ngọ không ăn và luyện tập ngủ ngồi. Vị đệ tử này rất hiếu thuận, bất cứ lúc nào cũng tưởng nhớ đến Sư Phụ.
Ghi chú: Nghe nói, lúc Hòa Thượng thủ hiếu ba năm xong, Ngài đem tất cả sách vở đóng thùng gửi đến nhà của Quan Chiêm Hải ở thôn Bối Ấm Hà. Đến khi người nhà biết được tin Hòa Thượng ở chùa Tam Duyên thì lúc đó Hòa Thượng đã xuất gia rồi.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 47. Điều kiện quy y
Hòa Thượng thường dạy đệ tử, việc trọng đại nhất của con người là quy y Tam Bảo. Quy y không phải vì ham vui náo nhiệt, mà phải có trạch pháp nhãn, mắt chọn pháp, chớ không phải theo mù học mò. Lúc ở Đông Bắc, Hòa Thượng ra điều kiện cho những đệ tử quy y Ngài là phải mỗi ngày đảnh lễ cha mẹ và phải vá dùm một miếng vải trên áo Ngài.
Hòa Thượng kể: Lúc tôi 19 tuổi là Sa Di, đã có rất nhiều người muốn quy y tôi. Vì sao họ muốn quy y tôi? Vì thấy tôi dường như khác biệt với mọi người. Vào mùa đông tôi không mang giày vớ mà đi trên tuyết, bất kể trời lạnh hay không. Mùa đông, mùa hè tôi đều mặc ba lớp áo vải, không mặc đồ ấm nỉ. Một số người thấy khí trời ở 34, 35 độ dưới 0 độ mà tôi vẫn không bị lạnh chết nên họ thấy tôi rất đặc biệt, do đó có nhiều người quy y tôi.
Tôi vốn không muốn nhận đệ tử, nhưng họ rất thành khẩn, quỳ trước mặt tôi cả mấy tiếng đồng hồ cũng còn quỳ ở đó. Lúc tôi ở Đông Bắc, bất cứ tôi đi đến đâu, hễ mỗi lần quy y là có mấy chục người tranh nhau tới quy y. Do đó những vùng lân cận cách khoảng chùa tôi trong vòng một trăm dặm đều có đệ tử quy y tôi. Tôi rất ít nói chuyện với họ. Họ lạy tôi làm Sư Phụ cũng chỉ là lạy cái con người tôi như vậy thôi.
*
Đến bất cứ nơi nào, tôi cũng ngồi thiền, rất ít nói chuyện. Vì sao? Vì ở làng tôi, ai ai cũng biết gốc gác của tôi. Người người đều biết Bạch Hiếu Tử, đều công nhận đây là một người tốt rất đáng làm Thầy của họ. Vì vậy mà một số người gặp tôi, họ đều tin tưởng tôi. Có người chưa gặp tôi, họ cũng biết về tôi, ở đây tôi cũng có chút tiếng tăm.
Tôi có một điều kiện đối với các đệ tử quy y tôi ở Đông Bắc là mỗi ngày họ phải lạy cha mẹ của họ. Vì từ lúc 12 tuổi là tôi đã lạy cha mẹ, cung kính cha mẹ. Cho nên, muốn quy y tôi thì ít nhất cũng phải lạy cha mẹ của họ. Tôi rất thích mọi người biết hiếu thuận cha mẹ, đừng như: “Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng,” đừng chờ đến khi cha mẹ mất rồi mới hiếu thuận thì đã muộn màng.
Lúc tôi thủ hiếu bên mộ mẹ, tôi mặc áo tang trắng. Khi mãn kỳ tôi đem nhuộm đen làm áo tràng. Tôi luôn muốn mặc áo tràng đó để kỷ niệm mẹ tôi. Tôi chưa giặt áo này bao giờ, nhưng nó không dơ, cũng không hôi, lại còn thoảng mùi thơm nữa. Vì áo rách rất nhiều chỗ, do đó ở Đông Bắc hễ là đệ tử quy y tôi, mỗi người họ đều phải giúp tôi vá một chỗ. Vì vậy áo có rất nhiều chỗ chắp vá, hễ rách thì lại vá, họ vá đến cả ba tầng.
*
Nhưng lúc rời khỏi chùa Nam Hoa tôi quên đem áo này theo. Tôi cứ tưởng tôi sẽ trở về chùa Nam Hoa, cuối cùng tôi đã không trở về được. Nay tôi không biết là áo tràng đó có còn ở đó nữa hay không? Làm Sư Phụ người ta thật không dễ chút nào! Tôi vốn không đủ đức hạnh, không xứng đáng làm Sư Phụ ai, nhưng mà có rất nhiều người rất thành tâm đến quy y tôi, cho nên tôi bèn phát nguyện rằng:
Hễ quy y tôi, làm đệ tử của tôi phải tin tôi và biết y giáo phụng hành, thì tôi nhất định sẽ độ họ thành Phật. Nếu đệ tử quy y tôi không thành Phật, tôi cũng không thành Phật và tôi sẽ chờ đợi cho họ thành Phật. Nhất định là khi đệ tử quy y tôi thành Phật rồi thì tôi mới thành Phật. Mỗi lần có người quy y, tôi đều nói rõ nguyện này cho họ biết, đó là lời nguyện thốt ra từ đáy lòng của tôi.
Tôi đối với đệ tử của tôi là như vậy, còn các vị quy y tôi xong, đối với tôi như thế nào đi nữa, tôi không hề so đo tính toán. Tóm lại, nếu các vị y giáo phụng hành, các vị sẽ có cơ hội thành Phật. Hôm nay tôi nói ra nhân duyên khiến tôi phát nguyện như vậy cho các vị nghe.
Ghi chú:
Sau năm 1990 Hòa Thượng quán sát nhân duyên, quy định hễ ai quy y Hòa Thượng phải lạy Phật 10 ngàn lạy thì người đó mới tính là đệ tử quy y Ngài. Hòa Thượng đang ký tên vào bổn phái quy y.
Hòa Thượng kể: Sau khi quy y, dù ở nhà hay ở chánh điện chùa, các vị phải lạy đức Phật Thích Ca Mâu Ni 10 ngàn lạy, như vậy mới chính thức là đệ tử quy y tôi. Vì sao phải lạy 10 ngàn lạy? Đó là cách tập thể dục khiến tiêu tai được thọ mạng thêm dài. Các vị nào muốn tiêu tai diên thọ, kiết tường như ý thì nên làm động tác thể dục này. Hiện tại con người thường cống cao ngã mạn, thấy mình hay hơn bất cứ ai, nên 10 ngàn lạy này cũng là cách dẹp bỏ lòng cống cao ngã mạn đó.
Các vị phải lạy 10 ngàn lạy, nếu các vị lạy thiếu một lạy, tôi cũng không công nhận các vị là đệ tử của tôi. Tôi nói cho quý vị nghe thêm một chuyện này, là các vị đừng sợ, vì có rất nhiều chúng sanh như quỷ, thần, tiên nhân cũng quy y tôi. Các vị nghe xong, các vị phải giữ quy củ, nếu các vị không giữ gìn quy củ, thì các sư huynh đệ đó của các vị cũng sẽ trừng phạt các vị.
Hòa Thượng Tuyên Hóa: 48. Tướng cướp thủ hiếu
Có một tướng cướp cải ác hướng thiện thành hiếu tử. Người này vì thôn làng mà cắt thịt tế trời. Tuy hành động có vẻ ngu si, nhưng vì phát xuất từ lòng thành nên đã cảm động trời đất. Chẳng bao lâu, sau cơn mưa trời lại sáng, chứng tỏ người dữ chỉ cần đổi tâm hướng thiện thì như người thiện không khác. Chuyện “Buông đao xuống tức có thể thành Phật” đây, là một ví dụ cụ thể nhất.
Hòa Thượng Tuyên Hóa kể:
1. Bị thương, sám hối và thủ hiếu
Ở trong làng Đông Bắc, tôi có một người bạn chí thiết, là đạo hữu tri kỷ, anh ấy và tôi là người đồng đạo. Đồng đạo như thế nào? Vì khi còn tại gia, tôi thủ hiếu bên mộ mẹ tôi, anh ấy cũng vì mẹ mà thủ hiếu. Nhưng anh ta và tôi không giống nhau ở điểm nào? Lúc chưa thủ hiếu anh đã từng là một tướng cướp, đi đánh cướp khắp mọi nơi.
Có một lần, anh đi ăn cướp tiền bạc của người, bị người ta bắn ở cánh tay bị thương. Vết thương được trị hơn nửa năm vẫn không lành, anh ta nghĩ rằng: “Người ta lấy súng bắn tôi, nếu như họ bắn tôi chết, thì có phải là tôi đã không còn mạng sống nữa rồi? Tôi làm tướng cướp, giựt đồ của người, hiện nay bị thương kéo dài, lâu như vậy, đây nhất định là tội nghiệp của tôi quá nặng nề đi!” Lúc đó anh ta khởi niệm sám hối, do đó anh ta phát nguyện:
“Nếu trong một tuần lễ nữa mà vết thương này lành, tôi nguyện đến thủ hiếu bên mộ cha mẹ tôi, không làm ăn cướp nữa!” Lạ thay, chẳng mấy ngày sau, vết thương của anh ta lành hẳn. Và anh ta không nuốt lời hứa, thật sự đến thủ hiếu bên mộ của cha mẹ anh ta. Sao gọi là thủ hiếu? Đó là con cái không nỡ rời xa cha mẹ, tuy rằng cha mẹ đã mất, nhưng người con vẫn ở một bên, giữ gìn phần mộ cha mẹ mình, đó gọi là thủ hiếu.
*
Người sống giữ gìn người quá cố như vậy, tuy không có ý nghĩa gì, nhưng nếu các vị làm được tức sẽ có ý nghĩa, vì việc này không dễ gì làm được! Ngày ngày ở đó các vị không làm gì cả, chỉ giữ gìn mộ, một ngày, hai ngày thì dễ, nhưng giữ đến ba năm, đa số người ta không thể hy sinh một thời gian dài như vậy. Người lớn, đứng tuổi tâm tánh có chút định lực, thủ hiếu ba năm thậm chí sáu năm cũng không sao, nhưng người trẻ tuổi không dễ làm được.
Đừng nói ai, tôi đây ban đầu ngồi bên mộ, không ai bên cạnh, tôi cũng biết đó là việc rất khổ sở. Lúc đó anh ta mới 21 tuổi lại là một tên cướp, vậy mà phát tâm thủ hiếu, đó là việc không dễ làm! Lúc chưa thủ hiếu, anh ấy theo một vị Sư Phụ, đó là Thầy Trung Nhất. Thầy đặt tên cho anh ta là Vưu Trí Huệ. Thầy này có chút thần thông, dạy anh ta cách ngồi thiền dụng công.
Ngay lúc anh ta dụng công, các vị biết sao không? Có một con rồng lửa quấn quanh lưng anh ta ba vòng, nó thiêu đốt anh ta vừa đau vừa nóng. Đúng lúc nguy hiểm đó, Sư Phụ của anh đến hàng phục rồng lửa, cùng quy y cho nó. Về sau nó là vị hộ pháp của Vưu Hiếu Tử.
2. Cắt thịt cúng trời giải nạn lụt
Sau hai năm rưỡi thủ hiếu, vào mùa Hè, trời đổ mưa lớn lan tràn thành lụt lội. Hiếu Tử nghĩ, nếu ruộng vườn đều bị ngập lụt, tức dân chúng sẽ không có gì ăn. Vậy phải làm sao đây? Anh ta mới cầu cho tạnh mưa. Anh ta nói, nếu trong ba ngày mà hết mưa, anh nguyện cắt thịt tế trời. Anh ta đã không biết gì về Phật pháp, chỉ biết có trời.
Lạ thay! Hai ngày rưỡi sau, trời bỗng ngừng mưa, nên anh ta phải thi hành theo thệ nguyện Anh bèn lập đàn mong trời phò hộ cho dân chúng mùa thu nầy được gặt hái tốt đẹp dồi dào.
Anh đối trước Phật lấy dao cắt một miếng thịt lớn dưới ngực khoảng một, hai lạng. Nhát dao thứ nhất cắt không đứt, anh lại cắn răng cắt thêm một dao nữa. Vì quá đau nên anh ta chết giấc, máu chảy lênh láng trên mặt đất nơi anh ngồi thiền, không biết đã chảy bao nhiêu máu nữa.
*
Người nhà đưa cơm đến, thấy anh nằm trên vũng máu, liền đi báo chánh quyền ở huyện Song Thành. Huyện Trưởng đích thân đến nơi, thấy anh ta tự cắt thịt mình tưởng rằng anh ta điên rồ. Huyện Trưởng hỏi lý do, anh ta đáp vì đại chúng cầu trời nắng, cho nên mới tự cắt thịt mình cúng Phật, cúng trời. Huyện Trưởng nghe xong buột miệng khen: “Anh quá sức tốt đi thôi!”
Từ đó mọi người có ấn tượng đặt biệt với anh ta, họ đều nói: “Anh đúng là Bồ Tát, dám vì chúng tôi, mọi người đây mà cắt thịt tế trời.” Nhưng từ đó cũng rất nhiều phiền phức đến, vì mỗi ngày đều có nhiều người đến viếng thăm anh.
3. Chim nhỏ quấn quít, khuyên tạo đức
Không những người đến thăm anh, mà còn có chú chim nhỏ mỗi ngày bay lượn đến thăm. Chim nầy rất nhỏ, nhưng biết nói chuyện, nó không nói nhiều, chỉ nói vài câu: “Làm nhiều việc có đức, làm nhiều việc thiện đức, làm việc thiện đức tốt lắm!” Ý bảo anh ấy nên làm nhiều việc thiện.
Nó cũng giống như bạn thân của anh, nó đậu trên đầu, trên vai, và cả trên tay anh, không chút sợ sệt. Cả ngày nó ở bên, xem anh ngồi thiền dụng công, có khi cũng đùa giỡn với anh, nhưng khi có người lạ tới là nó bay đi, lúc khách ra về, nó mới trở lại đùa giỡn với anh. Trải qua ba tuần, khi vết thương của anh lành rồi thì chim cũng bay đi luôn, không biết nó đã bay đi đâu, không còn ở bên anh ta nữa.
Khi anh thủ hiếu 3 năm viên mãn, rất nhiều người mời anh đến hội Đạo Đức giảng dạy. Khi ấy anh vẫn còn để râu tóc rất dài. Lúc bấy giờ, người Hoa nhất là người trẻ tuổi không ai để râu tóc dài, chỉ có người thủ hiếu mới để tóc dài xõa tới vai, giống dân hippy thời nay vậy. Nhưng dân hippy thì nghiện thuốc phiện, còn anh ta không dùng thuốc phiện mà rất thanh tịnh, anh ăn chay niệm Phật lại giảng Đạo Đức.
*
Anh ta giảng ở hội Đạo Đức có rất nhiều người tín thọ. Sau này anh hợp cùng với vài người bạn đồng đạo, làm nghĩa vụ giúp đỡ mọi người. Vì sao phải để râu tóc dài? Đó là căn cứ trong Hiếu Kinh, nói: “Thân thể, tóc, da do cha mẹ sinh ra không dám hủy hoại, hay làm thương tổn đó mới là bắt đầu của chữ hiếu đấy!” Nhưng tại sao anh ta lại cắt thịt trên thân thể mình để tế trời? Đó phải chăng là không hợp với đạo hiếu?
Không sai! Đây là điều không phù hợp với hiếu đạo. Giả sử như cha mẹ của anh còn sống, nhìn thấy cảnh anh ta cắt thịt như vậy thì không biết họ phải rơi bao nhiêu là nước mắt nữa. Còn như cha mẹ đã chết thành quỷ đi nữa cũng lo âu, không an lạc gì đâu.
Vì sao anh ta lại làm vậy? Vì mưa liên miên không ngừng, nên anh ta vì dân chúng cầu trời tạnh mưa. Hơn nữa vì anh ta không có đi học nên cũng chẳng biết gì về vấn đề: “Thân thể, tóc, da do cha mẹ tạo ra không dám hủy hoại, hay làm thương tổn. Đó mới là bắt đầu của chữ hiếu.” Anh ta thủ hiếu là nghe người ta thường tán thán việc thủ hiếu nên anh mới làm theo!
4. Tâm tâm tương ứng không nên lời
Lúc bấy giờ, anh ta nghe danh tôi, tôi cũng biết về anh ta. Tôi nghe nói có một người được gọi là Vưu Hiếu Tử. Anh ta cũng nghe nói là ở nơi đó đó, có một vị thủ mộ cũng trẻ tuổi như anh. Nhưng tôi lại trẻ hơn anh ta. Anh ta 21 tuổi thủ hiếu, còn tôi 19 tuổi, cả hai chúng tôi đều hâm mộ lẫn nhau và muốn gặp mặt nhau. Vì sao?
Vì anh ta muốn gặp tôi, bình thường anh ta rất cao ngạo như: “Tôi 21 tuổi đã thủ hiếu rồi!” nay không ngờ lại có vị còn trẻ hơn anh ta đang thủ hiếu. Anh cho rằng như vậy là giỏi hơn anh rồi, nên anh ta mới muốn gặp tôi. Có một lần, tôi đến hội Đạo Đức, lúc đó tôi đã cạo râu tóc. Tôi vừa gặp anh đã biết anh là ai vì anh ta có râu tóc dài. Tôi nói: “Anh là Vưu Thiện Nhân phải không? Đa số người ta gọi người thủ hiếu là thiện nhân.
Anh đáp: “Đúng rồi! Còn anh là ai?”
Tôi đáp: “Anh không biết tôi, nhưng tôi biết anh. Anh biết anh là ai, tôi không biết tôi là ai!”
Anh ta quá đỗi kinh ngạc bèn nói: “Ồ! Anh …” Nhiều người đứng chung quanh biết tôi nói: “Anh ấy là …, hai anh giống nhau đó!”
Anh ta nghe nói trố mắt nhìn tôi, nhìn rồi lại nhìn, nhìn; Nhưng tôi không nhìn anh, tôi cũng không nói chuyện gì cả, anh ta cũng không nói một lời nào.
*
Có khoảng cả tiếng đồng hồ sau, anh hết chịu nổi mới thốt lời hỏi tôi: “Anh từ đâu tới?”
Tôi nói: Tôi tới từ chỗ tôi đến.”
Anh ta cảm thấy rất kỳ quặc. Tôi hỏi anh ta: “Anh đi đâu?”
Anh ta đáp: “Tôi chẳng đi đâu cả.”
Tôi nói: “Vậy sao anh lại hỏi tôi là từ đâu tới?”
Anh ta đến trước mặt tôi bắt tay tôi: “Hay đấy!”
Từ đó về sau anh rất thân thiện với tôi. Các vị xem có lý thú không? Không có chỗ đến, cũng không có chỗ đi. Đó là không đến cũng không đi; Mà cũng là đến và cũng là đi, đến từ chỗ đó đến, đi đến chỗ đó đi. Một trong mười danh xưng của đức Phật, có một danh xưng là Như Lai. Trong kinh Kim Cang có nói: “Như Lai không từ đâu đến, cũng không từ đâu đi, đó gọi là Như Lai.” Vì tôi nghiên cứu kinh Kim Cang, anh ta tụng Kinh Kim Cang, do đó chúng tôi nói chút “cơ phong” (ngầm ý thiền) vậy.
Hai công án đối đáp của chúng tôi đã được anh truyền rao khắp nơi. Là tôi và anh, hai người lúc ban đầu gặp nhau, tôi và anh đều không nói chuyện. Kết quả anh ta khởi vọng tưởng và hỏi tôi từ đâu đến? Lúc hỏi tôi như vậy, anh biết mình đã sai rồi. Vì sao? Vì “mở miệng thì sai, khởi niệm tức trái,” “phàm có tiếng nói đều vô thật nghĩa.”
*
Những gì nói ra đều không phải là cứu cánh. Pháp rốt ráo là không nói, cũng không truyền, nên phải quán tưởng như vậy. Không có gì để nói, cũng không có gì để truyền. Chúng tôi gặp nhau, không nói chuyện cả giờ đồng hồ. Vì sao? Vì không có gì đáng nói. Anh ta biết tôi, tôi biết anh ta, tâm đối tâm hiểu ý nhau không cần nói. Chỉ có thể hiểu nhau qua tâm ý, không thể truyền đạt bằng lời nói.
Tôi đến Đài Loan hoằng pháp, gặp Hòa Thượng “Trái Cây” (Thủy Quả) tức Lão Hòa Thượng Quảng Khâm cũng có tâm trạng giống như vậy. Đối nhau không nói một lời, tất cả đều ở chỗ không lời, chỉ dùng tâm linh hiểu biết nhau. Cho nên nói “Tâm tâm tương ấn,” cả hai thông đạt, không gì trở ngại. Như Lão Hòa Thượng “Trái Cây” đã chứng Sơ Quả, tôi nhìn biết ngay. Còn các vị chỉ thấy dáng của Lão Hòa Thượng như vậy chớ không nhận ra.
Lê Đình Sứng viết
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Ngọc viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Hôm nay con đọc đến trang 4 rồi, hay lắm luôn. Cảm ơn thầy tuệ tâm nhìu ạ!!!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!