Ngưu quỷ xà thần chỉ chung cho tinh linh của các loài động vật như trâu, rắn, hồ ly… do tu luyện hàng ngàn năm mà đắc được đại thần thông. Họ đều là những cảnh giới hoàn toàn có thật. Và nếu bạn tìm hiểu sâu về cảnh giới vô hình này thì nên nghiên cứu phần Ngũ Ấm Ma trong Kinh Lăng Nghiêm.
Xin rào trước rằng: Những câu chuyện đấu pháp thuật với Ngưu quỷ xà thần dưới đây, do Hòa Thượng Tuyên Hóa kể lại, chỉ để tăng trưởng kiến văn, giúp chúng ta mở rộng tầm mắt về các cảnh giới vô hình. Ngài là hóa thân của đức Quán Thế Âm Bồ Tát, lời lời đều là chân thật ngữ. Cho nên bạn đọc mà tin thì thật tốt lành, nếu chẳng tin cũng xem như mình đọc chuyện tâm linh, chớ sanh tâm hủy báng mà mang tội.
- Cách trị Bóng đè linh nghiệm nhất.
- Thiên ma là loại ma gì.
- Từ Bi Hỉ Xả là gì.
- Chuyện tâm linh có thật.
- Chuyện nhân quả báo ứng.
- Làm thế nào khi gia đình bất hòa
- Cảnh giới trên bước đường học Phật
*
Khi sang Mỹ hoằng pháp, Hòa Thượng bảo: “Đến Hoa Kỳ thì tôi treo bảng miễn chiến. Thiên ma ngoại đạo mà có đến khiêu chiến, tôi cũng khấu đầu đảnh lễ và sám hối. Chúng thấy bây giờ tôi đã không còn chút bản lãnh gì và tôi cũng chuẩn bị cho chúng đến lấy mạng mình bất cứ lúc nào. Tôi ở Vạn Phật Thánh Thành đã mười năm, nay thoái vị về hưu, nếu chúng lại muốn đến tìm tôi thì cũng không sao. Hơn nữa tôi cũng chẳng có chuyện gì để làm!“
Thầy tôi mỗi lần gặp những vụ xương xẩu cũng thường lấy lời dạy của Ngài làm tôn chỉ. Kể cả là bậc đại quỷ có pháp lực cao cường hiện thân, Thầy cũng chỉ một hai khai thị, khuyên buông bỏ oán thù mà niệm Phật. Thầy thường bảo: “Thời pháp nhược ma cường, thế lực của tà thần ác quỷ rất mạnh. Người học Phật nếu có chút năng lực giúp đời cần hết sức cẩn trọng giữ tâm khiêm hạ. Trong hết thảy mọi trường hợp, chỉ nên khởi tâm từ bi rồi cầu Phật phóng quang gia bị cho chúng sanh cõi vô hình được khai tâm, khiến họ buông bỏ oán thù để quay về nẻo chánh. Chớ khởi vọng tưởng đấu pháp mà rước họa vào thân…”
Chuyện Đấu Pháp Thuật với Ngưu Quỷ Xà Thần
Trong Khai Thị, chủ đề này là “Vạn Sóng Nổi Lên Muốn Đoạt Hồn”. Theo đó Hòa Thượng Kể: “Lúc trẻ tôi chuyên môn trị bệnh cho người ta. Hễ có người bệnh là tôi nhất định phải trị cho lành mạnh, hầu giải quyết nổi đau đớn của họ. Bởi vậy tôi đã đắc tội với rất nhiều thiên ma ngoại đạo và ngưu quỷ xà thần. Bọn chúng đều có đại thần thông và đợi chờ cơ hội tấn công.
Hễ quý vị mở cửa là chúng xông vào công kích ngay, gọi là: “Khai môn” tức là tự mở cửa để yêu ma hay phi tinh nhập vào người mình – (Kinh Lăng Nghiêm, đoạn nói về Ngũ Ấm Ma). Hoặc giả là chúng xông vào đoạt khiếu, đuổi linh hồn quý vị đi mất, rồi bám trụ vào thân thể quý vị để nói những chuyện lếu láo, xằng bậy. Lúc bấy giờ, tôi đã đắc tội với rất nhiều yêu ma quỷ quái, vì tôi đã thâu nhận một chú đệ tử nhỏ. Pháp danh của chú là Quả Quốc, ý nói quả vị của chú nhất định là sẽ sanh về Cực Lạc Quốc. Chú bé nầy theo tôi xuất gia là cũng có nhân duyên.
Vào một ngày kia, trong lúc ngồi thiền, tôi biết sẽ có một đứa bé muốn đến xuất gia. Đứa bé nầy bụ bẫm, mập mạp, trông có vẻ rất kháu khỉnh. Sáng sớm hôm sau, tôi bảo chú đệ tử lớn: “Con hãy để ý, hôm nay sẽ có một chú bé đến xin xuất gia đấy. Khi nó đến, con phải báo cho ta biết ngay!”
*
Đến khoảng một giờ trưa, chú đệ tử lớn của tôi vừa thở hổn hển, vừa nói với giọng Sơn Đông rằng: “Thưa Sư Phụ, hồi sáng Sư Phụ nói là có chú bé đến xin xuất gia, quả thật là bây giờ nó đã tới.”
“Thật đã đến rồi à! Ở đâu?”
“Nó đang ở phía trước nhà bếp.”
Tôi bước ra xem. Đó là đứa bé ăn mặc rách rưới, đang thục cổ, trố mắt nhìn tôi. Về sau nó xuất gia với tôi. Thường ngày nó cầm cây quạt trông giống như Hòa Thượng Tế Công vậy. Chú bé nầy lúc lên năm tuổi đã có thể trị bệnh cho người. Ai giúp nó làm được như thế? Thì là hồ ly tinh và xà tinh.
Kiếp trước thằng bé là thầy đồng cốt trị bệnh. (Ở miền bắc Trung Hoa gọi là Khiêu Thần, Đài Loan gọi là Chiêm Đồng). Các loại ngưu quỷ xà thần nầy đã tìm đến lúc thằng bé năm tuổi, chúng khiến cho nó có được bản lãnh trị bệnh. Có những bệnh thằng bé trị lành, song có những bệnh, nó trị không khỏi. Có một số người gọi nó là “Tiểu Ma Chướng,” bởi vì trong người nó có khí ma, chứ chẳng có một chút phép tắc chữa bệnh gì.
Khi lên mười hai, mười ba tuổi, chính nó cũng bị bệnh. Bệnh gì vậy? Bệnh bao tử, nhưng tự nó cũng không trị được bệnh nầy.
*
Một ngày kia, nó nằm mộng thấy một vị Hòa Thượng mập đến nhà và nói với nó: “Nếu con muốn hết bệnh thì phải đến chùa Tam Duyên, ở Hợp Nhĩ Tân, xin xuất gia và bái Pháp sư An Từ làm thầy. Như vậy con sẽ hết bệnh ngay.” Nằm mộng liên tiếp ba lần đều giống y như thế, thành thử chú bé mới tin. Chú bé ở cách xa chùa tôi hơn cả ngàn dặm.
Lúc bấy giờ, Nhật Bản vừa mới đầu hàng, vậy mà một mình chú đi đến Hợp Nhĩ Tân. Trên đường đi, chú thấy có một số vũ khí của quân Nhật sau khi đầu hàng vẫn còn bỏ lại trong kho nhà binh. Chú bèn đến đó nhặt lấy hai quả lựu đạn, rồi vừa đi vừa nghịch ngợm lựu đạn. Đến tối, chú ngủ ngoài trời. Lúc đó có cả chục con chó sói đến bao vây chú và tấn công bốn phía. Chú bé chẳng hề sợ hải mà bảo chúng: “Các bạn thân! Các bạn đã đến rồi, vậy để ta cho các bạn ăn đỡ vài quả trứng nhé!” Đám chó sói đâu có muốn ăn trứng (lựu đạn), thế là chúng bỏ chạy mất.
Thấy chú bé như thế, tôi bèn hỏi: “Tại sao con đến đây?”
Nó đáp: “Con đến để xin xuất gia.”
“Tại sao?”
Có một ông Hòa Thượng mập, là vị ngồi trong đền thờ tại cổng tam quan. Ổng báo mộng bảo con đến đây tìm Pháp sư An Từ để xin xuất gia, như vậy con mới lành bệnh.
*
“Con không có cơm ăn, không áo mặc, không nhà ở mới đến đây xin xuất gia, phải không?”
“Không phải vậy! Bởi vì ông Hòa Thượng mập đã ba lần chỉ dạy con, cho nên con mới đến đây.”
Lúc bấy giờ trong tay tôi có cái bánh bao. Tôi bèn cắn một miếng và nhai nhừ rồi phun ra cả bánh lẫn nước miếng xuống đất nói:
“Muốn xuất gia, trước là con phải ăn hết những đồ nầy đi.”
Nó ngóng cổ nhìn tôi, rồi nằm sấp xuống đất mà lượm lên ăn. Tôi thấy thằng bé còn có thể đào tạo được, cho nên cho nó ở lại. Quả nhiên, sau khi xuất gia, nó cũng hết bệnh.
Trải qua hơn nửa năm, chú bé thật đắc được ngũ nhãn lục thông, thật là cái gì nó cũng thấy được. Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông chú đều có cả. Tôi đưa chú đi khắp nơi để chữa bệnh cho người. Lúc trị bệnh, người ta dựa vào chú bé nầy để tìm hiểu nguồn gốc tôi. Họ hỏi: “Bây giờ Thầy có được đại bản lãnh như vầy, chúng tôi đã nghe qua khá lâu, nhưng không biết Sư Phụ của Thầy có thần thông hay không? Mọi người đều biết là ổng tu hành, nhưng không biết là ổng có được thần thông như Thầy không?”
Chú chớp chớp mắt, rồi nói trong không trung: “Đại khái là không có!”
*
Lạ quá, khi nói xong câu đó, thần thông của chú cũng không còn. Không còn thần thông nữa thì cũng chẳng sao, nhưng bọn quyến thuộc của ngưu quỷ xà thần lại nhập vào. Chúng khiến chú trở thành ma dựa ma khí như trước. Thấy thế nên tôi nghĩ: “Há có chuyện như vậy à! Chú bé đã theo tôi xuất gia, bọn quỷ bây còn dám đến đây quấy rầy ư!”
Thế là tôi và chúng nó đấu pháp. Đấu đến hai mươi mốt ngày. Trong thời gian nầy, tôi không ăn, cũng không ngủ. Đấu đến cuối cùng, tôi hàng phục được bọn yêu ma đó. Hàng phục chúng rồi, tôi nghĩ là sẽ không có chuyện gì xảy ra nữa.
Sau đó tôi đến Đông Tỉnh. Làng nầy bốn bề là núi, trong làng chỉ có một cái giếng duy nhất. Căn nhà mà tôi dừng chân tạm trú, bên ngoài chỉ là bờ rào bằng cây rừng, thành thử nó không cản nổi gió, cũng không ngăn được nước mưa. Cái gì nó cũng không ngăn cản nổi. Ngày nọ, tôi dắt theo bốn chú đệ tử nhỏ đến đó trú ngụ, mọi người trong nhà đó đều quy y tôi. Bởi vì khi ở Đông Bắc, tức Mãn Châu, tôi thường lo công việc chùa chiền nên phải bôn ba đây đó.
Khi trú ngụ ở đấy, các quái vật dưới nước bèn tìm cơ hội nhận chìm tôi. Trên trời thì mưa xuống, dưới thì nước giếng tự dâng cao lên ba trượng. Như thế tức là thượng hạ đánh giáp công.
*
Ở phương bắc, Mãn Châu, người ta ngủ trên giường lò gạch, tức là nằm trên nắp lò sưởi. Khi nước dâng lên quá nhanh, người ta không cách nào chạy thoát; có người đứng trên giường lò gạch cũng bị dìm chết. Lần đó có hơn ba mươi người chết chìm, và hơn tám trăm căn nhà bị cuốn trôi. Nhưng ngôi nhà bằng bờ rào, phên tre mà tôi đang trú ngụ, tuy nó không ngăn nổi gió mưa, nhưng trong sân nước chỉ cao một hai trượng, trong khi bên ngoài thì nước cao mười trượng,
Tôi cũng nói thật với quý vị là bốn chú đệ tử nhỏ của tôi đều có ngũ nhãn lục thông, cho nên khi thấy mưa lớn như thế, chúng tôi bèn “kiết giới,” vì vậy nước lũ không vào được. Tình trạng đó so với cảnh nước ngập ở chùa Kim Sơn cũng không khác nhau mấy. Đó là lần đầu tôi bị ngập nước qua, nhưng không có cảnh chết chìm.
Lần thứ hai kinh nghiệm về nước ngập, là khi tôi từ Thiên Tân đáp thuyền đến Thượng Hải. Thời gian cho chuyến hải trình bình thường thì khoảng bốn hay năm ngày, nhưng lần đó, chiếc thuyền cứ quay vòng vòng một chỗ trên vùng biển đen kịnh, không lui tới gì được. Bởi vậy thuyền phải dừng lại ở đó hơn mười ngày.
*
Trên thuyền có mười bốn vị xuất gia mà gạo, mì đều bị ăn hết sạch nên mọi người gần như chết đói. Lúc ấy tôi cũng không niệm chú gì. Những gì trong bụng, thậm chí đến nước mật vàng, tôi cũng mửa ra hết. Tôi nằm dài trên boong tàu thầm nghĩ: “Con sanh ra là muốn hiến thân cho Phật giáo, nếu như Phật giáo không cần con, vậy một mình con sẽ nhảy xuống biển, chứ đừng liên lụy đến những người nầy. Nếu như Phật giáo hãy còn cần dùng đến con, con hy vọng đức Bồ Tát Quán Âm hiển linh, khiến thuyền nầy bình yên đến Thượng Hải.”
Tôi nghĩ nếu sau năm phút, như quả gió không dừng thì tôi sẽ nhảy xuống biển. Tôi vừa nói xong, gió liền lặng, mưa cũng dừng, cuối cùng thuyền đến Thượng Hải bình an.
Mười mấy người trên thuyền cũng khỏi làm mồi cho cá mập, khỏi biến thành ma da. Đó là tai họa mà tôi đã gây ra, cho nên sau khi đến Hồng Kông, tôi cũng không dám xen vào những chuyện của người khác. Nhưng nếu tình cờ ngẫu nhiên gặp phải, tôi cũng còn xen vào chút chút.
Đến Hoa Kỳ thì tôi treo bảng miễn chiến. Thiên ma ngoại đạo mà có đến khiêu chiến, tôi cũng khấu đầu đảnh lễ và sám hối. Chúng thấy bây giờ tôi đã không còn chút bản lãnh gì và tôi cũng chuẩn bị cho chúng đến lấy mạng mình bất cứ lúc nào. Tôi ở Vạn Phật Thánh Thành đã mười năm, nay thoái vị về hưu, nếu chúng lại muốn đến tìm tôi thì cũng không sao. Hơn nữa tôi cũng chẳng có chuyện gì để làm!
Chuyện Đấu Pháp Thuật với Ngưu Quỷ Xà Thần: Ngập lụt Đông Tỉnh
Có câu “Đạo cao một thước, ma cao một trượng.” Và như nói ở trên, Hòa Thượng vì trị bịnh cho Quả Tá đã kết oán với loài sơn yêu thủy quái. Vụ ngập lụt ở Đông Tỉnh đã khiến hơn 30 người bị chết chìm và phá hoại hơn 800 căn nhà. Đều là vì chúng yêu quái đó nổi cuồng phong muốn nhận chìm Hòa Thượng…
Hòa Thượng kể:
Lúc tôi ở Đông Bắc, có vô số sơn yêu thủy quái đến từ bốn phương tám hướng, ngày đêm sáu thời chờ đợi thời cơ để báo thù tôi. Thật là dù có phòng ngừa thế nào đi nữa thì cũng không thoát nổi, nên lúc không cẩn thận tức bị vào rập; thậm chí còn liên lụy đến các người chung quanh tôi. Nhưng họ nào biết được các tình tiết ở bên trong, như chuyện ngập lụt tại đồn Đông Tỉnh lần đó chẳng hạn.
Tại sao gọi là Đông Tỉnh Tử? Vì địa thế bốn bên thôn thì cao, còn phía trong thì lõm xuống giống như dạng cái giếng. Vì thế nên bọn sơn yêu thủy quái mới đuổi theo tôi tới vùng địa phương lõm trũng này. Hơn nữa bốn bên nhà chỉ là hàng rào cây bao quanh, nên không cản nổi gió, cũng không ngăn được nước. Do đó, bọn thủy quái bèn thừa cơ hội này dâng nước lên muốn nhận chìm tôi.
*
Bởi làm Phật sự nên tôi thường đi các nơi. Bữa đó tôi dẫn bốn chú đệ tử đến trú tại nhà của Quách Ngọc Hà, gia đình cô này đều quy y tôi. Ở đó không bao lâu, vô duyên cớ trời bỗng đổ mưa to, mưa rất gấp, nước trong giếng tự trào ra cao hơn 3 trượng, trời đất giáp công ráp lại công kích như vậy. Bởi vì sức nước chảy mạnh nên ai nấy trở tay không kịp, nước lên và xuống như vậy trong 4 giờ đã khiến hơn 30 người chết chìm. Có người đứng trên cái kháng cũng bị ngập chết. Dọc theo đường từ Đông Tỉnh Tử tới cầu Thái Bình đã có hơn 800 căn nhà bị tàn phá. Sự kiện này không khác gì trận ngập lũ lụt ở Kim Sơn Tự.
Cho đến ngày hôm nay tôi vẫn khắc khoải không yên đối với sự việc đó và cảm thấy thật có lỗi với họ. Lúc nước lũ dâng lên, cao đến một trượng (10 thước), nhưng nước trong nhà tôi ở chỉ cao một, hai thước. Hàng rào tre tuy có rất nhiều lỗ hổng nhưng nước không tràn vào, mới là chuyện kỳ lạ! Tại sao nước không vào được? Nói thật cho các vị nghe là bốn chú tiểu đệ tử theo tôi đều có ngũ nhãn lục thông và cũng vì vô duyên cớ trời mưa to như vậy, chúng tôi bèn kết giới, nên nước mới không tràn vào được, và bên trong hàng rào chỉ đọng một, hai thước nước mưa mà thôi!
*
Lúc tôi còn trẻ, tôi chuyên môn đi trị bịnh cho người ta, cho nên đắc tội với rất nhiều thiên ma ngoại đạo cùng ngưu quỷ xà thần. Các loại yêu ma thủy quái này đều có thần thông, chúng chỉ đợi cơ hội là công kích tôi ngay. Lần này chúng đã không làm tôi chết chìm. Sau đó, đợi tôi đi thuyền từ Thiên Tân đến Thượng Hải thì loài thủy quái lại đến một lần nữa. Chúng nó muốn lật úp thuyền và tôi cũng xém bị cá mập ăn! Do vậy khi vào đất liền, tôi rất ít trị bịnh cho ai.
Bởi thế hiện nay có nhiều ma quỷ tới ăn hiếp tôi, nhưng tôi vẫn nhẫn nhịn, không muốn dùng bất cứ pháp gì để đối chọi với chúng nữa. Tôi chỉ muốn ban tỏa lòng từ bi để nhiếp thọ, cảm hóa chúng nó thôi! Không ai ngờ được đã có những sự việc như vậy xảy ra cho tôi. Lúc đó, Quách Ngọc Hà đã chính mắt chứng kiến các cảnh trạng này nhưng cô không biết là do nguyên nhân gì. Bây giờ đến đây, nghe tôi kể lại cô mới biết ra.
Chuyện Đấu Pháp Thuật với Ngưu Quỷ Xà Thần: Thủy quái báo thù
Từ đồn Đông Tỉnh Tử đến Hắc Hải Dương của Thượng Hải, Hòa Thượng đã gặp nạn thủy quái báo thù. Hòa Thượng ngỡ rằng đã vì hoài bão hiến thân cho Phật giáo rồi. Sau được Bồ Tát Quán Thế Âm gia bị, biến nguy hiểm ra bình yên.
Hòa Thượng kể: Ở tại Thiên Tân hơn một tháng, tôi gặp Thầy Thể Kính. Lúc đó, Thầy dự định đưa một số Tỳ Kheo, Sa Di đi Hồ Bắc. Có người báo cho tôi biết, nên tôi bèn đi chung với họ. Các vị Tăng này gồm có 10 Tỳ Kheo và 4 Sa Di tính luôn tôi. Trong số 14 người xuất gia có một chú Sa Di rất có đạo tâm và rất tử tế với tôi. Đó là ai? Chú tên là Thánh Chiếu, tôi nghe nói chú hiện trụ xứ tại Niệm Phật Đường Đông Lâm ở Hồng Kông.
Theo quy tắc thì Tỳ Kheo đứng phía trước, Sa Di ở phía sau. Cho nên họ bảo tôi đứng xếp hàng ở phía sau họ. Nhưng vì họ không biết gì về thủ tục xuất hành, cũng không biết đến hải quan chích ngừa, chủng đậu, ngừa bịnh đậu mùa. Thế là họ chỉ còn cách kéo tôi lên phía trước để dẫn họ đi giao thiệp. Thầy Thể Kính là người ở Hồ Bắc, nói tiếng Hồ Bắc. Lúc mới biết Thầy, tôi thường không hiểu Thầy nói gì. Thầy nói “nhật đầu” (ban ngày) thành “nhĩ đầu” (nhĩ là lỗ tai), tôi cứ ngỡ rằng lỗ tai Thầy đã bị gì rồi.
*
Tôi kêu Thầy là “Lão Râu Dài,” chớ không phải Tỳ Kheo Râu Ria. Vì râu của Thầy rất dài và Thầy đã hơn 50 tuổi, cho nên là Lão Râu Dài. Khi ấy tôi có đem theo một ít tiền. Lão Râu Dài này muốn tôi giao tiền ra cho Lão. Lão nói rằng: “Các chú, ai có bao nhiêu tiền đều phải giao hết cho tôi, không được giữ tiền riêng! Các chú là Sa Di nên không thể giữ tiền được.” Chúng tôi đều đi thuyền miễn phí đến Thượng Hải. Thuyền đó tên gì, tôi nay quên mất rồi!”
Lúc ở trên thuyền đó, không ai để ý đến tôi. Họ chỉ biết là tôi ăn ngày một bữa, không mặc áo nỉ, còn các việc khác họ đều không biết, tôi cũng chẳng nói năng gì. Đáng lẽ chỉ cần ba ngày, thậm chí chỉ mất hai ngày thôi là từ Thiên Tân đến được Thượng Hải rồi. Cho nên trong thuyền chỉ chuẩn bị ba, bốn ngày lương thực, nước uống cùng các vật dụng và dự tính đến Thượng Hải sẽ mua thực phẩm tươi tốt.
Ai ngờ, thuyền từ Thiên Tân đến Thượng Hải khi đi đến giữa bộ phận Hắc Hải Dương, nơi có nước màu đen. Chiếc thuyền ở đó lảo đảo nghiêng qua ngã lại, xoay vòng vòng, giống như dưới đáy thuyền có quái vật gì đang cắn ngậm chiếc thuyền không cho nó chuyển động, có làm sao đi nữa cũng không ra khỏi chỗ đó được. Lúc đó, gió biển lại thổi mạnh đưa đầu thuyền lên cao cả mười mấy trượng. Khi đáp xuống, cũng chìm xuống nước sâu cả mười mấy trượng.
*
Chúng tôi ngồi trên thuyền mà nó cơ hồ như muốn lật úp. Mọi người nằm dài, không đứng vững nữa, ăn gì cũng đều bị ói ra hết. Bởi vì chiếc thuyền dài 120 thước, rộng 40 thước, nên một khi nổi sóng, sóng đẩy nó lên cao mười mấy trượng, rồi lại rớt xuống sâu mười mấy trượng. Cộng chung lại, một cao một thấp đến 20 mấy trượng, cho nên mọi người trên thuyền ngã té nhào, rồi lăn từ bên này, lộn qua bên kia tứ tung. Lúc đó, tôi ói dữ dội, mửa ra rất nhiều mật đắng.
Thuyền bị kẹt lại nơi đó đến mười mấy ngày. Tất cả thức ăn, nước uống đều gần hết, bà con lại bị lạnh rét. Không sao tả nổi cảnh tượng gần 200 người sắp sửa chết đói khổ sở trên thuyền. Nỗi khổ này chỉ có ai trải qua mới biết chớ người khác không cách nào cảm nhận được! Bởi vì không biết bao giờ mới đến Thượng Hải, cho nên mọi người phải bớt ăn lại một chút.
Thông thường đa số người tu vì ăn một bữa nên ăn rất nhiều, nhưng nay chỉ được ăn lưng lửng no, nên họ than đói om sòm. Vì người xuất gia đi thuyền miễn phí nên nếu trên tàu họ không cho đồ ăn chúng tôi cũng đành chịu thôi! Việc này đối với tôi không thành vấn đề, vì tôi có thể một tuần, hai tuần, ba tuần không ăn gì. Lúc còn trẻ, tôi có thể không ăn hai, ba tháng mà vẫn làm việc như thường. Dầu không ăn như vậy mà mỗi tay tôi đều có thể xách đồ vật nặng khoảng 14 kg.
*
Lão Râu Dài nói với đại chúng: “Các chú tối ngày cứ than đói. Chú An Từ kia ăn ngày có một bữa mà nào có thấy đói dữ như các chú đâu!”
Có người nói: “Hứ! Chú không than đói, thật ra là chú ta đã lén ăn vụng đấy!”
“Thầy nói chú ta lén ăn cái gì?”
“Chú ta lén lút đi xin cơm cháy ăn đó!”
Tôi cũng không trách Thầy ấy nói vậy, vì ngày nọ khi tôi đứng trên boong tàu phơi nắng, chỗ gần nhà bếp, vị đầu bếp đưa tôi một miếng cơm cháy. Thầy đó đi ngang qua bắt gặp bèn nhếch miệng cười khi dễ ra mặt. Thật ra tôi lấy miếng cơm cháy đó cho chú Tiểu Sa Di Thắng Diệu, tôi vốn không có ăn nó.
Lúc đó tôi trì chú Đại Bi, chú Lăng Nghiêm đều không linh nghiệm, thật không còn thần chú nào khác để niệm nữa. Tôi cũng ói ra rất nhiều mật xanh, trút ra hết nỗi uất ức. Vì bị hàm oan, trong bụng tiết ra rất nhiều nước đắng nên chỉ trong chốc lát tôi mới ọc ra nhiều mật đắng như thế.
Tôi nói cho các vị nghe, tôi đã từng đấu với loài quái vật dưới nước đến cả ba tuần lễ không ngủ, cũng không ăn mới hàng phục được nó! Trong quá trình đi từ Thiên Tân đến Thượng Hải là tôi đích thân trải qua. Tôi biết đây lại là bọn ngưu quỷ xà thần và bọn yêu ma quỷ quái nổi sóng ba đào. Không biết có phải là Ô Quy (rùa đen), hay Đại Ngư Tinh (cá mập), hay Đại Thủy Quái ở dưới biển muốn nuốt chửng cả chiếc tàu không nữa.
*
Tôi không phải nói đùa, chớ đây giống như Đường Tam Tạng đi Ấn Độ thỉnh kinh. Trên đường gặp chín yêu tinh trong 18 động. Và yêu quái trong mỗi một động đều muốn ăn thịt Đường Tăng. Như vậy, chúng tôi 14 người xuất gia đây cũng là 14 miếng mồi cho chúng. Kết quả ra sao? Nó đã không ăn tôi, cho nên tôi mới còn ở đây nói chuyện với các vị, cũng vì đã không bị quái vật đó ăn nuốt.
Tôi nằm trên boong tàu, bụng nghĩ: “Quán Âm Bồ Tát! Con sanh ra đời là muốn hiến thân cho Phật giáo. Những gì con làm đều không phải vì bản thân con. Hiện nay yêu ma quỷ quái muốn nhận con chết chìm. Nếu như Phật giáo vẫn còn dùng con và con còn có thể làm Phật sự được, con hy vọng Bồ Tát hiển linh, ra tay thánh giải trừ tai nạn này, khiến cho thuyền đến Thượng Hải bình an. Nếu như Phật giáo không cần đến con nữa thì 5 phút sau nếu cuồng phong vẫn không dừng, con sẽ nhảy xuống biển để khỏi liên lụy đến những người khác chết theo con.”
Tôi vừa nói xong, gió cũng lặng, mưa cũng ngừng rồi thuyền bình an đến Thượng Hải. Tàu vừa cặp bến, những người đói như điên cuồng chạy bỏ mạng lên bờ. Họ cũng không nghĩ ra tại sao hốt nhiên sóng lại yên, gió bỗng lặng như vậy. Họ đều nghĩ rằng chắc họ đã chưa tới số! May thay được Bồ Tát bảo hộ, hàng phục ngưu quỷ xà thần thoát đại nạn. Sau đó tôi làm bài thơ “Ói Mửa” kỷ niệm lúc hoạn nạn:
*
Kết bạn nam hành thập tứ tăng.
Hồ tử Tỳ Kheo Sa Di thanh.
Bích hải tiếp thiên thiên vạn lý.
Hắc ba trục lãng lãng thiên trọng.
Pháp hàng yêu tà chu vị phúc.
Luân thừa thánh trợ ẩu phương ninh.
Hỉ để hỗ hải trừ cơ khát.
Vũ xương chánh giác bảo loa minh.
Nghĩa là:
Kết bạn Nam hành mười bốn Tăng
Tỳ Kheo râu dài, Sa Di trẻ
Chân trời góc biển thiên vạn lý
Cuồng phong nổi sóng muôn trùng điệp
Giáng pháp trừ tà, thuyền ngã nghiêng
Bồ Tát hộ trợ, ói mửa yên.
Mừng đến Thượng Hải hết đói khát.
Vũ Xương Chánh Giác chuông trống nghinh.
Kết bạn nam hành thập tứ tăng. Hồ tử Tỳ Kheo Sa Di thanh (trẻ): Từ Thiên Tân đi thuyền tới Thượng Hải, lúc đó có 14 vị xuất gia. Lão Râu Dài là vị Trưởng Lão đã hơn 50 tuổi có râu rất dài. Sa Di “thanh”, dùng chữ “khinh” (đồng âm) của chữ khinh mạn cũng thông suốt, càng hay. Vì tôi vừa nghèo lại vừa không khéo nói chuyện, cả ngày tôi không nói đến một câu.
Lúc đó, có một Thầy muốn phô trương rằng mình tu hành chân chánh bèn ngồi suốt từ sáng đến tối. Nhưng nghe có ai nói tốt về tôi thì Thầy ta không vui. Sao lại nói là có 12 người rưỡi khinh thường tôi? Vì các chú Sa Di đều trẻ tuổi, hơn nữa họ cũng khi dễ tôi. Bởi tôi quá nghèo, hoặc quá cô độc không nhập bọn giống như họ. Cho nên họ luôn hiếp đáp tôi.
*
Tại sao là 12 người rưỡi? Vì trừ tôi ra, còn lại 13 người, lại có một chú Sa Di mới 11, 12 tuổi nên tôi kể như nửa người. Chú và Sư Phụ chú cộng chung là một người rưỡi. Cho nên tôi nói có 12 người rưỡi coi thường tôi.
Đồng thuyền vượt biển mười bốn Tăng.
Chúng đều tôn quý, chỉ tôi bần.
Áo vá, một bữa, không chi khác.
Ai nấy hủy báng cùng mắng la.
Thuyền vừa cập bến, bởi mọi người đều đói rã rời nên Lão Râu Dài nói: “Chúng ta hãy mua mì nấu canh ăn!” Sau một bữa no nê, thầy quản lý nhà bếp muốn đổ chỗ ăn còn thừa xuống biển. Tôi vốn không ăn sáng, nhưng lúc đó thầy quản lý nhà bếp hỏi tôi có muốn ăn không? Tôi thấy Thầy lãng phí thức ăn quá, nên bất đắc dĩ uống hai chén canh mì.
Trong khoảng thời gian trên tàu, có người lúc nào cũng muốn tìm chỗ sơ hở của tôi. Hễ có động một chút là đi báo cáo với Lão Râu Dài. Vị ấy nói: “Có Sư Phụ ở đó, chú ta không ăn đâu. Nhưng lúc không có Sư Phụ ở đó thì cái gì chú ta cũng ăn hết.”
Vị ấy lại méc tôi đã xin cơm cháy ăn. Lão Râu Dài bèn nói: “Chú tự cho mình trì giới, sao lại ăn lén vậy!” Khi vị ấy nói tôi uống hai chén canh, Lão Râu Dài lại mắng tôi: “Chú cũng uống canh mì nữa sao? Không phải chú đã nói là chú không ăn sáng mà, sao lại ăn thế?”
Tuy bị quở mắng nhưng tôi cũng không có cách nào để giải bày.
*
Bích hải tiếp thiên thiên vạn lý. Hắc ba trục lãng lãng thiên trọng: Đó chính là trời biển một màu. Khi nhìn trời, vạn lý không cùng tận, chỉ có chiếc thuyền lênh đênh trên biển cả, gió êm sóng lặng. Hốt nhiên trong khoảnh khắc, nước chung quanh nơi đó bỗng biến thành màu đen và nổi sóng đen như mực. Rồi ngọn sóng này tiếp ngọn sóng kia, trùng trùng điệp điệp, dồn dập không ngừng như vậy.
Pháp hàng yêu tà chu vị phúc, luân thừa thánh trợ ẩu phương ninh: Dùng Phật pháp hàng phục bọn tà yêu mới tránh khỏi nạn lật tàu. Đó là do Phật, Bồ Tát, Thánh nhân bảo hộ, cứu giúp. Sau khi ói mửa xong, ai nấy không hề hấn gì, người và thuyền đều bình an vô sự.
Hỉ để hỗ hải trừ cơ khát, Vũ Xương Chánh Giác bảo loa minh: Gặp đại nạn được miễn chết, không bị Vương Bát Tinh (Rùa Đen) nuốt, thuyền bèn bình an cập bến Thượng Hải. Đến Thượng Hải cũng không ai bị đói hay bị khát. Rồi từ Thượng Hải tôi đến chùa Chánh Giác ở Vũ Xương. Đại chúng ở đấy lại nổi hồi chuông trống nghinh đón chúng tôi, nên nói là “Bảo loa minh.”
Lúc đó, tôi tạm ở lại chùa Chánh Giác…”
( Chuyện đấu pháp thuật với Ngưu quỷ xà thần – Theo Khai Thị& Tự truyện của Hòa Thượng Tuyên Hóa)
Tuệ Tâm 2022.
Hiến Đinh viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Bậc hoá thân Bồ Tát như ngài gặp phải những kiếp nạn như vậy phải chăng Ngài muốn dạy dỗ chúng sanh về Nhân Quả Nghiệp báo không ạ? Xin Tuệ Tâm giải đáp cho con
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Bậc Bồ Tát thị hiện cũng phải thuận theo hoàn cảnh, trình độ và căn tánh của chúng sanh, không thể khác được. Vả lại ý Phật sâu xa, trí phàm phu bọn ta không thể nào hiểu cho cặn kẽ được. Theo ngu ý của Tuệ Tâm, kiếp nạn Ngài gặp cũng chỉ là thị hiện để cảnh tỉnh hậu thế mà thôi. Bởi Quán Thế Âm Bồ Tát vốn là Cổ Phật, ma chướng hay kể cả là Thiên Ma muốn lễ lạy Ngài sợ còn chẳng đủ duyên, huống hồ là gây khó khăn cho Ngài.
Thời ngũ trược suy mạt hiện nay, chư Phật cùng Thánh Chúng hóa thân độ sanh, ẩn mật trong nhân gian rất nhiều. Nếu không có các Ngài e rằng cõi này đã bị ma quỷ hủy diệt từ lâu rồi…Chúng ta nghiệp sâu chướng nặng, bị nó ngăn che nên dù có duyên gặp các Ngài cũng không cách chi biết được.