Phật pháp là tất cả những gì đức Phật chứng kiến được bằng tuệ giác, sau khi đã giác ngộ thành Phật. Ngài đem hết thảy những điều thật chứng ấy, dạy cho chúng ta biết để dứt sạch mê lầm về kiếp sống nhân sinh và chỉ cho chúng ta con đường để giác ngộ thành Phật như Ngài.
- Cách tụng kinh cho người mới mất.
- Cách niệm Phật tại nhà.
- Tam giới là gì.
- Sáu nẻo luân hồi.
- Quỷ thần là gì.
- 10 chuyện Tâm linh có thật.
- 10 chuyện nhân quả báo ứng có thật.

Nội dung cơ bản của Phật pháp
Con người từ đâu sanh ra? Chết rồi đi về đâu? Tại sao cũng một kiếp người sinh ra bình đẳng, mà lại có những kẻ giàu, nghèo, sang, hèn, đẹp, xấu, trí, ngu sai biệt? Tại sao có người hiền lành mà thường gặp việc khổ sở không may, kẻ hung ác lại được an vui phát đạt? Tại sao có người trường thọ, người đoản mạng, người khỏe mạnh kẻ ốm đau?
Thế gian này ngoài loài người và súc sanh ra, còn có các loài khác hay thế giới tâm linh siêu hình hay không? Thần tiên có không, ma quỷ có không, địa ngục có thật không…? Những mối nghi nan thắc mắc chung này, nếu không có thế giới quan của Phật pháp, thật chúng ta không cách gì lý giải được.
Nội dung cơ bản của Phật pháp: 1. Khổ của kiếp nhân sinh
Đã sanh ra trong cuộc đời này, không ai trong chúng ta là không phải chịu khổ. Trong Phật pháp, Khổ Đế của đức Phật thuyết minh có tám điều. Nỗi khổ của kiếp người vẫn vô cùng, mà tám điều này giữ phần cương lãnh.
Sanh khổ
Sanh Khổ, tức chỉ cho nỗi khổ trong cái sanh. Loài người khi ở trong thai đã có tình thức. Do có tình thức nên có sự cử động cảm xúc. Khi mẹ ăn thức lạnh vào, cảm thấy như ở trong giá băng. Lúc ăn thức nóng vào, cảm thấy như bị nung đốt.
Thai nhi sống trong chỗ chật hẹp tối tăm nhơ nhớp, vừa lọt lòng đã kêu khóc oa oa. Rồi từ đó khi lạnh, nóng, đói, khát, muỗi kiến cắn đốt, chỉ biết kêu khóc mà thôi. Huệ nhãn của Phật thấy rõ những chi tiết ấy, nên Ngài xác nhận là khổ. Nếu như Sanh không khổ thì khi lọt lòng trẻ đã chẳng kêu khóc oa oa. Vì thế, cổ đức đã than:
Vừa khỏi bào thai lại nhập thai.
Thánh nhơn trông thấy động bi ai!
Huyễn thân xét rõ toàn nhơ nhớp.
Thoát phá mau về tánh bản lai.
Lão khổ
Lão Khổ tức sự khổ trong lúc tuổi già. Con người khi già rồi, các căn đều suy yếu, mắt mờ, tai lãng, lưng mỏi, chân run. Ăn thấy kém ngon, ngủ không thẳng giấc, trí nhớ chẳng còn minh mẫn. Làn da khô nhăn, răng lần lần đau nhức chuyển rụng. Dù cho bực thanh niên tuấn nhã, hay trang thiếu nữ tiên dung, khi đến tuổi này âu cũng: Bao vẻ hào hoa đâu thấy nữa./ Một thân khô kiệt nghĩ buồn tênh!
Lắm kẻ tuổi già lờ lẫn, khi ăn mặc, lúc đại tiểu đều nhớp nhơ, con cháu dù thân, cũng sanh nhàm chán. Kiếp người dường như kiếp hoa, luật vô thường không trừ bất cứ một ai. Xét ra cái già thật không chi vui, thân người thật không chi đáng luyến! Vì thế nên Phật pháp dạy: Già là khổ!
Bệnh khổ
Bệnh Khổ tức sự khổ trong cơn đau yếu. Có thân là có bịnh, từ những thứ bịnh nhẹ thuộc ngoại cảm, đến các chứng bịnh nặng của nội thương. Có người vướng phải những bịnh nan y như: Lao, cùi, ung thư, bại xuội. Trong cảnh ấy, tự thân đã đau đớn, lại tốn kém hoặc không có tiền thuốc thang. Chính mình bị khổ lụy, lại gây thêm khổ lụy cho người quyến thuộc. Nỗi khổ về bịnh là sự hiển nhiên, chúng ta rất dễ nhận thức.
Chết khổ
Chết Khổ, tức sự khổ trong lúc chết. Mọi người đều muốn sanh thuận, tử an, nhưng việc ấy rất khó được. Khi chết phần nhiều sắc thân lại bị bịnh khổ hành hạ đau đớn. Thân đã như thế, tâm thì hãi hùng lo sợ, tham tiếc ruộng vườn của cải. Tâm buồn rầu phải lìa bỏ thân nhân, muôn mối dập dồn, quả thật là khổ. Đề cập đến chữ Chết mấy ai đã muốn nghe, nói chi là ưa thích.
Ái biệt ly khổ
Ái biệt ly khổ, tức sự khổ khi xa lìa người thân yêu. Điều này trong hoàn cảnh chiến tranh, ta càng thấy rõ. Biết bao gia đình chịu cảnh kẻ Bắc, người Nam. Biết bao thanh niên phải dấn thân nơi trận mạc, người ở nhớ thương, kẻ đi sầu thảm. Đó chỉ là cái khổ sanh ly.
Lại biết bao kẻ tuổi hãy còn xuân, tử thần cướp đi người yêu quí, phải chịu cảnh góa bụa bơ vơ. Rồi lại những kẻ cha mẹ, anh em, con cái bị đạn bom tử nạn. Còn biết bao trẻ em quyến thuộc đều chết, thiếu tình thân mật, sống vất vưởng nơi làng cô nhi! Đây là nỗi khổ về tử biệt. Cho nên trong thời buổi này, biển nhớ sông thương đã sâu dài, mà núi hận trời sầu cũng cao rộng! Cảnh sanh ly tử biệt với người thân yêu, quả thật là khổ!
Oán tắng hội khổ
Oán tắng hội khổ, tức sự khổ về oan gia hội ngộ. Bị những kẻ đối nghịch thù oán ở gần bên gièm pha nói xấu, phá phách mưu hại. Làm cho ta phải bực tức khó nhẫn, lo sợ không yên. Lại còn nhiều gia đình, cha mẹ anh em hoặc vợ chồng không đồng ý kiến, thường có sự tranh cãi giận ghét buồn phiền lẫn nhau. Đó khác nào sự gặp gỡ trong oan gia, đâu có chi là hạnh phúc!
Cầu bất đắc khổ
Cầu bất đắc khổ, tức sự khổ về mong cầu không toại ý. Trong đời sống, con người có rất nhiều ước vọng mong cầu. Đại khái như nghèo muốn cho giàu, xấu muốn cho đẹp, không con muốn cho có con. Có con muốn cho nó nên người thông minh hiếu thuận. Ngàn muôn ước vọng như thế, cầu mong mà không toại ý, đó là nỗi khổ.
Ngũ ấm thạnh khổ
Ngũ ấm thạnh khổ, tức sự khổ về năm ấm hừng thạnh. Năm ấm là: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc ấm thuộc về thân, bốn ấm kia thuộc về tâm. Nói một cách đơn giản: Đây tức là sự khổ về thân, tâm. Điều thứ tám này bao quát bảy món khổ trước: Thân thì sanh, già, bịnh, chết, đói, khát, nóng, lạnh, vất vả nhọc nhằn. Tâm thì buồn, giận, lo, thương, trăm điều phiền lụy.
Ai cũng khổ mà chẳng tự nhận ra
Khi xưa thái tử Sĩ Đạt Ta dạo chơi bốn cửa thành thấy cảnh già bịnh chết. Ngài là bậc trí lự sâu xa, cảm thương đến nổi khổ của kiếp người, nên bỏ hoàng cung tìm phương giải thoát mà giác ngộ Phật pháp.
Trái lại, những kẻ trí tánh dung thường, xét nghĩ cạn cợt. Không biết suy tư về cái khổ, nên hằng lấy khổ làm vui. Có kẻ, nếu nói Sanh là khổ, họ bảo: Khi sanh ra tôi không biết chi, nên chẳng thấy khổ! Nếu nói Già là khổ, họ bảo: Hiện tại tôi chưa già! Nếu nói Bịnh là khổ, họ bảo: Từ trước tới giờ tôi thường khoẻ mạnh, rất ít đau yếu, nếu có bịnh cũng chỉ xoàng thôi, không thấy chi là khổ!
Nếu nói Chết là khổ, họ bảo: Cái chết chưa đến, biết đâu đó như là một giấc ngủ yên? Nếu nói Thương chia lìa là khổ, họ bảo: Gia quyến tôi vẫn đoàn tụ vui vẻ, không có sự biệt ly! Nếu nói Oán gặp gỡ là khổ, họ bảo: Tôi đâu có làm gì để ai oán ghét mưu hại? Nếu nói Cầu không được là khổ, họ bảo: Cuộc sống của tôi đầy đủ như ý, không còn mong cầu chi khác.
*
– Thế thì kẻ ấy không có khổ ư?
– Họ có khổ, tức là là sự khổ về năm ấm, hay thân tâm đều sung thạnh.
– Thân tâm cường kiện sung thạnh sao lại khổ?
– Chúng ta thử xem trên xã hội này, những án như: Bắn giết, cướp bóc, hiếp dâm, đánh chém nhau. Các án tích ấy, một phần do hạng người nhàn rỗi, thân tâm quá sung mãn đầy đủ. Họ bị những kích thích về tâm lý, sinh lý, ngồi đứng không yên, vô sự sanh sự, gây nên những việc hung tàn.
Như hiện nay từ Âu Mỹ đến Việt Nam, rất nhiều kẻ sống theo trào lưu cuồng loạn, say đắm theo rượu mạnh, nhảy nhót. Hút cần sa hoặc chích ma túy, dâm dật, buôn lậu, ưa vũ thoát y hoặc nhạc kích động. Ăn chơi đủ cách, cho đến thích nguy hiểm, bạo hành. Thân và Tâm của họ không yên, như ngọn lửa phừng cháy gây nên nhiều lỗi lầm tội ác, để rồi phải chịu khổ. Đó chính là cái khổ “Năm ấm hừng thạnh.”
Tám điều trên đây gọi là Bát khổ. Tám món khổ này chỉ là đại cương, nội dung của nó còn bao gồm nhiều mối khổ khác. Chúng ta thử quán sát mình và người, phải chăng đã chịu ít nhiều trong Bát khổ? Người học Phật pháp nếu biết suy tư đến tám mối khổ lớn của nhơn sanh, có thể gọi là đã đến gần với đạo vậy.
Nội dung cơ bản của Phật pháp: 2. Nhân quả và nghiệp báo
Nhân quả là một trong những nền tảng của Phật pháp. Nhân quả là gì? Nhân là nguyên nhân, Quả là kết quả, nguyên nhân gây thế nào, kết quả ra thế ấy. Nói theo lối khác, Nhân là hại giống, Quả luận với tánh cách rộng hơn, là hoa trái. Phàm bất cứ việc thiện ác hay suy nghĩ thiện ác nào của ta đều là gieo về nghiệp Nhân, phước họa theo đó thọ hưởng gọi là nghiệp Quả.
Trạng thái nhân quả thật vô cùng, gây nhân nào tất cảm quả ấy, duy sự báo ứng hoặc đến sớm hay muộn mà thôi. Trong đây, nếu có sự chuyển biến, là do những ảnh hưởng xấu hoặc tốt khác xen vào. Thí dụ, một ly nước trong, như ta chỉ bỏ muối vào, tất nước phải mặn. Nhưng nếu lại để xen thêm đường, vị nước sẽ đổi khác. Sự chuyển biến của nhân quả thiện ác cũng như thế.
Ba nghiệp nhân: Thân, khẩu, ý
Nhân lành của thân là giữ những giới không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm. Đoan chính trong các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Mắt không đắm sắc, tai không nhiễm thanh…
Nhân lành của ngữ là không nói dối, không nói thêu dệt, không nói đôi chiều, không nói thô ác. Không nói vô ích, không nói lời hí hước, không khen mình chê người. Thường dẫn chuyện nhân quả với tánh cách nêu gương để khuyên nhắc kẻ khác.
Nhân lành của ý là không tham lam bỏn sẻn, tật đố. Không giận dữ hờn oán sâu độc, không si mê tà kiến. Nếu thân, ngữ, ý không làm những việc như trên, lại tạo thêm các điều thiện, gọi là ba nghiệp lành. Trái lại, là ba nghiệp ác.
Tam nghiệp là gì
Tam nghiệp là các nghiệp nhân được tạo ra bởi bởi thân khẩu ý. Theo Phật pháp, trong ba nghiệp, khẩu nghiệp dễ tạo hơn cả. Người xưa đã bảo “Ða ngôn đa quá”, nghĩa là “nhiều lời tất nhiều lỗi”. Vì thế người tu nên ít nói, và khi thốt ra lời gì phải dè dặt suy nghĩ kỹ. Bởi khi nói nhiều, ta không thể kiểm soát hết lời nói của mình, như thế làm sao cho khỏi điều lầm lỗi. Đôi khi gây sự phiền muộn cho kẻ khác mà ta không hay.
Thuở xưa, ngài Mục Kiền Liên ngồi thiền định trong rừng, thấy một vị thần, thân thể đoan nghiêm phát ánh quang minh. Nhưng nơi miệng lại tuôn ra máu mủ, giòi tửa, bay mùi hôi khó chịu. Sáng ra, ngài đem việc ấy bạch Phật. Ðức Thế Tôn bảo: “Vị thần đó, tiền thân là một Tỷ khưu. Bởi giữ thân nghiệp thanh tịnh, nên sắc tướng đoan nghiêm có ánh quang minh. Nhưng vì không khéo gìn khẩu nghiệp, thường buông lời thô lỗ. Thường khen mình chê mắng người, nên nơi miệng mới có những ác tướng như thế”.
*
Nếu trong ba nghiệp, khẩu nghiệp đã dễ tạo, thì ý nghiệp lại có năng dụng mạnh hơn cả. Phàm phu chỉ có thể kiểm soát tâm niệm thô của mình, song không thể kiểm soát tâm niệm tế.
Ngài Di Lặc Bồ Tát khi nhập định, dùng trí huệ cực thanh tịnh sáng suốt, thấy mỗi chúng sanh trong một sát na có đến ba mươi sáu muôn ức niệm vi tế. Mỗi niệm biến mỗi hình, niệm lành biến tướng lành, niệm dữ biến tướng dữ.
Ðiều nầy nhắc cho ta nhớ, người tu không những giữ gìn nhân quả nơi thân, khẩu, mà còn phải dè dặt nhân quả trong mỗi tâm niệm. Nếu thờ ơ để cho tâm xấu thường nổi lên. Khi dồn chứa lâu ngày, nó có đủ năng lực sai sử ta làm việc quấy, và chịu thân ác thú trong tương lai.
Quang sắc trên thân người
Chuyện Phật pháp ghi lại về một Phật tử Trung Hoa, ông Trần Hải Lượng, có người bạn tên Hoàng Ðồng Sanh. Ðôi mắt cư sĩ họ Hoàng rất lạ, có thể thấy được ma quỷ và điện quang của mỗi người.
Theo lời ông, những vị tu hành chân chánh, tâm trong sạch, thì xung quanh mình có vòng ánh sáng sắc trắng mát mẻ dịu dàng. Người giàu, có ánh sáng sắc đỏ. Bậc sang quý, có ánh sáng màu tím. Kẻ buồn rầu thất chí, hoặc đau yếu, có ánh sáng màu xám như khói. Hạng người tầm thường, phần nhiều có ánh sáng màu lục. Ai có điện quang màu đen thì một là người sắp chết, hai đó là kẻ rất độc ác. Và tùy theo tâm niệm tốt xấu, điện quang của mỗi người thay đổi không lường.
Ðại khái, người tâm lành ít thì vòng ánh sáng lành nhỏ hẹp. Bậc tâm lành hay thanh tịnh nhiều, thì vòng ánh sáng lành rộng lớn. Quang lượng rộng hẹp của kẻ ác cũng như thế.
Trên đầu ba thước có thần minh
Cho nên khi ta khởi một niệm ác, tuy người ngoài không biết, song mình biết, Quỷ thần biết. Còn những bậc thánh đắc đạo thì thấy rõ ràng như nhìn các lằn chỉ trong bàn tay, hay nhìn bóng hiện trong gương sáng. Mình biết, thì lương tri tự khiển trách làm cho hổ thẹn hối hận không yên. Quỷ thần biết, thì phẫn nộ quở phạt. Chư Phật, Bồ Tát khi biết dù xót thương không làm tổn hại, song kẻ gây nhân tất phải chịu quả, chẳng thế nào tránh khỏi.
Từ hành vi đến tâm niệm của ta, sự phản ứng của luật nhân quả mỗi mỗi đều rất công minh. Cho nên tiên hiền đã bảo: “Quả báo của việc lành dữ như bóng theo hình. Khi khởi một niệm lành, tuy phước chưa đến mà thiện thần đã đến. Lúc sanh một niệm dữ, tuy họa chưa tới mà ác quỷ đã theo”. Mấy lời nầy rất phù hợp với lý nhân quả của Phật pháp.
Nội dung cơ bản của Phật pháp: 3. Giá trị cốt lõi của Phật pháp
Sanh tử luân hồi vô cùng đáng sợ! Chúng sanh hết kiếp này sang kiếp khác sống chết luân hồi, xuống lên trong sáu cõi. Đó là: cõi trời, cõi người, cõi A Tu La, cõi bàng sanh, cõi ngạ quỷ, và cõi địa ngục. Bát khổ tuy các loài khác cũng có ít nhiều, nhưng nó là trọng tâm của nỗi khổ ở cõi người.
Cõi trời tuy vui vẻ hơn nhơn gian, nhưng cũng còn tướng ngũ suy và những điều bất như ý. Cõi A Tu La bị sự khổ về gây gổ tranh đua. Cõi bàng sanh như loài trâu, bò, lừa, ngựa bị sự khổ chở kéo nặng nề. Loài dê, lợn, vịt, gà, thì bị sự khổ về banh da xẻ thịt. Các loài khác chịu sự khổ về ngu tối; nhơ nhớp ăn nuốt lẫn nhau.
Cõi ngạ quỉ chúng sanh thân thể hôi hám xấu xa, bụng lớn như cái trống, cuống họng nhỏ như cây kim, miệng phực ra lửa chịu đói khát trong ngàn muôn kiếp. Còn cõi địa ngục thì vạt dầu, cột lửa, hầm băng giá, non gươm đao, sự thống khổ không thể tả xiết. Bốn cõi rốt sau này, trong kinh gọi là Tứ Ác Thú. Từ cõi A Tu La, theo chiều xuống, nỗi khổ ở mỗi cõi cứ tuần tự gấp bội hơn lên.
*
Trong sáu cõi, chúng sanh sống chết xoay vần hết nơi này đến nơi kia, như bánh xe chuyển lăn không đầu mối. Đại khái sanh lên cõi trời cõi người thì khó và ít, đọa xuống Tứ Ác Thú rất dễ và nhiều. Người xưa đã than:
Lục đạo xoay vần không mối hở.
Vô thường xô đến vạn duyên buông!
Khi còn tại thế, một hôm đức Phật dùng móng tay vít lên chút đất, rồi hỏi A Nan: “Đất ở móng tay ta sánh với đất ở miền đại địa, cái nào nhiều hơn?” Ngài A Nan đáp: “Bạch Thế Tôn! Đất của miền đại địa nhiều hơn đất của móng tay vô lượng phần không thể thí dụ!”
Phật bảo: “Cũng thế, A Nan! Chúng sanh sanh lên cõi trời người, như đất ở móng tay, đọa xuống ác thú, như đất của miền đại địa!” Thí dụ trên là những tiếng chuông mai để cho người tu xét suy tỉnh ngộ. Nhiều kẻ không tin thiên đường địa ngục, nhưng các cõi ấy xác thật là có, trong kinh đức Phật đã chỉ bày rành rẽ, chỉ vì mắt phàm không thấy biết mà thôi.
*
Gần đây nhật báo có đăng nhiều chuyện thuộc phần siêu linh, chẳng hạn như việc ông hai Huệ bị bắt xuống âm ty. Lại cô ba Cháo Gà ở chợ Vòng Nhỏ tại Định Tường cũng tường trình việc hình phạt ở âm phủ trong quyển Địa Ngục Ký. Đây có lẽ là chư Thiện Thần vì thấy người trần thế chìm trong biển tham sân si, nên dùng quyền cơ đưa người xuống địa ngục, để khi trở về nhơn gian thuật lại cho quần chúng biết đường tội phước, mà dứt dữ làm lành.
Người học Phật pháp do thấu hiểu nhân quả, biết mọi sự vô thường, biết kiềm chế tam độc tham sân si, nên điềm tĩnh và an nhiên sống giữa bộn bề mưu sinh. Lại trong vô hình được Tam Bảo và chư Thiện thần âm thầm gia bị nên cuộc sống bình an, khỏe mạnh và hạnh phúc. Do áp dụng phật pháp vào cuộc sống hàng ngày, nên các tai họa bất ngờ không đến nơi thân, lại không cầu mà luôn gặp may mắn.
Lâu ngày chày tháng, nghiệp tiêu, trí rạng, chướng tận, phước tăng. Tất tu trì có ngày thành tựu hoặc đới nghiệp vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ, vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử luân hồi. Đây chính là giá trị cốt lõi của Phật pháp!
( Phật pháp là gì – Theo Niệm Phật Thập Yếu)
Tuệ Tâm 2020.
Diệu Hoa viết
Nam mô A Di Đà Phật
Thưa thầy, ngày nay có duyên gặp được chánh pháp của Như Lai rất ít, mà có người nghiệp chướng nặng nề cũng không hề tin, đệ tử có đứa em trai, nó ở gần 2 năm bên đệ tử, suốt ngày nghe máy niệm phật trong nhà, mà nó bệnh tật nhiều lại hay sân si, một lời nói nó nghe không hợp là cải cọ um sùm,… Đệ tử khuyên nó niệm phật để từ sửa đổi tính tình, nhất là bệnh nó là do khẩu nghiệp gây ra, do tâm sân si tính toán chi li…, nhưng nó nhất định không niệm phật. Cũng chỉ biết thở dài thương xót, mỗi ngày niệm phật hồi hướng cho gia đình nó thôi
Nam mô A Di Đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Chúng ta là phàm phu, không có đạo lực, nên khuyên được ai học Phật thì khuyên, không khuyên được thì chỉ nên gắng gieo cái nhân xa, bằng cách cho họ nghe được một câu Phật hiệu qua tai. Chủng tử Kim cang Bồ Đề một khi qua lỗ tai liền vĩnh viễn trở thành hạt giống nơi tạng thức, nhờ đó, sau này khi nhân duyên chín muồi, họ sẽ có cơ hội học Phật vậy.