Chép kinh Phật công đức vô lượng, tuy vậy cần phải chí tâm và hết sức cung kính giữ dìn, mới mong tránh được lỗi khinh nhờn. Phước ở đó mà họa cũng ở đó. Cần biết rằng: “Kinh Phật ở đâu, chư tôn Long Thần Hộ Pháp hộ trì kinh ở đó”. Chỉ là bạn chẳng nhìn thấy các Ngài mà thôi. Nếu chép kinh mà thân tâm không thanh tịnh, chư Phật từ bi không quở trách, nhưng Hộ pháp thì không đâu, sai là bị nhắc nhở liền, xin hết sức lưu ý điểm này.
- Trùng Tang – Là thật hay cú lừa xuyên thế kỷ?
- Cách đi lễ Chùa đúng Pháp.
- Cách tụng kinh tại nhà
- Âm đức là gì.
- 10 chuyện Tâm linh có thật.
- 10 chuyện nhân quả báo ứng có thật.
- Thổ Địa& Bàn thờ ông Địa: Sự mê lầm khủng khiếp.
Thời mạt pháp, chánh pháp suy vi, Pháp theo người lầm, Đạo tục lạm dụng. Đảo ngược chân lý, truyền bá nhảm xằng, giả chân lẫn lộn. Kinh điển không lo tu học, sách phàm mải miết đọc say. Nếu có chép kinh Phật, chẳng chút ân cần. Đã không giữ cho trong sáng, lại làm thêm nhiều sai lạc.
Những điều cần đặc biệt lưu ý khi chép kinh Phật
Kinh sắp chung giường, hoặc để trước cửa. Gió mưa mối mọt, chẳng hề sợ lo. Khiến cho kinh điển không còn tác dụng hiển linh, đọc tụng nào thấy lợi ích cứu khổ. Thật do chế tác không được tinh thành và bởi cái ta ngày càng kiêu ngạo. Vì thế, kinh Kính phúc nói: “Thiện nam tử! Sao chép kinh điển, đừng đảo điên ý nghĩa quan trọng của một chữ. Nếu không, sẽ bị đọa vào đường mê nẻo tối suốt năm trăm kiếp. Tai không được nghe Chánh pháp vi diệu cao siêu.”
Kinh Đại tập nói: “Nếu chúng sinh nào, vào thời quá khứ, tạo các nghiệp ác như: Phá hoại Chánh pháp, phỉ báng Thánh Tăng, cản trở thuyết pháp. Hoặc sao chép kinh điển mà tẩy xóa chữ nghĩa. Hoặc phá phách Pháp khác, hoặc lén giấu kinh khác. Do nghiệp nhân này, sẽ bị quả báo mù mắt.”
Kinh Đại bát nhã nói: “Đức Phật bảo, các thiện nam tử, các Thiên nữ nhân. Khi sao chép kinh Bát nhã Ba la mật đa rất cao thâm. Nếu nhăn mặt, vươn vai ngáp vặt, đùa giỡn vô cớ, cùng chen lấn nhau. Hoặc thân tâm loạn động, khiến câu văn sai lạc, nghĩa lý mù mờ, không đạt diệu chỉ. Hoặc gặp chuyện xảy ra, bỏ ngang không chịu sao chép cho xong. Phải biết rằng hạng người này gọi là Bồ tát ma quỷ.”
Xem kinh hoặc chép kinh phải đúng pháp
Kinh Đại thừa liên hoa tạng nói: “Những kẻ giữ gìn giới luật nhà Phật, chẳng chăm lo bảo vệ thế hệ tương lai. Lại nói, ta đối với giáp pháp Đại thừa mịt mờ như đêm tăm tối, hay cho rằng ta đã hiểu trọn Phật pháp. Nhưng kẻ ấy sẽ chịu hình phạt khổ sở không thể nói hết ở địa ngục Giáo thép. Sau khi thoát khỏi, sẽ bị đui điếc ngọng câm, không được trông thấy Chánh pháp.”
Lại nữa, luận A nan thỉnh giới luật nói: “Các Tăng ni và cư sĩ đọc kinh luật luận. Nếu vừa đi vừa giở, không kính cẩn, sẽ mắc tội trọng, đọa vào Đường súc sinh làm hươu nai. Luôn luôn gầy gò ốm yếu khó chịu suốt hai ức năm, tính theo ngày tháng thật dài ở Trời Đao lợi. Nếu vô cớ đùa giỡn, chụp giựt kinh luật luận, cũng sẽ bị quả báo ấy. Nếu để kinh trước phòng ốc mái hiên, sẽ mắc tội trọng, đọa vào Đường súc sinh. Làm heo chó suốt hai ức năm, tính theo ngày tháng thật dài ở Trời Đao lợi. Khi được sinh làm người, suốt một ức năm, luôn luôn chịu cảnh ở đậu ăn nhờ, không được thoải mái.”
Thời hiện đại, nếu bạn muốn thí kinh thì chỉ nên đặt in rồi biếu tặng, công đức với viết tay chẳng hề sai khác. Còn như bạn vẫn một lòng muốn tự chép kinh, nhất định phải đọc bài viết này rồi hẵng đặt bút…
Ngài Đức Viên chép kinh Hoa Nghiêm
Ngài Đức Viên đời Tề, không biết thuộc tộc họ nào, người xứ Thiên Thủy. Thường lấy kinh Hoa Nghiêm làm sự nghiệp, thọ trì, đọc tụng nắm vững chỗ yếu diệu đến cùng cực. Sư sửa dọn một khu vườn sạch, trồng toàn cây cốc cây dó, cỏ thơm và xen lẫn các loại hoa tươi.
Mỗi lần vào vườn, đều tắm rửa, thân mặc áo sạch, tưới bằng nước thơm. Cây dó mọc được ba năm, mùi thơm sực nức. Lại tạo riêng tịnh thất, dùng chất bùn thơm tô vách, trát đất, kết đàn, bày đồ vật tinh sạch, tắm gội.
Nhà tắm có để sẵn áo dành riêng cho khi đi vệ sinh. Thợ đều phải trai giới, ra vào đều phải thay áo, súc miệng cho thơm tho. Lột vỏ cây dó, ngâm trong nước trầm cho sạch để làm giấy. Cả năm mới làm xong. Bèn đắp riêng một cái nền sạch, lại cất một ngôi thất mới. Từ đầu cho đến khi bắc kèo, lợp ngói, tắm rửa đều dùng nước thơm, mỗi việc đều nghiêm khiết.
Trong nhà, đặt một tòa vuông bằng gỗ bách khảm ngà, chung quanh xếp hương hoa, phía trên treo lọng báu. Lại treo các thứ ngọc có tiếng thanh tao, kết xen lẫn thành tua rủ xuống chung quanh. Dùng gỗ bạch đàn và tử trầm (gỗ trầm tía) làm án kinh và quản bút. Người chép kinh hằng ngày giữ trai giới, tắm gội bằng nước thơm ba lần. Đầu đội mão hoa, mặc áo sạch, chưng diện như người cõi trời.
Sự nghiêm khiết tuyệt bậc khi chép kinh
Lúc vào kinh thất, bèn đốt hương hai bên đường, có người xướng tụng dẫn đường đằng trước. Đức Viên cũng ăn mặc theo hình thức nghiêm tịnh như thế, cầm lư hương cung kính dẫn đường. Rải hoa cúng dường rồi mới biên chép.
Đức Viên quỳ xuống, vận tưởng, mắt nhìn chăm chú, dốc lòng. Vừa chép được mấy hàng, mỗi chữ đều phóng quang chiếu khắp cả viện. Mọi người đều thấy, không ai chẳng bi cảm, một lúc lâu sau mới hết. Lại có thần nhân cầm giáo hiện hình hộ vệ. Đức Viên và người chép kinh đều thấy, người khác không thấy được!
Lại có phạm đồng áo xanh, không biết từ đâu đến. Tay cầm hoa trời, chợt dâng lên cúng dường. Những chuyện linh cảm trước sau đều giống như vậy. Phải mất hai năm mới chép xong kinh. Đựng trong hộp thơm đặt trong trướng báu, cất trong tịnh đường. Mỗi lần đều đảnh lễ rồi mới chuyển đọc, hộp tỏa ra ánh sáng lạ.
Ngài chép kinh nghiêm khiết đến thế, lòng kính trọng tuyệt cổ siêu kim. Bộ kinh này được trao truyền đến nay qua năm đời. Có ai thanh tịnh chuyển đọc thì cũng có lúc hiện sự linh ứng rõ rệt như vậy. Bộ kinh ấy nay được thủ hộ cúng dường ở chỗ pháp sư Hiền Thủ chùa Tây Thái Nguyên.
Ngài Tu Đức chép kinh Hoa Nghiêm
Ngài Tu Đức ở Trung Sơn, Định Châu vào đời Đường, không biết họ tên. Ngài tu khổ hạnh, tiết tháo thành tánh, tu hành nơi rừng núi. Kết nghiệp an tâm nơi kinh Hoa Nghiêm và luận Khởi Tín. Năm Vĩnh Huy thứ tư (653), phát tâm sao chép kinh. Vì thế, lập riêng một tịnh viện, trồng cây dó, trồng kèm các loại hoa thơm. Tưới bằng nước thơm, ba năm sau, tịnh khiết làm thành giấy.
Lại cất riêng một cái đài thanh tịnh, dựng nhà trên đó. Mời người viết chữ đẹp ở Vi Châu là Vương Cung, trai giới nơi biệt viện, tắm gội, mặc áo sạch, thắp hương, rải hoa. Lại treo các loại phan lọng lễ kinh sám hối rồi mới lên tòa viết. Hạ bút xuống bèn ngậm hương, nhấc bút lên mới thở ra. Mỗi ngày đều như thế.
Sư Tu Đức vào tịnh thất, vận tưởng. Mỗi lần chép xong một quyển bèn tặng mười xấp lụa mịn, một bộ tặng tổng cộng sáu trăm tấm lụa mịn. Ông Cung dốc kiệt lòng chí thành, đều chẳng nhận lấy. Vừa chép xong kinh, liền mất ngay. Do kinh đã hoàn thành, Tu Đức bèn mở trai hội ăn mừng. Đại chúng nhóm đến, Tu Đức đối trước Phật, đốt hương, rải hoa, phát hoằng thệ nguyện, rồi mới mở hộp đựng kinh. Khi ấy kinh tỏa ra quang minh lớn chiếu khắp hơn bảy mươi dặm, chiếu đến tận thành Định Châu. Dân chúng trong thành đều thấy. Đại chúng đến dự trai hội tại Trung Sơn đều gieo thân phủ phục, nghẹn ngào khóc lóc sám hối.
Chú thích:
Truyện này gần giống với sự tích ở phần trước. Đủ thấy cổ nhân đối với Tam Bảo đều kiệt thành tận kính. Hoàn toàn chẳng như người bây giờ coi thường, khinh nhờn, hữu danh vô thực! “Nâng bút, thở ra” có nghĩa là muốn ho hắng, hoặc muốn ngáp, đều ngừng bút một chút. Mặt hướng sang phía bên cạnh, thở hơi ra, chẳng dám để hơi thở xông vào kinh.
“Vừa chép kinh xong, ngay lập tức bèn mất” nghĩa là do chuyên tâm chép kinh, chẳng cầu danh lợi. Chí thành đến cùng cực, đến nỗi nghiệp tận tình không, liễu sanh thoát tử, cao đăng sen báu thượng phẩm, tự chứng địa vị Bất Thoái. Xem đây có thể biết Phật pháp chẳng cô phụ con người, nhưng Tăng, tục thời nay đa phần đều cô phụ Phật pháp. Biết làm sao được! Chuyện này gộp từ hai sách Huyền Ký.
Ngài Pháp Thành chép kinh Hoa Nghiêm
Sư Pháp Thành đời Đường, họ Phan, người huyện Vạn Niên thuộc Ung Châu. Xuất gia từ nhỏ, lấy việc tụng Hoa Nghiêm làm sự nghiệp. Do gặp Huệ Siêu thiền sư ẩn cư trong ngọn núi cao Lam Cốc, bèn vứt bỏ phiền hoặc, dốc lòng thành cầu học.
Về sau, Sư tạo Hoa Nghiêm Đường ở ngọn núi phía Nam chùa, trong ngoài đều trong sạch. Trang nghiêm xong xuôi, bèn vẽ cảnh bảy xứ chín hội. Lại dốc cạn lòng chí thành tinh chuyên, biên chép kinh Hoa Nghiêm.
Hoằng Văn học sĩ Trương Tịnh, là người chữ đẹp nổi tiếng tài hoa hãn hữu khi ấy. Sư bèn thỉnh đến sơn xá, bảo hãy thọ trai giới, khiết tịnh tự tu. Miệng ngậm nước thơm, thân mặc áo sạch. Trương Tịnh chép kinh lâu ngày, mỗi trang giấy đòi giá năm mươi đồng.
Sư Pháp Thành liệu trước, vừa chép hai trang, đã ứng trước năm trăm. Trương Tịnh được lợi, dốc sức chép. Cho đến hết bộ kinh, Pháp Thành hằng ngày đều thiêu hương cúng dường trước án. Trong khi vẽ vời, tâm duyên theo, mắt nhìn chăm chú, trọn chẳng sót chút nào. Do dốc lòng chăm chú, khi đó cảm được con chim lạ hình sắc hiếm có trong đời, bay vào trong nhà. Chim bay quanh quẩn cổ vũ, đáp xuống án kinh, rồi lại đậu lên lư hương, lặng lẽ đứng nhìn, tự nhiên như thân quen, một hồi lâu sau bay đi.
*
Năm sau, kinh chép xong, sắp sửa ăn mừng, chim lại bay tới, lẩn quẩn như trước, hót tiếng thánh thót. Năm đầu niên hiệu Trinh Quán (627). Sư vẽ hình ngàn vị Phật, chim lại bay tới, đậu trên lưng người thợ. Sau Sư mở trai hội, cúng mừng các kinh tượng. Trong ngày hôm ấy, Sư lấy làm lạ không thấy chim đến, nhìn lên đỉnh núi nói: “Chim đã không đến, ta thật không cảm được. Phải chăng hiềm vì có các uế hạnh nên mới có điềm này?” Nói xong, chim đột nhiên bay đến chao lượn kêu hót, đậu vào trong nước thơm, nhảy nhót tắm gội, rồi lại bay đi. Trước sau đều như thế, không cần phải nhắc lại.
Trương Tịnh khéo tài bút mực, nên được trong làng đề cử, các bài kinh kệ được khắc trên vách núi bên đường đều do ông ta viết. Ông chép kinh Pháp Hoa ở ngay nơi đất trống. Nhân có chuyện phải đi nơi khác, chưa kịp đem cất. Bỗng trời mưa to như trút, khe, suối đều ngập tràn. Khi ông về chạy đến xem thì thấy cả án kinh đều khô ráo, còn những thứ khác đều ướt đẫm. Ông từng tựa vào cây tùng mọc ngang, bị té xuống dòng suối chảy xiết. Nhưng chưa trôi đến khe nước bên dưới, bất giác đã lên được bờ cao, chẳng tổn hại một mảy lông.
Ngài Đàm Vận chép kinh Pháp Hoa
Sư Đàm Vận đời Đường, người Định Châu. Năm bảy mươi tuổi, nhằm lúc cuối đời Tùy đất nước loạn lạc, bèn ẩn cư trong Ly Thạch Bắc Thiên Sơn, thường tụng kinh Pháp Hoa. Sư muốn chép kinh Pháp hoa, nhưng không ai cùng chí hướng. Qua nhiều năm như thế, chợt có người thư sinh không biết từ đâu đến, nói muốn tắm gội sạch sẽ, rồi mới chép được. Liền vào lúc sáng sớm, ăn xong, tắm gội, mặc áo sạch, thọ tám giới, vào tịnh thất, miệng ngậm đàn hương, đốt hương, treo phan, lặng lẽ sao chép, đến chiều mới ra.
Hôm sau lại như trước, chưa từng than mệt. Đến khi kinh chép xong, Sư đúng pháp dâng tiền công, đưa ra ngoài cửa, liền chẳng thấy đâu nữa. Còn như trang hoàng [bản kinh đã chép], một mực đúng chánh pháp, Đàm Vận thọ trì, đọc tụng, thắt trong bảy lớp bọc. Cứ mỗi một lớp là một lượt dùng nước thơm rửa tay. Lúc đầu chưa từng tạm sót, sau gặp phải giặc Hồ, bèn bỏ kinh trong rương, đặt trên ngọn núi cao. Năm sau, giặc yên, tìm lại, nhưng không thấy. Lục tìm cùng khắp, cuối cùng tìm được rương dưới vách đá. Vải bọc rương đã mục nát rã rời, bới gỗ mục ra, thấy kinh vẫn tốt nguyên y như cũ.
Chú thích:
Chép kinh tâm chí thành, cảm thánh chúng ứng đến. Thánh tuy ứng hiện, nhưng thị hiện giống như phàm phu. Vì thế, một mực theo đúng pháp: Sáng sớm, ăn xong bèn tắm gội, mặc áo sạch… “Tám giới” là Bát Quan Trai pháp. Lấy việc quá Ngọ không ăn để làm Thể, lấy tám giới như không giết v.v… để hỗ trợ nhằm đóng lấp các phiền não Hoặc nghiệp tham, sân, si v.v… chẳng cho sanh khởi.
Đây chính là khiến cho người tại gia thọ giới xuất gia. Kỳ hạn thọ giới này là từ lúc sáng sớm ngày hôm nay cho đến rạng sáng ngày hôm sau. Do chép kinh hằng ngày phải trì, vì thế phải hằng ngày thường thọ. “Đến chiều mới ra” tức là giờ Ngọ cũng không ăn. Chữ Khỏa 裹 âm đọc giống như chữ Quả, tức là cái bao. “Mỗi một lớp bao là một lượt rửa tay bằng nước thơm”, tức là đọc một hồi kinh, bèn dùng nước thơm rửa tay một lượt.
“Vải bọc rương mục nát mà kinh vẫn còn nguyên, đẹp đẽ” thì một là do được pháp lực của thánh nhân gia trì, hai là do thành tâm của ngài Đàm Vận chiêu cảm, ba là do công đức khó thể nghĩ bàn của bộ kinh mầu nhiệm này. Về sau, sư Đàm Vận trụ tại Thấp Châu. Năm Trinh Quán thứ mười một (637), Đạo Tuyên luật sư đã đến gặp Sư. Khi ấy, Sư niên kỷ đã bảy mươi.
Kháng Thiền sư chép kinh
Năm Trinh Quán thứ năm (631) đời Đường, có ông Lệnh Hồ Nguyên Quỹ ở huyện Ba Tây, Long Châu, kính tín Phật pháp, muốn chép kinh Pháp Hoa, Kim Cang, Bát Nhã, Niết Bàn v.v… nhưng không cách nào tự kiểm lại được, bèn nhờ Kháng thiền sư ở nơi ấy kiểm giảo.
Thầy Kháng bèn ở trong chùa, khiết tịnh đúng pháp. Chép xong cuốn cuối, bèn đưa về trang trại tại Kỹ Châu, giữ kinh trong trang trại và năm ngàn lời của Lão Tử cùng để một chỗ, chợt bị lửa bên ngoài cháy lan đến, nhà lợp bằng cỏ, bị lửa cháy sạch hết. Khi ấy, ông Quỹ đang làm huyện lệnh ở Bằng Dực, gia nhân liều mạng bới tro, lôi được ống đồng pha vàng đựng kinh ra khỏi tro. Các kinh đựng trong ống vẫn như cũ không bị hư hại gì, màu sắc đẹp đẽ không thay đổi. Chỉ có lớp bọc là biến thành tro. Lại tìm kinh của Lão Tử, nó đã bị cháy tiêu.
Họ bèn thâu thập các kinh ấy, người trong làng xóm đều khen là lạ lùng. Quyển kinh Kim Cang Bát Nhã, hàng chữ ghi tựa đề bị cháy đen, hỏi đến nguyên do, thì ra lúc viết tựa đề kinh, có vị quan trong châu viết chữ đẹp, vị này đi gấp, không giữ khiết tịnh mà cất bút viết ngay. Do vậy, đề kinh bị lửa đốt. Người này hiện vẫn còn sống, những kinh tốt lành ấy vẫn còn. Chủ Thần Tế ở chùa Tây Minh tại kinh đô chính mắt chứng kiến, kể lại.
Ni Luyện Hạnh chép kinh Pháp Hoa
Đời Đường, ở Hà Đông, có ni sư tên Luyện Hạnh thường tụng kinh Pháp Hoa, mời người viết chữ đẹp chép kinh, phải trả công cao gấp nhiều lần, nhưng khiết tịnh, ân cần quả thật có thừa! Cứ mỗi lần khởi đầu là một lần tắm, đốt hương xông áo, thở vào ống đồng thông ra ngoài vách. Chép hết bảy quyển phải tám năm mới xong.
Sư Pháp Đoan chùa Long Môn nhóm chúng giảng thuyết, mượn ni sư bộ kinh ấy để thẩm định. Cố nhiên ni sư không cho, Pháp Đoan quở trách. Sự chẳng đặng đừng, ni sư bèn tự đem đưa cho Pháp Đoan. Pháp Đoan mở ra đọc, chỉ thấy giấy vàng, trọn chẳng có chữ nào! Các quyển khác cũng vậy. Đoan hổ thẹn, đưa trả cho ni sư. Ni sư buồn khóc, nhận lấy. Dùng nước thơm rửa hộp đựng kinh, đội lên đầu nhiễu Phật bảy ngày không nghỉ. Mở ra xem, chữ hiện như cũ. Khi ấy nhằm năm Trinh Quán thứ hai (628), Sư Pháp Đoan tự kể chuyện này.
Xem thêm: Tổng quan về Kinh Phật
Tổ Ấn Quang khai thị về chép kinh Phật
Nay tôi sẽ đem những điều hay – dở của cách thực hiện và lấy sự chứng nghiệm của tiền nhân để trình bày đại lược một hai điều về chép kinh Phật: Trích huyết chép kinh có người chỉ dùng máu để chép, có người pha thêm vàng, thêm chất son, hay mực. Chuyện pha vàng chúng ta không đủ sức làm.
Hám Sơn đại sư chép kinh được hoàng thái hậu cung cấp giấy và vàng. Chép bằng chữ vàng thì phải dùng giấy màu lam mới nổi chữ, giấy trắng không hiện rõ. Dù là giấy lam chữ vàng vẫn không rõ bằng giấy trắng mực đen và chữ son, Quang từng đã thấy qua. Nếu trộn chung vàng, mực, son v.v… thì chỉ có chút máu để biểu lộ lòng chí thành.
Như ngài Hám Sơn ở am Diệu Đức, núi Ngũ Đài, rạch lưỡi lấy máu pha vàng chép kinh Hoa Nghiêm. Ngài Diệu Phong mỗi ngày khứa lưỡi trích máu hai phần, một phần hòa son để chép kinh Hoa Nghiêm, một phần dành để soạn nghi thức Mông Sơn Thí Thực, thí cho quỷ thần.
Ngài Nam Hồ Kỳ thiền sư của Cao Ly thấy cuốn Di Đà Yếu Giải của ngài Ngẫu Ích muốn lưu thông rộng rãi, bèn khứa lưỡi lấy máu hòa mực chép Yếu Giải để làm bản mẫu khắc in, ngõ hầu sách này lưu thông trọn khắp pháp giới đến tận cùng đời vị lai. Cứ viết một chữ lại lạy ba lạy, nhiễu ba vòng, xưng mười hai tiếng Phật hiệu, có thể nói là thấy biết siêu quần, tu trì tinh chuyên vậy.
*
Ba vị này khứa lưỡi trích máu chẳng làm cách nào khác cả, máu trích ra bèn hòa ngay với vàng, son, mực để chép ngay. Quyết chẳng phải là thuần dùng huyết, pha thêm nước vào. Nếu chuyên dùng máu để viết thì lúc trích máu phải để sẵn chén nhỏ để hứng, dùng kim dài tận lực khuấy để loại gân máu ngõ hầu máu chẳng quánh ngọn bút mới hòng tùy ý biên chép. Nếu chẳng loại những sợi gân máu ra, bút sẽ bị những sợi gân máu bó cứng chẳng thể viết được.
Xưa có người trích máu chép Hoa Nghiêm, gân máu ngày ngày tích lại đem đắp thành tượng Phật, cao hơn một tấc. Thêm nữa, tánh của máu là trong và nhạt, dính giấy liền lan ra, trọn không thành nét bút, mà thành một đốm máu. Giấy ấy trước hết phải dùng phèn trắng xát lên mới có thể dùng được. Giấy bôi phèn xong không thấm, đỡ hao máu, trong những tiệm bán giấy lớn có bán loại này, không cần phải tự chế.
Loại giấy này dành cho người vẽ theo lối tỉ mỉ từng nét bút sử dụng. Giấy đã nhúng phèn đặc biệt dầy nặng, lại còn để được lâu. Như giấy vàng đã nhuộm phèn bèn cứng chắc, giấy chưa nhuộm thì khô giòn. Cổ nhân trích huyết từ lưỡi hoặc ngón tay, hoặc cánh tay, hoặc trước ngực không nhất định. Nếu trích trên thân thì từ tim trở xuống trọn chẳng được dùng. Nếu dùng sẽ mắc tội chẳng cạn!
*
Không biết tọa hạ tính nên chép kinh gì. Nếu là bộ kinh nhỏ thì máu nơi lưỡi cũng đủ dùng. Nếu là bộ kinh lớn và dùng thuần máu để chép e rằng máu nơi lưỡi khó đủ! Phải dùng máu nơi ngón tay và cánh tay mới hòng đủ được. Do lưỡi là chót ngọn của tim, nếu lấy máu quá nhiều sợ rằng tâm lực bị tổn thương, khó thể tấn tu.
Quang thấy những người trích máu chép kinh Phật gần đây đúng là tạo nghiệp, trọn chẳng cung kính. Mỗi lần trích máu quá nhiều, nhằm tiết Xuân, tiết Thu, hai ba ngày sau bèn trở mùi, mùa Hạ chỉ nửa ngày là hôi, cứ dùng để chép. Lại có kẻ còn đem máu phơi khô, mỗi lúc chép dùng nước hòa máu khô để viết. Lại còn chép nguệch ngoạc, chẳng cung kính mảy may, đúng là trò đùa trẻ nít, chẳng phải là dùng máu để biểu lộ chí thành, mà là dùng máu chép kinh hòng chuốc cái danh chân tâm tu hành.
*
Tôi trộm nghĩ: Máu nơi ngón tay, máu nơi lưỡi, mỗi lần chẳng được trích quá nhiều. Nếu ở cánh tay, mỗi lần trích máu có thể hứng chừng nửa chén. Còn như máu đã hôi vẫn dùng và máu phơi khô nghiền ra dùng thì chẳng bằng lúc ban đầu hòa huyết với son làm thành thỏi, phơi khô để dùng, vừa không phí máu, lại chẳng bị máu hôi làm ô uế kinh, tiện lợi đôi bề!
Nhưng thỏi son máu này không có chất keo, sợ lâu ngày son sẽ rã ra, lúc trộn nên trộn thêm Bạch Cập (chất cầm máu trong Đông y ) để khỏi bị rã. Thêm nữa, nếu sắp trích huyết thì trước đó mấy ngày nên bớt ăn muối và những thứ nêm nhiều gia vị. Nếu không kiêng những thứ đó trước thì máu sẽ tanh tưởi; nếu kiêng những thứ ấy máu sẽ không có mùi tanh.
*
Vả nữa, chép kinh chẳng giống như viết bình cốt sao diễn đạt được cái thần, [viết bình] không cần phải tề chỉnh, nắn nót. Nếu viết kinh hãy nên như chàng tiến sĩ viết bài văn sách, mỗi một nét bút chẳng được cẩu thả, viết tắt. Kiểu chữ dùng phải tuân theo thể loại chánh thức. Nếu tọa hạ dùng kiểu chữ viết trát thì không thể được!
Xưa nay, người ta đa số dùng lối Hành Thư, Thảo Thư để viết kinh, Quang trọn chẳng tán thành. Bởi lẽ, thầy Khoan Huệ ở Dương Châu phát tâm chép kinh Hoa Nghiêm, đã chép được hơn sáu mươi quyển, nét bút luông tuồng. Người biết đẹp – xấu trọn chẳng muốn xem. Quang cực lực chê trách, bảo mỗi một nét bút, mỗi một vạch phải cung, phải kính, lại còn bảo thầy ấy viết bài ký trách lỗi để nêu lỗi mình hòng giãi bày cùng người đọc.
*
Ông ta nhờ Quang viết giùm, nên tôi chép thêm vào trong cuốn Văn Sao dở tệ này. Muốn dùng cách [chép kinh] này để đoạn phiền hoặc, liễu sanh tử, độ chúng sanh, thành Phật đạo, há có nên biến thành trò đùa ư? Phàm chép kinh là muốn chuyển cái tâm thức phàm phu thành trí huệ Như Lai, giống như chàng tân tiến sĩ vào trường thi trong đền vua, phải nghiêm cung, dè dặt, không giải đãi, coi thường chút nào. Làm được như thế ắt mới có thể biến cái tâm nghiệp thức thành Như Lai Tạng, mới hòng đậu Trạng Nguyên trong trường thi tuyển Phật.
Người hiện thời chép kinh, mặc tình ngoáy bút, không phải là chép kinh mà chỉ là nhờ vào việc này để luyện chữ, cũng như muốn lưu lại bút tích cho hậu thế mà thôi! Chép kinh như vậy không phải là hoàn toàn vô ích, bất quá chỉ thành cái nhân đắc độ trong vị lai, nhưng cái tội khinh nhờn cũng chẳng cạn nhỏ!
(Cách chép kinh Phật- Theo Ấn Quang Văn Sao)
Tuệ Tâm 2020.
Ánh Vân viết
xin Thầy cho con hỏi : tâm thanh tịnh là như thế nào ạ ?
Mỗi đêm trước khi ngũ con hay chép kinh và đã chép được rất nhiều lần Chú Đại Bi và Kinh cứu khổ ( gần hết một quyển sổ 600 trang), Nhưng khi trong lúc con viết con con hay suy nghĩ lung tung nhiều chuyện, có khi vừa chép vừa nhắn tin điện thoại, mặc dù con đã cố gắn không suy nghĩ chuyện khác nhưng con làm không được.
Vậy con có bị tội không thưa Thầy, và làm thế nào để tâm con được thanh tịnh,con xin Thầy giúp con với.
Và con có nên tiếp tục chép không thưa Thầy
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Chữ Thanh Tịnh trong Phật pháp nghĩa sâu rộng vô cùng, không thể nói cho cùng tận được. Đại khái thì hiểu một cách đơn giản nhất: Tâm thanh tịnh là cái tâm không còn tạp loạn, nghĩa là nó yên tĩnh hoàn toàn và nếu có khởi niệm gì, thì niệm ấy cũng là niệm tốt đẹp, lợi lạc cho người, cho chúng sanh; Dù bạn bận rộn hay nhàn rỗi, dù bạn ở trong cảnh thuận hay cảnh nghịch nó vẫn tĩnh như mặt hồ mùa thu, không sanh khởi tham sân si, không sanh khởi dù chỉ là một tạp niệm…Để có được cái tâm này ta phải tu tâm trong một thời gian dài, chớ không phải một sớm một chiều mà được. Bạn xem bài này để rõ hơn nhé: Thanh Tịnh là gì.
Việc chép chú Đại Bi và kinh cứu khổ của bạn, không phải là không có công đức, nhưng cái tâm loạn động nhiều tạp niệm, lại giải đãi như thế thì cái tội khinh nhờn tạo ra cũng không kém cạnh đâu. Khuyên bạn đừng chép nữa! Nếu muốn chép kinh, bạn nên chép hồng danh Nam mô A Di Đà Phật. Ngày chỉ cần viết lấy 2 trang thôi công đức cũng vô lượng vô biên. Ngoài ra việc chép hồng danh này còn khiến bạn tiêu nghiệp rất nhanh, lại luôn được ánh hào quang của đức A Di Đà nhiếp hộ, khiến các chướng nạn không đến được nơi thân…Lợi lạc vô cùng! Bạn xem thêm bài này để biết về sự nhiệm mầu của viết danh hiệu Phật nhé: Chữa bệnh bằng Phật pháp. . Đợt này Tuệ Tâm bận nên chưa tổng hợp để viết được bài về Chép hồng danh Nam mô A Di Đà Phật. Sau này nhất định sẽ viết một bài cho các bạn tăng trưởng tín tâm.
Nam mô A Di Đà Phật!
Ánh Vân viết
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
Con cảm ơn Thầy đã cho con biết thanh tịnh là gì.
Khi viết kinh con không có khởi niệm gì xấu,chỉ là con hay nghĩ về gia đình, công việc,cha mẹ anh chị em,chồng con nên đoi khi bị sao lãng.Như thế con có bị tội khinh nhờn không thưa Thầy,xin thầy cho con biết rõ hơn ạ. Con xin cảm ơn Thầy ạ
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Những thứ khởi lên trong đầu bạn gọi là Vọng niệm. Vọng niệm ấy tuy không phải là ác niệm hay tà niệm, nên đối với sách vở thế gian thì chẳng có vấn đề gì, nhưng đối với kinh sách thì lại là chuyện khác.
Nhiều người không hiểu một điều quan trọng rằng: “Kinh Phật không phải là sách của thế gian. Một khi ta có phước duyên gặp được thì phải hiểu rằng đấy là phước báu vô cùng lớn, ngàn muôn ức kiếp mới may mắn có được, không phải tầm thường như nhiều người nghĩ đâu”.
Trong kinh đức Bổn sư kể chuyện lúc còn chưa thành Phật, từng không tiếc thân mạng, tài sản, quyến thuộc…chỉ để cầu nghe được một câu Kệ của đức Phật quá khứ từng thuyết. Gặp pháp giải thoát khó như thế, chớ không phải đức Phật kể chuyện để cho vui đâu! Chúng ta vô thỉ kiếp đến nay trôi lăn trong luân hồi cũng là bởi chẳng biết đến pháp giải thoát mà ra cả đấy. Bởi pháp quý báu vô cùng như thế nên chư Hộ Pháp, chúng Thiên Long, quỷ thần…nhìn thấy ta xem kinh như sách thế gian, không biết trân quý, họ vô cùng tức giận…
Như thế, khi mình xem kinh, chép kinh mà chẳng chịu kiềm tâm, cứ để vọng niệm tương tục khởi ở trong tâm, xét rốt ráo vẫn là phạm vào lỗi khinh nhờn vậy!
Nam mô A Di Đà Phật!
Ha viết
Thầy cho con hỏi chút. Con đang chép kinh địa tạng vô tình đọc được bài của thầy. Vì con ở trọ đang trong khu cách ly. Con k mua được bàn để chép. Con có bàn nhỏ trước để ăn. Sau khi con chéo kinh con lau sạch sẽ để chéo và k ăn ở đó nữa. Bàn đó thì nối liền với giường vậy con có chép được k ạ
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Bạn ở vào hoàn cảnh ấy mà phát được cái nguyện chép kinh cũng là hiếm có. Tuy tâm chí thành hướng Phật nhưng pháp hành trì lại không hợp hoàn cảnh lẫn thời cơ. Có lẽ Chư hộ pháp cảm được cái tâm ấy nên khiến bạn đọc bài này vậy.
Nay dịch bệnh hoành hành, ở khu cách ly còn chẳng biết được ngày mai thế nào. Sao bạn không niệm Phật để nhờ Phật lực gia trì mà tránh được tai ương do dịch bệnh, lại chép kinh cầu phước để làm chi? Nếu chẳng thích niệm Phật thì bạn tụng kinh cho chúng sanh khắp khu ấy, từ hữu hình lẫn vô hình, đều nghe được lời Phật dạy, chẳng phải là tốt hơn nhiều so với chép kinh hay sao? Khuyên bạn không nên chép nữa. Chỉ tụng kinh hoặc niệm Phật để nhanh chóng được thoát khỏi dịch bệnh. Sau này về nhà có điều kiện, thân tâm thanh tịnh, lúc ấy muốn chép cũng đâu có muộn gì.
Kinh là để đọc tụng, vừa lợi lạc cho mình, vừa lợi lạc cho pháp giới chúng sanh. Không hiểu tại sao nhiều người cứ một hai chép kinh mà chẳng chịu trì tụng. Lại chép chẳng đúng pháp, phước tuy lớn mà tội cũng không nhỏ. Ngày xưa in ấn không có, kinh sách hiếm, lúc ấy chép kinh công đức lớn ở chỗ hoằng truyền Phật pháp. Còn ngày nay, kinh sách nhiều, in ấn dễ, muốn ấn tống nào có khó khăn gì. Không hiểu người nào cổ vũ và phóng đại công đức chép kinh, để người sơ cơ mê phước mà vô tình phạm lỗi khinh nhờn. Thật vô cùng đáng trách!
Mục đích chính của người học Phật là để cuộc sống được an yên, một mai bỏ thân giả tạm này thoát khỏi sanh tử luân hồi. Chép kinh chỉ sanh phước, làm sao mà ra khỏi sanh tử cho được. Nếu chẳng ra khỏi sanh tử thì vô cùng nguy hiểm. Tại sao vậy? Bởi kiếp này học Phật, chép kinh, công đức lớn. Nếu không thoát được sanh tử ắt kiếp sau hưởng phước giàu sang, tôn quý. Mà một khi đã hưởng phước, chẳng một ai không tạo tội. Kết cục hết phước lại đọa tam đồ, luôn hồi sáu nẻo thế nào vẫn y nguyên như thế. Người chân chính học Phật, tĩnh tâm mà suy ngẫm, há lại chẳng lạnh gáy kinh sợ hay sao?
Khuyên bạn nên niệm Phật cầu vãng sanh. Bởi nay đã quá sâu vào thời mạt, tà thần, ác quỷ tràn ngập chốn nhân gian, các pháp khác không còn tu kịp nữa rồi. Tuệ Tâm chỉ cầu cho điều này chẳng đến, nhưng vẫn phải nói một chút để cảnh tỉnh thế gian: Xin đừng chủ quan, cuối năm nay e rằng số người chết sẽ khủng khiếp hơn rất nhiều. Dịch covit này là định nghiệp của chúng sanh, nhưng so với những dịch về sau thì covit chưa là gì cả đâu! Nếu chẳng niệm Phật và triệt để nương nơi ánh sáng nhiếp hộ của Phật A Di Đà, thì ngoài đường vào địa ngục ra, không có đường nào khác để đi đâu… Lời nói thật khó nghe, kính mong bạn đọc tùy hỉ!
Nam mô A Di Đà Phật!
Ha viết
Dạ con cảm ơn thầy ạ
Con có niềm phật nam mô a di đà phật vào sáng và tối. Buổi chiều con chép kinh ạ. Hồi hướng cho vong thai nhi của con đã chót bỏ ạ
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Bạn niệm Phật là đủ rồi, gắng đọc kỹ bài viết đi, đừng chép kinh nữa!
Nguyễn Hồng Anh viết
Con chào Thầy, con có vô tình xem được một bài chia sẻ về lợi ích của việc chép Kinh, khiến tâm con cũng rất nóng lòng được tìm đến con đường thay đổi tâm tính và cuộc đời nhờ vào Phật Pháp, con chần chừ bao nhiêu ngày và hôm nay đã quyết định mua 1 quyển sổ đẹp đẽ và 1 cây bút mới để bắt tay vào việc chép Kinh. Thật may mắn khi con lên mạng tìm các bài Kinh nên chép thì đọc được ngay bài này của Thầy, quả thật rất may mắn, chút nữa thì con đã vô tình mang tội khinh nhờn bởi những tạp niệm trong đầu mình quá nhiều và thiếu hiểu biết. Con cám ơn Thầy đã chỉ cho con và mọi người về việc chép Danh hiệu Phật A Di Đà. Mong thầy chỉ cho con thêm cách tu tập đơn giản để con được làm quen dần và tránh mắc tội thêm cho mình. Con Cám ơn Thầy!!!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Bạn hãy dùng cuốn vở và cây bút ấy để chép hồng danh Nam mô A Di Đà Phật. Pháp này công đức lớn, dễ thực hành, lại chẳng phải kiêng kỵ gì. Bạn xem thêm chủ đề chép Hồng danh Phật ở đây nhé: Chép Hồng danh Phật, công đức lớn dễ thực hành.
Về pháp tu thì nay chúng ta đã ở sâu vào thời mạt. Bởi pháp nhược ma cường, lại không có bậc đắc đạo, nên đường đời cũng như đường tu, đều rất nhiều hiểm nạn chướng duyên. Nếu ta tu tập chơi chơi thì chẳng gì lắm, nhưng nếu thực sự phát cái tâm muốn cuộc sống được an yên và ra khỏi sanh tử luân hồi, thì ngoài niệm Phật ra không có pháp chi hơn được. Tại sao thế? Bởi tu chơi chơi rồi trôi lăn trong ngũ trược như người thì chẳng nói làm gì, nhưng nếu tinh tấn hành trì ắt sẽ chạm rất nhanh vào thế giới tâm linh. Khi ấy nếu không nương nơi ánh hào quang nhiếp hộ của đức Phật A Di Đà, 100 người tu, lạc vào lưới ma hết cả 100. Bởi vậy nên trong kinh Đại Tập, đức Phật huyền ký, đại ý: “”Trong đời mạt pháp, ức ức người tu hành, ít có kẻ nào đắc đạo, chỉ nương theo pháp môn Niệm Phật mà thoát luân hồi.” Nhiều vị sức tu rất cao, nhưng bởi không tin lời dạy này của đức Phật, nên bị thiên ma ám nhập. Rốt cuộc quay lại bài nhân bác quả, bác cả kinh điển đại thừa, cho rằng Kinh Lăng Nghiêm, Địa Tạng, Di Đà…là ngụy kinh. Gương một số thầy trong nước còn đó, thật vô cùng đau xót!
Nay bạn hỏi cách tu đơn giản và phù hợp với cuộc sống tại gia thì Tuệ Tâm khuyên bạn chỉ nên một pháp niệm Phật cầu vãng sanh. Nếu y theo pháp mà hành trì sẽ được 2 lợi ích lớn:
1. Trong vô hình luôn được ánh hào quang của Phật A Di Đà thâu nhiếp không rời. Do đó mà cuộc sống được an lành, hàng ma quỷ tinh mị không dám phạm đến thân. Hành trì lâu ngày thì nghiệp tiêu trí rạng, chướng tận phước tăng. Khi ấy mọi phước báu thế gian không mong cầu mà tự được.
2. Khi bỏ cái thân giả tạm này, sẽ nương nơi bản nguyện của Phật A Di Đà, vãng sanh về Tây phương Tịnh Độ. Không phải trải qua sự kinh hoàng của cận tử nghiệp mà vĩnh viễn ra khỏi sanh tử luân hồi.
Bạn tham khảo cách niệm Phật tu Tịnh Độ ở đây nhé: Cách niệm Phật tại nhà và Hướng dẫn cách tu Tịnh độ tại gia.
Nam mô A Di Đà Phật.
Ngọc Hảo viết
Nam Mô A Di Đà Phật. Con xin chân thành cảm ơn quý đạo hữu Tuệ Tâm đã đăng bài viết này. Con cũng do vô minh mà khi chép kinh đã không đúng như pháp, nay con cũng muốn hoả hoá kinh đang chép dở để dành thời gian cho các công phu tu hành khác. Nhưng con đang ở nước ngoài và không tiện để đến chùa, xin cho con hỏi có cách nào để hoả hoá kinh đúng pháp và không mắc tội khinh nhờn được không ạ? Con xin cảm ơn trước ạ. Nam Mô A Di Đà Phật.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Pháp hóa kinh không phải là không có, nhưng nó cầu kỳ và đòi hỏi rất nhiều thứ thanh tịnh, người tại gia tốt nhất chẳng nên làm. Cuốn kinh chép dở ấy, bạn xin sám hối rồi lấy giấy sạch, bọc cẩn thận xong cất đi. Bao giờ có điều kiện thì mang lên Chùa hoặc lúc nào về Việt Nam thì mang lên chùa cũng được.
Nam mô A Di Đà Phật.
Bảo Liên viết
A di đà Phật, con cám ơn thầy đã chia sẻ cho chúng con biết đúng pháp chép kinh ạ. Con có photo cuốn Kinh Địa Tạng cho chị gái cùng tụng đọc, tuy nhiên máy photo bị lỗi nên có dắt một vài trang chưa photo hoàn thiện, con đã in lại hoàn thiện kinh và còn thừa ra một số trang như vậy, con thể tự hóa những trang giấy dở dang đó không ạ, và nếu không thì có cách nào khác cho các tờ giấy thừa như vậy không thưa thầy!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Nếu muốn hóa cả cuốn kinh thì nhất định phải mang lên Chùa. Còn chỉ một vài trang in lỗi ấy bạn có thể tự hóa đi cũng được. Cách hóa như thế này:
Bạn mua 1 chậu mới(nhỏ thôi), 1 cái túi vải nhỏ rồi mang những tờ kinh bị lỗi ấy cho vào chậu, vừa niệm Phật vừa đốt. Đốt xong gói tro vào một tờ giấy trắng sạch, cho vào trong túi vải rồi treo lên cái cây nào đó bất kỳ là được, đừng rải ra sông hồ. Đây là cách mà Tổ Ấn Quang dạy, chớ không phải do Tuệ Tâm tự nghĩ ra đâu nhé!
Mong bạn tinh tấn hành trì. Nam mô A Di Đà Phật!