Ăn cháo đá bát là một câu thành ngữ dân gian, dùng để chỉ những người bội bạc vô ơn, lấy oán báo ân với người giúp đỡ mình lúc khó khăn hoạn nạn. Trong xã hội kim tiền ngày nay, vì đạo đức xuống cấp nên hạng người này nhiều không kể xiết. Nơi gia đình, hạng vô ơn này là những kẻ bất hiếu, nhân danh tự do cá nhân và thời đại mà chửi cha mắng mẹ. Nơi xã hội, phường bất nghĩa này là những kẻ dối thầy gạt bạn, vì danh lợi mà bất chấp luân thường đạo lý.
Gặp hạng này, người hiểu đạo biết mình trả nợ, chẳng nổi sân nên thân tâm được an yên. Ngược lại kẻ chẳng hiểu đạo không ai không nộ khí xung thiên, ngàn lời chửi mắng. Ôm mối hận trong lòng rồi để tâm sân thiêu đốt. Vì kẻ bạc ác mà tự gieo vô lượng vô biên ác nghiệp nơi khẩu ý, thật vô cùng đáng xót thương!
- Hành dịch bệnh quỷ vương Lệ Quỷ.
- Sự thật về hạn Tam tai.
- Oan gia trái chủ là gì.
- Hội Long Hoa là gì.
- Thiên Ma là loại ma gì.
- 10 Chuyện tâm linh có thật.
- Học Phật pháp bắt đầu từ đâu.
*
Một bạn đọc gửi mail cho tôi hỏi: “Vợ chồng thằng bạn chí cốt hỏi vay tiền, hứa trong thời gian 3 tháng sẽ trả. Tin bạn, tôi cho vay không cần biên nhận. Ba tháng sau bạn gọi điện khất thêm một thời gian. Tôi biết nó vẫn khó khăn nên chẳng ý kiến gì. Một năm sau, thấy nó công việc thuận lợi, khoe mua thêm đất nọ xe kia, mà tiền nợ tuyệt không thấy đả động gì.
Lúc đầu gọi điện còn nghe máy, sau dăm bảy cuộc mới nghe một lần, giọng hờn dỗi khó chịu. Sau nữa thì gọi không nghe, nhắn tin chẳng trả lời. Tệ hơn nó rêu rao nói xấu, bịa chuyện bêu riếu tôi khắp chốn thân sơ. Tôi giận nên làm căng, nhờ mấy thằng em xã hội can thiệp đôi phen mới đòi được hết. Gần 2 năm giúp bạn chỉ thấy phiền não liên miên, chẳng được gì. Rốt cuộc mất thằng bạn nối khố, lại mang thêm mang tiếng là cạn tầu ráo máng. Thật chẳng ra làm sao! Nay hễ mỗi lần nghĩ lại, vẫn bực tức không thể nguôi ngoai! Theo Tuệ Tâm thì giờ tôi nên làm thế nào?”
*
Tôi bảo: “Nên buông đi cho nhẹ người. Giận hờn chỉ tổn mình chớ chẳng hại đến ai. Phải biết rằng hết thảy những mối quan hệ ta gặp trong đời này đều là nhân duyên nhiều đời nhiều kiếp. Kiếp xưa bạn hại người ta khổ não, nay đủ thời tiết nhân duyên nên phải trả nợ đó thôi. Xét rốt ráo ra thật chẳng có gì phải phiền não cả!
Nhân quả như bóng với hình, đã gieo nhân thì không cách chi quỵt nợ được. Không trả nợ trước thì cũng phải trả sau, không bằng cách này cũng phải trả theo cách khác. Bạn thật may mắn vì trả được nợ bằng tiền. So với những người phải trả nợ bằng mạng thì vẫn nhẹ nhàng chán. Cho nên, có cơ hội trả được nợ thì nên khởi niệm vui mừng mới phải! Không nên giận hờn, chửi bới mà gieo thêm ác nghiệp. Việc ấy chỉ tự mình khiến phúc báu của mình bị tổn giảm mà thôi!”
Đừng ăn cháo đá bát, chớ lấy oán báo ân.
Hạng người ăn cháo đá bát, lấy oán báo ân, tuy rốt ráo đều do nơi túc nghiệp, nhưng do làm chuyện trái nghịch với luân thường đạo lý, bị quỷ thần khinh ghét trách phạt nên quả báo thường đến rất nhanh. Bởi vì làm trái ân tình nên nghiệp lực sâu nặng, hiện tại nhận chịu báo ứng đan nhau. Do đó trong Trí Độ Luận nói: “Người biết ân tình sanh trưởng gốc rễ của Đại bi, mở thông cánh cửa của Thiện Nghiệp, mọi người đều kính mến, danh tiếng truyền khắp nơi, chết được sanh cõi Trời, cuối cùng thành Phật đạo. Người không biết ân tình khác gì với súc sanh!
Chư Kinh Yếu Tập có chuyện: “Có người đi vào rừng đốn gỗ, mê hoặc nên bị lạc đường. Lúc ấy gặp cơn mưa to. Trời gần tối lại vừa đói vừa lạnh. Người ấy tìm thấy một cái hang, định vào trú ẩn nhưng thấy có một con gấu lớn nên sợ hãi đi ra. Con gấu nói rằng: Ông đừng sợ hãi, ở đây ấm áp, nên vào trong ở lại qua đêm.
Lúc ấy mưa liên tục bảy ngày, con gấu thường lấy trái ngọt nước thơm cung cấp cho người ấy. Sau bảy ngày mưa tạnh, con gấu dẫn người ấy ra, chỉ rõ đường về nhà. Gấu nói với người ấy rằng: Tôi thân mang tội nên bị nhiều người oán hận. Ông về rồi nếu có ai hỏi thì đừng nói là gặp tôi!
Người ấy đáp rằng: Xin được vâng lời ông.
*
Người ấy trên đường về gặp một đám thợ săn. Họ hỏi ông từ đâu đến, thấy có những loài thú nào không? Ông ta bảo: Tôi gặp một con gấu to lớn. Nhưng nó cứu mạng tôi nên không thể chỉ cho các ông được.
Những thợ săn bảo: Ông là con người nên có cách nhìn như loài người, tại sao tiếc con gấu? Ông chỉ chỗ nó cho chúng tôi, chúng tôi giết được sẽ cho ông phần nhiều.
Người ấy nghe bùi tai liền dẫn thợ săn đến nơi gấu ở. Đám thợ săn giết chết gấu xong liền chia cho ông ta phần lớn thịt. Khi ông ta đưa tay ra nhận thì hai khuỷu tay tự nhiên đứt lìa rơi xuống đất.
Thợ săn nói: Ông có tội gì mà bị vậy?
Ông ta bảo: Con gấu này chăm sóc tôi giống như cha đối với con. Nay tôi làm trái ân tình nên phải chuốc lấy tội báo này.
Thợ săn kinh sợ không dám ăn thịt. Họ liền đem xác gấu đến một ngôi Chùa thưa hỏi chúng Tăng. Thượng tọa ở Chùa này là một vị La hán, Ngài nói với các Tăng rằng: Gấu này chính là hóa thân Bồ tát. Ngài ấy sẽ xuất thế trong thời vị lai thành Phật. Các vị hãy lập tức xây tháp để cúng dường!
Nhà vua nghe sự việc này sắc lệnh trong cả nước: “Người làm trái ân tình không cho phép ở lại nơi này”.”
Theo Tân Bà Sa Luận: “Lúc ấy, vị Thượng Tọa quán xét thịt này là thịt Bồ-tát. Ngài liền lấy củi thơm thiêu cháy thịt ấy rồi thâu nhặt xương cốt xây tháp lễ bái cúng dường, giống như tôn kính tháp thờ Đức Phật”.
Đừng ăn cháo đá bát, chớ lấy oán báo ân: Chuyện Điều Đạt Tôn giả.
Theo Kinh Cửu Sắc Lộc: “Xưa có Bồ-tát thân làm loài hươu chín màu. Bộ lông có chín loại màu sắc, sừng trắng như tuyết, thường ở bên bờ sông Hằng ăn cỏ uống nước. Hươu thường cùng với một con quạ làm bạn bè gần gũi. Một hôm có người bị ngã xuống sông, nổi chìm trôi theo dòng xuống phía dưới. Người ấy hoảng hốt kêu cứu khắp trời thần. Hươu nghe thấy bèn nhảy xuống sông, bảo người bị nạn rằng: Ông hãy cưỡi trên lưng và nắm lấy sừng của tôi. Người ấy nhờ đó được cứu sống. Khi lên đến bờ người ấy liền rập đầu cảm ơn Hươu. Nguyện xin làm làm tôi tớ, hái cỏ lấy nước để đền ơn cứu mạng.
Hươu nói: Không cần đâu. Ông hãy trở về nhà. Nếu muốn đền đáp ân tình thì đừng nói cho ai biết về tôi.
Lúc ấy phu nhân của Quốc vương trong đêm mộng thấy loài hươu chín màu. Bà liền giả vờ bệnh không dậy được. Nhà vua đến thăm hỏi bệnh tình. Phu nhân bảo: Đêm qua thiếp mộng thấy loài hươu kỳ lạ. Nó có bộ lông chín loại màu sắc, sừng trắng như tuyết. Thiếp nghĩ và mong có được bộ da đó làm đệm ngồi, mong có bộ sừng đó làm cán quạt. Xin vua cho được như nguyện, nếu không vừa lòng thì thiếp sẽ chết mất.
*
Nhà vua liền chiêu mộ trong nước: “Nếu ai có thể bắt được loài hươu chín màu thì sẽ phân cho đất nước để cai quản. Ban cho người đó bát vàng chứa đầy thóc bạc. Ban cho người đó bát bạc chứa đầy thóc vàng.”
Người bị nạn nghe tin, khởi tâm tham phú quý, nghĩ rằng: Hươu là súc sinh, sống chết nào can hệ chi đến mình. Ông ta đến cung vua bảo rằng biết chỗ của hươu. Nhà vua vô cùng mừng rỡ nói: “Nếu ông có thể lấy được da và sừng hươu, ta sẽ đền đáp một nửa đất nước cho ông.
Ngay lúc ấy trên mặt người bị nạn liền mọc ra mụn nhọt. Người ấy nói: Thưa Đại vương! Con hươu này tuy là súc sinh nhưng có uy thần to lớn. Đại vương nên điều động nhiều binh lính mới có thể bắt được. Nhà vua liền huy động rất nhiều binh lính, theo đường tắt đến bên bờ sông Hằng. Con quạ ở trên ngọn cây trông thấy binh lính xuất hiện liền gọi hươu nói rằng: “Này bạn hãy dậy đi, binh lính nhà vua đến kìa!
Hươu nằm ngủ say không hay biết. Quạ sà xuống mổ vào tai, hươu mới giật mình tỉnh giấc. Nó quay nhìn bốn phía không có nơi nào thoát được, bèn đến bên cạnh xe vua. Cận thần muốn bắn, nhà vua bảo: Đừng bắn, con hươu này thật kỳ lạ, có thể nó chính là Thiên Thần!
Hươu nói: Thưa Đại vương, hãy đừng bắn tôi. Trước đây tôi là người sống trong đất nước của Đại vương.
Hươu lại quỳ thẳng hỏi nhà vua rằng: Ai báo cho Ngài biết tôi ở đây?
*
Nhà vua liền chỉ vào người mặt bị hủi đứng bên cạnh xe. Hươu liền ngẩng đầu nhìn mặt người này, trong mắt trào lệ nói: Người này trước đây bị chìm ở giữa dòng sông. Tôi không tiếc thân mạng, lao vào trong dòng nước cõng thoát ra. Ông ta hứa là không nói gì với ai. Vậy mà nay tráo trở không giữ chữ Tín. Thật không bằng khúc gỗ trôi nổi giữa dòng nước bập bềnh.
Nhà vua có vẻ mặt xấu hổ, nói rằng: Ông nhận ân tình cứu mạng của hươu tại sao lại tráo trở muốn giết hại hươu? Lập tức hạ lệnh truyền khắp trong nước: Nếu có ai đuổi bắt hươu này, sẽ bị tru di năm họ!
Các loài hươu mấy ngàn con đều đến nương tựa. Chúng ăn cỏ uống nước không xâm phạm lúa má của người. Từ đó mưa gió thuận hòa, thóc lúa đậu mè được mùa. Khắp nơi không người bệnh tật, cùng hưởng phúc thái bình. Đức Phật bảo rằng: Hươu chín màu lúc ấy chính là thân Ta bây giờ. Con quạ lúc ấy nay chính là A-nan. Quốc vương lúc ấy nay chính là vua Duyệt Đầu Đàn cha Ta. Phu nhân nhà vua lúc ấy nay chính là Tôn Đà Lợi. Người bị chìm lúc ấy nay chính là Điều Đạt. Tuy Ta có thiện tâm giúp đỡ, nhưng cố tình muốn hãm hại Ta, khó mà có thành ý”.
Đừng ăn cháo đá bát, chớ lấy oán báo ân.
Theo kinh Tạp Bảo Tạng: “Lúc ấy Đề bà đạt đa, tâm thường ôm ấp điều ác muốn làm hại Thế tôn. Ông ta mướn năm trăm Bà-la-môn thiện xạ. Chúng mang cung tên đến nơi Thế tôn giương cung bắn Phật. Mũi tên đã bắn ra biến thành những đóa hoa. Năm trăm Bà la-môn trông thấy thần biến như vậy đều vô cùng sợ hãi. Họ đồng vứt cung tên lạy Phật xin sám hối. Đức Phật thuyết pháp cho nghe đều đạt được quả vị Tu-đà-hoàn.
Họ thưa với Đức Phật rằng: Nguyện cầu cho phép chúng con xuất gia học đạo.
Đức Phật dạy: Tỳ kheo hãy cố gắng!
Tức thì râu tóc tự nhiên rụng hết, pháp phục tự hiện trên thân. Ngài tiếp tục thuyết pháp cho nghe đạt được quả A-la-hán. Các Tỳ kheo thưa với Đức Phật rằng: Thần lực của Thế tôn thật là hiếm có. Đề-bà-đạt-đa thường muốn làm hại Đức Phật, mà Ngài luôn sanh lòng Đại Từ.
Đức Phật dạy: Không những ngày nay mới vậy đâu. Ở thời quá khứ, trong nước Ba-la-nại có một người chủ buôn, tên gọi Bất Thức Ân. Ông ta cùng năm trăm khách buôn đi vào biển thu thập vật báu. Khi họ có được vật báu quay trở về, đến chỗ có dòng nước xoáy, gặp phải La Sát trong nước giữ thuyền đó lại.
Những người buôn vô cùng kinh hãi, đều cùng nhau nói to rằng: Thiên thần – Địa thần và các vị thần mặt trăng mặt Trời! Ai có thể Từ bi cứu giúp chúng tôi!
*
Lúc ấy có một con rùa to lớn, lưng rộng một dặm, khởi tâm thương xót hướng đến nơi thuyền. Rùa chở mọi người nhanh chóng được vượt qua biển lớn. Lúc ấy con rùa ngủ một lát, Bất Thức Ân muốn dùng đá lớn đánh chết con rùa. Những người buôn nói rằng: Chúng ta nhờ rùa cứu nạn mà được sống, giết chết rùa không tốt đâu.
Bất Thức Ân nói: Chúng ta dùng ở đây vừa đói vừa khát, còn nghĩ chi đến ân với tình? Hôm nay ta nhất định phải giết rùa ăn thịt.
Ngay trong đêm ấy có bầy voi lớn xuất hiện, chà đạp giết chết mọi người.
Đức Phật dạy: Rùa lớn lúc bấy giờ nay chính là thân Ta. Bất Thức Ân lúc bấy giờ chính là Đề-bà-đạt đa. Năm trăm người buôn lúc ấy nay chính là năm trăm Bà-la-môn xuất gia đắc đạo. Ta ở đời kiếp xưa kia cứu giúp ách nạn ấy, nay lại bạt trừ tai họa sanh tử cho họ”.
Đừng ăn cháo đá bát, chớ lấy oán báo ân.
Theo kinh Phật thuyết Chiên Đàn Thọ: “Đức Phật bảo với A-nan: Lắng nghe kỹ càng mà tiếp nhận giữ gìn! Lúc ấy ở nước Duy Da Lê có năm trăm người cùng đi vào biển tìm báu vật. Sau họ bỏ thuyền đi bộ trở về. Trải qua nhiều ngày đi bộ mỏi mệt, họ dừng chân nghỉ tại một chân núi nọ.
Sáng sớm bốn trăm chín mươi chín người khỏi hành, riêng có một người ngủ say nên lạc mất bạn bè. Gặp đúng hôm Trời mưa tuyết phủ lấp mất đường đi. Anh ta lo lắng sợ hãi kêu Trời gọi đất.
Lúc ấy có vị Thọ thần ở cây Chiên Đàn Hương to lớn nói với người khốn cùng rằng: Hãy ở lại nơi này. Tôi sẽ cung cấp cơm ăn áo mặc cho ông, đến mùa xuân mới có thể đi được. Người khốn cùng bèn ở lại.
Đến ba tháng sau ông ta trình bày với Thọ thần rằng: Nhờ ân Ngài mà được toàn vẹn thân mạng tôi không biết phải đền đáp như thế nào. Nay tôi còn cha mẹ già ở quê nhà nên tâm không an. Xin Ngài chỉ đường cho tôi!
Thọ thần đồng ý rồi lấy một chiếc bánh bằng vàng tặng cho và dặn: Ông đi theo hướng này, không bao lâu sẽ trở về được nhà.
*
Người khốn cùng sắp đi lại hỏi Thọ thần rằng: Cây này thơm tho thanh khiết hiếm có ở thế gian. Ngài có thể cho tôi biết tên gọi của cây chẳng!
Thọ thần nói: Không cần phải hỏi.
Người khốn cùng lại nói: Nhờ bóng cây này che chở trải qua 3 tháng. Nếu về đến nhà tôi sẽ nói về ân nghĩa của cây.
Thọ thần bèn đáp rằng: Cây này tên gọi Chiên Đàn. Thân rễ cành lá chữa trị mọi bệnh tật của con người, hương thơm tỏa xa hiếm có ở thế gian. Con người vốn rất tham lam, ông không nên nói cho họ biết!
Người khốn cùng về đến nhà, bà con thân thích đều mừng rỡ. Chẳng bao lâu sau Quốc vương mắc bệnh đau đầu. Vua cúng tế cầu xin các vị thần Trời, đất, núi, sông, nhưng bệnh không hề giảm bớt. Sau có một danh y thăm viếng nói rằng: Chỉ có loại cây Chiên Đàn Hương mới có thể chữa lành bệnh cho Vua. Nhà vua liền cho người tìm kiếm khắp dân gian mà không có. Vua bèn truyền lệnh: Trong nước có ai tìm được cây Chiên Đàn Hương, sẽ phong hầu, gả công chúa làm vợ.
Lúc ấy người khốn cùng nghe thưởng bổng lộc nồng hậu, liền đến chỗ vua thưa rằng: Tôi biết chỗ có cây Chiên Đàn Hương.
*
Nhà vua liền lệnh cho quan quân đi theo người khốn cùng đến chặt lấy cây Chiên Đàn Hương. Đến nơi cây, quan quân trông thấy cây to lớn thẳng tắp, cành lá tươi tốt hoa trái sum sê. Bởi vì hiếm thấy cho nên họ phân vân không nỡ nào chặt phá, Khi họ còn đang lưỡng lự thì nghe tiếng Thọ thần ở giữa hư không nói rằng: Cứ chặt đi, chỉ giữ lại gốc cây. Chặt rồi dùng máu người bôi vào, gan ruột phủ bên trên, cây tự nhiên sẽ mọc trở lại như cũ!
Quan Quân nghe thần linh nói như vậy, liền sai người chặt cây. Người khốn cùng đứng ở bên cây, liền bị cành cây rơi xuống đất đâm chết. Quan quân liền cùng nhau bàn luận rằng: Trước đây Thọ thần nói nên lấy máu người bôi vào, gan ruột phủ lên trên để thờ tâm của cây. Chúng ta không biết nên dùng ai để tế rạ ơn thần. Nay người này chết rồi, tiện thể ta lấy mà làm lễ tạ. Họ liền cắt mổ lấy gan ruột máu huyết người đó như lời thần linh đã chỉ bày. Cây lập tức mọc lại như ban đầu không có gì sai khác.
Xe chở cây trở về, thầy thuốc lập tức dâng thuốc lên khiến nhà vua khỏi bệnh. Nhà vua truyền cho nhân dân trong nước: Hễ người nào có bệnh thì ban cho một phần Chiên Đàn Hương. Do đó mà người bệnh khắp nơi đều được chữa lành. Cả nước hớn hở thỏa lòng vui sống thái bình.”
*
A-nan rời chỗ ngồi cúi rập đầu chất vấn rằng: Người khốn cùng này, sao không giữ lời mà lại tráo trở, làm trái lời thề sâu nặng với Thọ thần?
Đức Phật trả lời rằng: Vào thời xa xưa, lúc Đức Phật Duy Vệ tại thế, có ba cha con nọ. Người cha phụng hành trai giới chưa hề lơi lỏng lười nhác. Người con lớn thường thắp hương giữa hư không cúng dường chư Phật mười phương. Người em nhỏ ngu si không biết gì Tam bảo, thường dùng áo che phía trên hương.
Người anh nói với em rằng: Việc thắp hương cúng dường rất quan trọng. Sao em lại phá hoại?
Người em lúc ấy khởi tâm ác nói rằng: Tôi thề sẽ chặt đứt hai chân anh.
Người anh nghe vậy bảo rằng: Nếu thế ta sẽ đánh chết em.
Người cha nói: Hai con tranh cãi khiến cho cha đau đầu.
Người anh bảo: Nguyện phá nát thân con làm thuốc, khiến cho cha được khỏi mọi tật bệnh.
Người em phát khởi Ác ý, muốn chặt đứt chân anh, nay chính là người người khốn cùng kia. Người anh muốn đánh chết em, nay làm Thọ thần. Quốc vương đau đầu lúc ấy là người cha xưa kia, vì phụng trì trai giới tinh tiến cho nên được báo ứng tôn quý. Tất cả đều nhận chịu tai ương của chính mình. Đức Phật dạy: Báo ứng tội phước như bóng theo hình”.
Đừng ăn cháo đá bát, chớ lấy oán báo ân: Quả báo vong ân bội nghĩa.
Quả báo của những kẻ ăn cháo đá bát, lấy oán báo ân thường là Hiện Báo và vô cùng nặng nề,. Theo Nhân quả báo ứng hiện đời, Ni Sư Hạnh Doan dịch: “Ký Văn Đông, hơn 40 tuổi, thân mặc hiếu tang, mắt đầm đìa lệ, quỳ trước ngôi mộ mới đắp của thím Trương láng giềng, lâu thật lâu vẫn chưa chịu rời xa.
Người đàn ông này vóc dáng cao lớn, tướng mạo đường đường, nhưng lại có thời thơ ấu rất thảm. Nếu như không nhờ thím Trương quan tâm giúp đỡ, thì có lẽ anh đã không còn trên trần thế. Tuy không phải thân nhân nhưng thím Trương đối tốt còn hơn thân nhân.
Lúc Văn Đông 5 tuổi thì cha mẹ anh trong một năm đã lần lượt qua đời. Cha Văn Đông trước phút lâm chung, mắt đầy lệ gởi gắm con trai lại cho anh cả và chị dâu mình. Ký thác toàn bộ gia tài của ông: Gồm nhà cửa khang trang, số tiền rất lớn và mớ vàng bạc trang sức. Xem như tất cả đều giao hết cho vợ chồng người anh, cậy nhờ họ quản lý thay cho bé Văn Đông.
Lúc đó anh cả và chị dâu ông chỉ trời đất thề thốt đủ điều. Họ nói với người sắp mất thế này: Chúng ta đều là người một nhà! Con em thì cũng như con anh chị. Dù em không để lại tài sản, chẳng có lấy một xu thì anh chị đây cũng nguyện cưu mang, nuối cháu đến lớn khôn.
*
Cha Văn Đông nghe những lời tràn đầy nghĩa tình này, sung sướng mỉm cười, an lòng nhắm mắt ra đi. Khi đó cũng có cán bộ trong thôn và láng giềng đồng chứng kiến. Ai nấy đều cảm động rơi nước mắt.
Xong tang lễ được mấy ngày, thím Trương láng giềng bỗng nghe Văn Đông bị đánh đập khóc to. Về sau cứ cách dăm ba ngày thì nghe hai bác đánh cháu, chửi mắng om sòm.
Thím Trương tốt bụng đã nhiều lần can gián, nhưng chuyện vẫn xảy ra như cũ. Sau đó thím phát hiện bé Đông rất ít ra ngoài chơi. Thỉnh thoảng nó đứng nơi cửa, nhưng chẳng hề thấy nó cười. Thím Trương bèn đến gần, hỏi han mấy câu, thì thằng bé lộ vẻ sợ hãi không dám nói gì.
Thím Trương thấy Văn Đông ốm đi rất nhiều, hơn nữa mặt mày thân thể đầy vết thương. Dần dà láng giềng, hương thôn ai cũng biết chuyện. Nhưng khi làng xã chất vấn, thì hai vợ chồng nọ hung hăng nói là tại Văn Đông lì bướng không ngoan. Bọn họ nhận lời ba thằng bé ủy thác thì có quyền quản giáo, cũng chẳng làm gì hại nó. Họ còn trách ngược lại, mắng đám người ngoài lo chuyện không đâu. Nào có máu mủ chi mà nhúng mũi vào chuyện gia đình họ? Do mọi người không bắt được tại trận chuyện ngược đãi cháu của hai bác Văn Đông. Họ cũng là người ngoài, chẳng có quyền can thiệp chuyện nội bộ của nhà người. Cho nên dù rất bất bình, nhưng chẳng ai giúp chi được.
*
Nhiều năm trôi qua, thằng bé dần dần trưởng thành. Thím Trương nhiều lần thừa lúc hai bác Văn Đông đi vắng, lén đút nhét, chăm bón cho thằng bé. Khi miếng bánh, lúc viên kẹo hoặc thứ gì đó… Nhìn thằng bé ăn ngấu nghiến, thím mỉm cười an ủi nó.
Văn Đông dù đã lớn nhưng vẫn phải mặc bộ y phục cũ rách từ hai năm trước. Xuân, hạ, thu… cứ dần qua. Tới mùa đông thím Trương thấy thằng bé mặc đồ mỏng manh, rách rưới ló cả tay chân. Nhìn nó co ro đưa tay ôm vai, run rẩy vì lạnh, bà rơi nước mắt quay về nhà tìm y phục cũ của con mình. Bà giặt sạch sẽ, may thêm lớp bông độn bên trong, rồi ngay tối đó đem sang nhà hai bác Văn Đông, nói là áo bông con mình chê không dùng nên để cho Văn Đông mặc. Nói xong bà tự tay mặc vào cho thằng bé. Trước khi Văn Đông thành nhân, thím còn may cho nó ba bộ áo bông, không lúc nào mà không tiếp tế ẩm thực, có lúc còn dúi cho nó ít đồng lẻ.
Cuối cùng Ký Văn Đông cũng thành tài, có nghề nghiệp ổn định, được nhiều cô gái để ý.
Khi Văn Đông đến tuổi kết hôn, anh xin hai bác cho mình ra riêng tự lập. Hai bác dù không muốn, nhưng vì cháu đã lớn, họ sợ lời bình phẩm của láng giềng, bất đắc dĩ phải chiều theo. Nhưng họ viện cớ gia cảnh khó khăn, chỉ cấp cho Văn Đông một ngôi nhà dột nát cũ kỹ, trống trơn không có gì.
*
Hai người bác này có sáu người con, họ xây nhà mới khang trang cho hai con trai khi chúng thành thân. Phần Văn Đông, đối với sự ngược đãi của bác, cậu vẫn không hề nói một lời than oán. Mỗi khi người trong thôn bất bình, đốc xúi anh đi kiện quan, thì anh nói:
– Bác cả nuôi tôi khôn lớn cũng chẳng dễ dàng gì. Nếu không nhờ bác cưu mang, thì tôi cũng chẳng sống đến hôm nay. Tiền bạc vật chất thường khiến người ta tranh giành. Nhưng có câu rằng: “Trai tốt chẳng tranh điền trang, gái tốt chẳng tranh đồ cưới” hay sao? Nếu như không học hành, không có nghề nghiệp ổn định thì dù sở hữu nhiều tài sản đến đâu, cũng không giữ được lâu.
Tôi nhất định học tập, trau giồi kỹ thuật nghề nghiệp thật tốt để làm việc phục vụ hương thôn mình. Để xứng đáng với sự quan tâm yêu thương của dân làng, không phụ ân nuôi dưỡng của hai bác…
Dân làng rất quý phục tính nhân hậu thực thà của Văn Đông. Do ở hiền gặp lành nên giờ anh đã là chủ một xí nghiệp trong thôn, hiện có một con đang học đại học ở thành phố. Gia đình nhỏ của anh sống rất êm ấm hạnh phúc.
*
Ta hãy nhìn xem hai người bác bội tín vong nghĩa, làm trái lời thề bị báo ứng ra sao? Họ có sáu con, gồm bốn gái hai trai.
Con gái đầu của họ 29 tuổi thì bị bịnh sỏi thận chết, con trai cả 29 tuổi cũng bị sỏi thận, không bao lâu thì chết. Con gái út 29 tuổi cũng vướng bịnh bất trị hệt anh chị mình mà tử vong. Việc ấy khiến ba mẹ chúng hoang mang kinh sợ. Sáu đứa con đã chết mất ba người, sau này còn xảy ra chuyện gì nữa đây?
Không bao lâu con trai út của họ kết bè lập đảng đi cướp bóc. Nó gây cãi đánh lộn, bị kết án mười năm tù. Ngày y bị tuyên án, mẹ y bị xuất huyết não, từ đó nằm liệt giường. Từ đó bà phải nhận chịu bao cư xử ghẻ lạnh, mắng chửi của con cái. Do bà không khống chế được đại tiểu tiện nên chỗ nằm hôi thối, da thịt lở loét. Bà cứ sống cảnh như vậy hơn ba năm rồi chết trong bi ai.
Lúc bà chưa chết, thì chồng bà cũng vướng phải chứng si ngốc lú lẫn. Bà chết được nửa năm, thì một hôm ông đi đường không cẩn thận vấp té, đầu đập xuống đất rồi vĩnh viễn ra đi.
*
Láng giềng kể tôi nghe câu chuyện này xong thì hỏi:
– Đây có phải là nhân quả báo ứng không?
Và chẳng đợi tôi đáp, họ tự nói:
– Ở quê chúng tôi ai cũng bảo đây là trời già trừng phạt cặp vợ chồng bội tín bất nghĩa.
Tôi nói:
– Giống như làm mùa vậy. “Trồng gì thu hoạch đó”, đây là quy luật tự nhiên. Trước khi Phật đến nhân gian giảng pháp thì luật nhân quả đã tồn tại sẵn rồi. Phàm phu không hiểu, nên cứ trồi sụp trong biển khổ sinh tử, chẳng thể thoát ly.
Chư Phật Bồ-tát từ bi, thừa nguyện trở lại nhân gian, giảng thuyết chân tướng vũ trụ và chỉ cho chúng ta phương pháp xuất ly khổ hải. Chúng ta nhất định phải nắm ngay cơ hội được mang thân người này, y pháp tu hành, sớm chứng Bồ-đề mới là con đường chân chánh trong nhân gian.”
( Đừng ăn cháo đá bát, chớ lấy oán báo ân )
Tuệ Tâm 2022.
Để lại một bình luận