Giải thoát là gì? Giải thoát là lìa khỏi mọi sự trói buộc, để thân tâm luôn an nhiên tự tại và cuộc sống luôn được yên vui, không còn bị chi phối bởi phiền não. Giải thoát có hai nghĩa trọng yếu:
- Thoát khỏi khổ đau và phiền não trong cuộc sống.
- Thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Trong hai nghĩa này, thoát khỏi khổ đau trong cuộc sống là quan trọng bậc nhất và nó quyết định việc thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Khắp thế gian đắm nhiễm tà kiến! Hễ nghe đến giải thoát, thường người ta nghĩ ngay đến cái chết. Vì thế, khi gặp biến cố trong cuộc sống mà không giải quyết được, họ liền tìm đến cái chết với suy nghĩ ngây thơ rằng: Chết là để giải thoát! Cái tà kiến này thật là kinh khủng, nó khiến không biết bao nhiêu người tự đoạn đi cuộc sống của mình. Người chết mất mạng đã đành, người thân ở lại, dù buồn thương, đau đớn nhưng vẫn tặc lưỡi: Thôi, coi như “nó” được giải thoát! Chao ôi! Nếu người ta biết đến quả báo kinh khủng của hành vi tự sát, chắc khắp thế gian này không ai dám dại dột thực hiện hành vi ấy!
*
- Diêm vương có thật không, ông là ai.
- Linh hồn người chết là gì.
- Chớ mê tín dị đoan.
- Sự thật về Cầu cơ.
- Cách thay đổi số phận.
- Sự thật về Đồng Bóng.
- Ăn chay có được ăn trứng không.

Trong suốt cuộc đời mình, đức Phật giảng vô lượng pháp môn cũng chỉ với hai mục đích chính: 1. Giúp chúng sanh được giải thoát khỏi phiền não, khổ đau, để cuộc sống được bình an, hạnh phúc. 2. Chỉ cho chúng sanh con đường tu tập để liễu sanh thoát tử, vĩnh viễn ra khỏi sanh tử luân hồi.
Cho nên dù bạn có tu pháp môn nào đi chăng nữa, phải luôn khắc cốt ghi tâm rằng: Học Phật trước tiên cuộc sống phải được an vui, sau mới đến chuyện giải thoát sanh tử. Đây cũng chính là yếu nghĩa của hai từ “giải thoát” vậy!
Giải Thoát Là Gì
Như đã nói, giải thoát là lìa khỏi mọi sự trói buộc, để thân tâm luôn an nhiên tự tại và cuộc sống luôn được yên vui, dù cuộc đời có thăng trầm, khổ hải đến đâu đi chăng nữa, tâm ta vẫn an yên tự tại và tràn đầy hỉ lạc. Vậy những gì trói buộc ta và ta phải làm gì để thoát khỏi sự trói buộc ấy?
1. Giải thoát khỏi sự trói buộc của Tâm
Cái tâm phàm hay còn gọi là tâm thông thường này trói buộc ta bằng đủ thứ định kiến, được huân tập từ vô thỉ kiếp đến nay. Khi ta quan sát các hiện tượng và các sự việc mới, thay vì chỉ thấy hiện tượng như chính nó, tâm ta liền lục tìm trong ký ức: Nơi mà nó đã tích trữ mọi điều từ nghe, thấy, trải nghiệm đến các thói quen, quy ước và mong muốn. Sau đó nó khư khư áp đặt những quan niệm và giá trị cũ lên sự việc mới.
Rồi nếu thế giới chung quanh không thuận theo mong đợi và sự lý giải của nó, cái tâm sẽ trở nên khó chịu. Nó có thể than phiền hay thậm chí là nổi giận. Nó hành hạ ta, dày vò ta không ngớt về những điều mà nó cho là đúng sai. Nó như một con rận trên đầu đầy phiền toái. Nó điều khiển ta và không ngừng xúi giục ta với những hơn thua hờn giận…Nó khiến ta phiền não không yên với những điều nhỏ nhặt đến kỳ cục.
*
Ví như ta luôn quan niệm mọi thứ phải gọn gàng sạch sẽ. Ta muốn mọi vật trong nhà phải đặt đúng nơi đúng chốn. Nhưng nay vợ chồng có thêm em bé. Gia đình có thêm người, đồ đạc lộn xộn. Vợ ta mắt thâm quầng, áo quần sặc mùi bỉm sữa. Ta chẳng đồng cảm với vợ chăm con đã tệ lắm rồi, lại muốn nhà phải gọn gàng thơm tho, cơm nước đúng giờ. Khi chẳng được như thế ta khó chịu gắt gỏng, quát vợ mắng con.
Cái “quan niệm” nó trói buộc ta, làm khổ ta như thế đó! Nhà bẩn thì đã làm sao? Đồ đạc chẳng gọn gàng thì cũng có chết được đâu? Như ta biết buông bỏ cái mình muốn, vui làm việc nhà, giúp vợ cùng chăm con…Việc ấy khiến gia đình trở nên yên vui, tràn ngập tiếng cười. Như thế chẳng phải hạnh phúc thì gọi là gì?
2. Giải thoát khỏi sự trói buộc của gia đình và xã hội.
Giải thoát ở đây không phải là ta bỏ nhà lên núi tu hành. Cũng không phải là ta bỏ bê gia đình, cha mẹ, vợ con để tu tập tập. Giải thoát ở đây là sự buông bỏ các chấp trước về các quan niệm, định kiến, kiểu như: “Con cái phải vâng lời, hiếu thảo với cha mẹ”. “Cha mẹ phải thương yêu đồng đều. Phải chăm sóc, lo lắng cho con cái đến nơi, đến chốn”. Nếu đứa con không gọi điện thoại hay thăm viếng cha mẹ, cha mẹ sẽ buồn phiền. Còn người con thì mặc cảm thiếu bổn phận và trách mình đã không làm tròn bổn phận…Chỉ cần buông được các chấp trước ấy thôi, bạn sẽ luôn sống trong an lạc.
Mỗi người xuất hiện trên cõi đời này đều do nghiệp duyên của riêng họ. Chúng sanh hội tụ trong một gia đình đều là nghiệp duyên nhiều đời nhiều kiếp, do bốn nhân duyên: Báo ân, báo oán, trả nợ và đòi nợ. Nếu gia đình là nơi hội tụ bởi báo ân cùng trả nợ thì luôn luôn yên ấm. Còn nếu gia đình là nơi đòi nợ hay báo oán hội tụ, thì phiền não liên miên. Ta thấu triệt được điều này thì kể cả gia đình do nghịch duyên hội tụ, ta cũng dễ dàng vượt qua phiền não. Không những thế, nhờ tu tập, ta có thể chuyển hóa được nghiệp duyên, khiến gia đình trở nên an vui, hạnh phúc.
*
Ví dụ như con bạn chẳng hạn. Nếu nó hư hỏng, chẳng hiếu thảo, bạn cũng đừng giận hờn phiền não làm chi. Vì bạn càng chửi mắng, áp chế bao nhiêu, nó càng khiến bạn khổ sở bấy nhiêu. Phải hiểu rằng nó do báo oán hoặc đòi nợ mà đến. Cho nên, bạn chỉ nên an nhẫn hướng đến nó mà âm thầm sám hối. Lại tu tập phước lành, hồi hướng công đức cho nó để trả lại nợ xưa. Khi nợ hết rồi, bạn chẳng cần làm gì, nó cũng trở nên hiếu thuận, đáng yêu.
Hoặc như chồng bạn lăng nhăng, ngoại tình chẳng hạn. Ấy đều là do hoặc kiếp trước bạn phụ bạc anh ta, hoặc trước đây bạn từng phạm tà dâm nên chiêu cảm cái quả báo ấy. Cho nên dù bạn ghen lồng lộn cỡ nào, trăm mưu ngàn kế thế nào, rốt cuộc cũng chỉ chuốc lấy phiền não mà thôi. Vả lại, vợ chồng do nghiệp duyên mà đến. Nếu còn duyên thì dù có dày vò, hành hạ, chửi rủa lẫn nhau, cũng chẳng thể chia tay. Nếu hết duyên thì có níu kéo cỡ gì, hôn nhân vẫn tan vỡ. Hiểu được lý này ta sẽ chẳng thấy có chi mà phiền não. Cứ tùy duyên tùy phận mà sống sẽ được yên vui.
*
Ở khía cạnh xã hội, ta cũng bị bó buộc bởi vô vàn sự chấp trước. Nếu tháo bỏ được chúng, bạn sẽ thấy dù ở chợ, tâm mình vẫn luôn tĩnh lặng an vui. Ví như trước khi đi ra đường, ta luôn quan niệm áo quần, dày dép…phải luôn chỉn chu, thanh lịch. Điều ấy khiến ta cảm thấy tự tin hơn. Lý do này nghe chừng hợp lý, nhưng thực ra cái ta sợ là sự phán xét và khen chê của người khác. Ta không nhận ra rằng: Dù thiên hạ khen hay chê thì ta vẫn cứ là ta. Chẳng vì họ khen chê mà ta đẹp hơn hay xấu hơn. Vì thế, chỉ cần áo quần lành lặn sạch sẽ là được rồi, sao phải gắng mặc hàng hiệu làm chi cho tốn kém?
Hoặc giả như ta chẳng may bị thất nghiệp. Nếu ta hiểu được rằng mọi vinh nhục được mất trong cuộc đời ta, đều do nghiệp duyên của chính mình, tất cả đều là do mình tự làm tự chịu, ta sẽ dễ dàng chấp nhận sự thật để tìm cách vượt qua, không bị phiền não dày vò. Mà kiếp nhân sinh luôn có thăng trầm. Hễ một cánh cửa đóng lại sẽ có một cánh cửa khác mở ra. Nhẫn được khổ thì hết khổ, có chi đâu mà phải oán trách trời người?
Chết có phải là sự giải thoát hay không?
Chết có phải là sự giải thoát hay không? Không! Ngàn lần không, vạn lần không! Nếu bạn tưởng rằng chết là sự giải thoát thì phải biết rằng đây là Đại Tà Tri Tà Kiến. Cho dù có kiếp nạn gì, bế tắc đến đâu, đau đớn đến đâu, khổ hải đến đâu đi chăng nữa, bạn cũng đừng bao giờ nghĩ đến cái chết. Vì để có được thân người hôm nay, bạn đã phải nhờ vào một biệt phước nào đó vô cùng lớn lao trong tiền kiếp. Vì thế hãy trân trọng thân thể và thọ mạng của mình.
Riêng đối với những người tự sát, họ đều tưởng tự sát là để giải thoát khổ đau mà chẳng biết rằng: Tự sát là tự mình mở ra biển khổ vô biên. Cái khổ lúc làm người thật không là gì so với cái khổ sau khi chết. Để rõ hơn về cảnh giới của những người tự sát, bạn có thể đọc lại bài “Quả báo tự sát.” để hiểu rõ hơn.
Chúng sanh ngày nay mỗi ngày từ thân khẩu ý tạo ra vô biên ác nghiệp. Do đó mà chết đi đa phần đọa vào địa ngục, cực hiếm kẻ được tái sanh làm người. Trong Niệm Phật Thập Yếu, Ngài Thiền Tâm bảo: “Chúng sanh hết kiếp này sang kiếp khác sống chết luân hồi, xuống lên trong sáu cõi. Đó là: 1.Cõi trời. 2.Cõi người. 3.Cõi A Tu La. 4.Cõi bàng sanh. 5.Cõi ngạ quỷ. 6.Cõi địa ngục.
*
Bát khổ tuy các loài khác cũng có ít nhiều, nhưng nó là trọng tâm của nỗi khổ ở cõi người. Cõi trời tuy vui vẻ hơn nhơn gian, nhưng cũng còn tướng ngũ suy và những điều bất như ý. Cõi A Tu La bị sự khổ về gây gổ tranh đua. Cõi bàng sanh như loài trâu, bò, lừa, ngựa bị sự khổ chở kéo nặng nề. Loài dê, lợn, vịt, gà, thì bị sự khổ về banh da xẻ thịt. Các loài khác chịu sự khổ về ngu tối; nhơ nhớp ăn nuốt lẫn nhau. Cõi ngạ quỷ chúng sanh thân thể hôi hám xấu xa, bụng lớn như cái trống, cuống họng nhỏ như cây kim, miệng phực ra lửa chịu đói khát trong ngàn muôn kiếp.
Còn cõi địa ngục thì vạc dầu, cột lửa, hầm băng giá, non gươm đao…Sự thống khổ không thể tả xiết. Bốn cõi rốt sau này, trong kinh gọi là Tứ Ác Thú. Từ cõi A Tu La, theo chiều xuống, nỗi khổ ở mỗi cõi cứ tuần tự gấp bội hơn lên. Trong sáu cõi, chúng sanh sống chết xoay vần hết nơi này đến nơi kia, như bánh xe chuyển lăn không đầu mối. Đại khái sanh lên cõi trời cõi người thì khó và ít, đọa xuống Tứ Ác Thú rất dễ và nhiều.
Người xưa đã than:
Lục đạo xoay vần không mối hở.
Vô thường xô đến vạn duyên buông!
*
Năm xưa lúc còn tại thế, một hôm đức Phật dùng móng tay vít lên chút đất, rồi hỏi A Nan: “Đất ở móng tay ta sánh với đất ở miền đại địa, cái nào nhiều hơn?”
Ngài A Nan đáp: “Bạch Thế Tôn! Đất của miền đại địa nhiều hơn đất của móng tay vô lượng phần không thể thí dụ!”
Phật bảo: “Cũng thế, A Nan! Chúng sanh sanh lên cõi trời người, như đất ở móng tay, đọa xuống ác thú, như đất của miền đại địa!”
Thí dụ trên là những tiếng chuông mai để cho người tu xét suy tỉnh ngộ. Nhiều kẻ không tin thiên đường địa ngục, nhưng các cõi ấy xác thật là có, trong kinh đức Phật đã chỉ bày rành rẽ, chỉ vì mắt phàm không thấy biết mà thôi.
Gần đây nhật báo có đăng nhiều chuyện thuộc phần siêu linh. Chẳng hạn như việc ông hai Huệ bị bắt xuống âm ty. Lại cô ba Cháo Gà ở chợ Vòng Nhỏ tại Định Tường cũng tường trình việc hình phạt ở âm phủ trong quyển Địa Ngục Ký. Đây có lẽ là chư Thiện Thần vì thấy người trần thế chìm trong biển tham sân si, nên dùng quyền cơ đưa người xuống địa ngục, để khi trở về nhơn gian thuật lại cho quần chúng biết đường tội phước, mà dứt dữ làm lành.”
(Giải thoát là gì? Chết có phải là sự giải thoát không?)
Tuệ Tâm 2023.
Hiếu viết
Nam mô A Di Đà Phật
Đỗ Văn Học viết
Xin hỏi Tuệ Tâm là nếu ta sinh vào cõi tịnh độ hay cõi trời thì mình có còn nhớ được những ký ức khi làm người ko ạ?
Nếu sinh vào cõi tịnh độ thì ta sẽ là 1 em bé sơ sinh hay là 1 người trưởng thành luôn ạ?
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Chúng sanh hóa sanh nơi cõi trời thì nhớ được kiếp trước, nhớ được nhân nào mình được hóa sanh làm chư Thiên. Họ ngay đó liền xuống trần gian xem nơi tiền kiếp ở. Trừ người phát nguyện tu hành còn thì hầu hết xem xong trở về trời, hưởng ngũ dục liền quên sạch kiếp trước, từ đó về sau không nhớ được gì nữa!
Người cõi này vãng sanh về Cực Lạc, dù Hạ Phẩm Hạ Sanh, ở trong Hoa sen thì cũng dự vào hàng Bất Thối Chuyển. Thân đồng như Thánh Chúng cõi Cực Lạc không khác… Vụ này bạn xem Tịnh Độ Tam Kinh có cả mà, sao không chịu đọc cho nắm vững, hỏi thêm Tuệ Tâm làm gì?
Đỗ Văn Học viết
Em cũng mới bắt đầu tìm hiểu phật pháp nên kiến thức còn hạn chế lắm. Lúc đầu e tò mò là Đế Thích khi còn sống là nữ, mà khi lên trời thì là nam. Nếu Ngài ấy mà nhớ tiền kiếp thì chắc là sẽ ko lấy hoàng hậu. Em cảm ơn ạ!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Đỗ Văn Học viết
Xin hỏi Tuệ Tâm trên đời này có chưa hết dương thọ mà chết oan ko ạ?
Nếu có thì là tại sao và Diêm Vương sẽ xử lý người chết oan thế nào ạ?
Có phải người chết oan thường hoá thành quỷ vất vưởng trên dương gian như trong phim ảnh ko ạ?
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Thực ra ngày nay chúng ta phần lớn đều chết oan uổng cả, rất hiếm người được hưởng hết thọ mạng của mình. Tại sao thế? Vì tạo ác nghiệp quá nhiều vậy! Như các lỗi về sát, đạo, dâm, vọng, hễ phạm một lần thì thọ mạng bị giảm đi một ít. Đây cũng là lý do tại sao nhiều người bị ung thư, bệnh viện trả về, gặp được Phật pháp liền khỏi bệnh, sống thêm rất lâu. Do thọ mạng của họ vẫn còn, chỉ vì tạo ác nghiệp nhiều nên bị trừ sạch đi. Nay giác ngộ buông dao hồi đầu, niệm Phật nên nhờ Phật lực mà được tiêu nghiệp. Nghiệp tiêu nên lại được hưởng thêm tuổi thọ.
Tôi nói điều này nhiều người không tin sẽ hủy báng, nhưng thôi kệ, nói cho riêng bạn biết vậy: “Thọ mạng của con người ngày nay, theo như kinh dạy, được chừng khoảng hơn 100 năm.” Nhưng bạn xem, mỗi ngày từ thân, khẩu, ý của chúng ta gây ra vô lượng ác nghiệp. Vì thế nhiều người chỉ được chừng 60-70 là chết rồi. Mà ở ngưỡng 70 ấy cũng hiếm, rất nhiều người chẳng đợi được đến già! Khi tôi đi đặt máy niệm Phật ở nghĩa trang với Thầy, gần như nghĩa trang ở khắp toàn quốc số lượng mộ trẻ thường gấp đôi số mộ người già. Có đi mới hiểu, chúng sanh thật vô cùng đáng thương xót!
Còn về chuyện Ngài Diêm Vương và người chết bất đắc kỳ tử thành quỷ vất vưởng trên nhân gian thì rộng lớn vô cùng, tôi không đủ trí huệ để giải đáp cho bạn. Tôi đã viết riêng mỗi thứ một chủ đề. Bạn chịu khó vào mục tìm kiếm rồi đọc sẽ nắm được một phần nào đó vậy.
Đỗ Văn Học viết
Cảm ơn Tuệ Tâm ạ!
E có 1 thắc mắc là đi tu thì ko được sát sinh. Vậy giả sử như trong chùa mà đang có dịch bệnh như muỗi sốt rét, bọ chét, covid thì nhà chùa sẽ xử lý thế nào ạ? Nếu phun khử khuẩn thì lại thành sát sinh mất rồi ạ.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Bệnh tật hay dịch bệnh đều là nghiệp duyên của chúng sanh. Nếu bạn chẳng có cộng nghiệp ấy, dù dịch bệnh xảy ra, xung quanh chết sạch, bạn vẫn chẳng bị gì. Dịch covid vừa rồi, tôi chứng kiến những người học Phật chân chính đều chẳng bị lây nhiễm gì.
Muỗi mòng, rắn rết…nếu bạn giới sát, lại thường tu tập hồi hướng công đức cho chúng sanh thì chúng nó chẳng đụng chi tới bạn. Tôi có anh bạn giữ giới chẳng sát sinh, ăn chay niệm Phật. Một năm sau ngày phát nguyện, anh có vào rừng hay ra bãi rác cũng chẳng có con muỗi nào đụng tới anh. Có nhiều lần trời miền bắc nồm, muỗi nhiều như ong vỡ tổ. Mọi người xịt thuốc nọ, bôi thuốc kia, riêng anh chẳng thuốc gì cũng không có con nào cắn. Cho nên người chân chính học Phật thì dịch bệnh hay bọ muỗi thường không đến nơi thân. Mà chúng sanh dù như con kiến con muỗi thì cũng là chúng sanh, chúng kiếp trước do tạo ác nghiệp nên đọa làm thân dị loại. Trong số đó, phần lớn có khi là cha mẹ hoặc anh em trong nhiều đời nhiều kiếp về trước của ta. Nay ta nhờ thiện nghiệp được thân người, chẳng từ bi thương xót, muốn cứu độ chúng nó thì thôi, nỡ nào còn khởi tâm giết hại?