“Đạo cao Long Hổ phục, Đức trọng Quỷ Thần khâm” là câu cổ ngữ, được người xưa dùng để chỉ những bậc xuất gia tu hành chân chính. Chữ “Đạo” nghĩa là Đạo Hạnh của người tu hành, nếu giữ giới hạnh tinh nghiêm thì Rồng Hổ đều tới quy phục hộ trì. Chữ “Đức” ở chỉ về đạo đức hay đức hạnh, nếu đức hạnh sâu dày thì trong vô hình luôn được chúng quỷ thần khâm phục hộ trì.
Như Hòa Thượng Tuyên Hóa là một điển hình: Hễ Ngài đi tới đâu ở đó dù khô cằn cách mấy cũng sanh ra nước. Ấy là bởi chúng đệ tử Rồng của Ngài trong vô hình âm thầm hộ trì vậy!
- Cách đi lễ Chùa đúng pháp..
- Âm đức là gì.
- Sự thật về Trùng Tang.
- Cách niệm Phật tại nhà.
- Cách thay đổi vận mệnh.
- Cách hồi hướng công đức.
- 10 chuyện Tâm linh có thật.

*
Về “Đạo cao Long Hổ phục, Đức trọng Quỷ Thần khâm” thì Hòa Thượng Hư Vân là một điển hình. Nếu ai từng đọc Cuộc đời và Đạo nghiệp của Ngài sẽ biết: “Cuộc đời ngài có rất nhiều điều thần bí, khi Ngài viếng núi Kê Túc thì chuông mõ tự ngân, lên chùa Cao Đảnh thì lan tiên tỏa hương thơm ngào ngạt, lúc giảng kinh thì cây khô sống lại, mai trổ sen, rau cải trong vườn trổ sen, thậm chí tất cả nến thắp trong đạo tràng cũng nở hình sen. Cầu mưa được mưa, cầu tuyết được tuyết, toan tính gì đều có thần ngầm phò trợ: giúp dời đá, lấp sông…
Khi Ngài bắt buộc phải đốn cây cổ thụ thì cây đổ cũng lựa hướng bình an cho chùa. Lúc Nhật nhắm vào chùa Ngài dội bom thì bom lại rơi xuống chỗ vắng, không thiệt mạng ai nhưng phi cơ Nhật tử nạn, vỡ nát. Nhật sợ đến độ sau đó hễ có việc phải bay thì cũng đi đường vòng chứ không dám bay ngang chùa Ngài. Con vật nào được Ngài quy y thì lập tức ăn chay, tánh hung dữ hiếu chiến bỗng chuyển thành hiền lành. Bò cũng tìm đến Ngài cầu cứu, hổ cũng biết tìm Ngài cầu giới… Thọ thần, Long vương đều hóa hiện thân người tìm tới xin thọ giới.
Khi Hòa Thượng cùng đệ tử hành cước lên đỉnh Vĩnh Phong, lúc đến một hẻm núi thì trời gần tối, vực sâu muôn trượng không có cầu bắc qua. Chúng đệ tử âm thầm kinh sợ, chỉ riêng ngài ngồi an nhiên tự tại. Một lát sau, có con rồng lớn đến hóa hiện làm cầu cho ngài qua.
Đạo cao Long Hổ phục, Đức trọng Quỷ Thần khâm
Hòa Thượng Hư Vân bảo: “Người xưa tu hành có đạo đức cao thượng tôn quý, khiến thiên long quỷ thần cảm động, tự nhiên đến ủng hộ. Vì thế, đạo đức là tôn quý nhất ở thế gian, nên có câu: “Đạo cao long hổ phục. Đức trọng quỷ thần khâm”. Quỷ thần cùng con người, mỗi loài đều có pháp giới tôn quý ty tiện khác nhau.
Tại sao chư thiên, quỷ thần lại tôn trọng, cung kính pháp giới loài người? Diệu tánh linh minh vốn chẳng phân biệt mình người, đều đồng quy về nhất thể. Chỉ vì vô minh bất giác, mê muội nguồn chân, mới phân mười pháp giới, tức sáu phàm bốn thánh. Nếu muốn xả mê về ngộ, phải xoay về cội nguồn. Song, trình độ giác ngộ của mỗi pháp giới không đồng. Trong pháp giới của con người, có kẻ giác và bất giác, cũng có kẻ chánh tri kiến và tà tri kiến. Pháp giới chư thiên và quỷ thần cũng như thế. Tuy nằm trong sáu loài phàm phu, nhưng pháp giới con người lại vượt trội năm pháp giới khác.
Chư thiên cõi trời Lục Dục vẫn còn đam mê tham ái nữ sắc, quên mất việc tu hành. Trời Tứ Thiền Thiên thì lại tham đắm thiền vị, quên mất con đường minh ngộ chân tâm. Trời Tứ Không Thiên thì lại lạc vào thiên chấp biến không, quên mất chánh tri kiến. A Tu La còn nhiều sân hận. Chúng sanh trong đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thọ bao khổ nhọc, khiến chẳng có chánh niệm, thì làm sao tu hành?
*
Cõi người khổ nhọc vui sướng không đồng, nhưng so với các cõi khác thì dễ dàng giác ngộ hơn, nên có thể minh tâm kiến tánh, siêu phàm nhập thánh. Chư thiên quỷ thần tuy có thần thông phước báo nhiều ít không đồng, nhưng đều tôn trọng người có đạo đức và cùng ngưỡng mộ chánh pháp.
Thiền sư Nguyên Khê, kết am tại Nhạc Bàng Ô, đã từng truyền giới cho thần núi. Trong bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, viết: “Ngày nọ, có một dị nhân, đầu đội mão rộng, thân mặc cân đai, dẫn rất nhiều người, thư thả đi vào am, bảo rằng muốn yết kiến Đại Sư.
Thấy hình mạo kỳ lạ phi thường, Đại Sư hỏi: – Lành thay! Nhân giả vì cớ gì mà đến đây?
Thần đáp: – Đại Sư nhận ra con không?
– Ta chỉ dùng mắt bình đẳng mà quán chư Phật cùng tất cả chúng sanh, sao lại có phân biệt!
– Con vốn là thần trụ núi này, và cầm nắm sanh tử con người trong vùng. Đại Sư có nhận biết không?
– Ta vốn vô sanh, ông làm sao giết được? Thân Ta đồng với hư không, cùng đồng với thân ông. Ông có thể phá hoại hư không cùng thân của mình không? Chẳng thể được! Thân Ta bất sanh bất diệt. Ông chưa có thể làm được như thế, sao cầm nắm sanh tử của ta?
Thần cung kính cúi đầu thưa: – Con là vị thần rất mực thông minh chánh trực, há lại không biết Đại Sư có trí huệ quảng đại sao? Nay mong cầu Đại Sư hãy truyền chánh giới, con xin lãnh thọ.
*
– Ông khất cầu giới, tức đã đắc giới. Tại sao? Ngoài tâm không có giới, sao cần cầu giới?
– Nghe lý này, con thật mê muội, chỉ cầu Đại Sư truyền giới để con trở thành đệ tử của Ngài.
Đại Sư lên tòa, ngồi ngay thẳng, tay cầm bình hương trầm, bảo: – Hôm nay truyền năm giới cấm, nếu ông phụng trì được, thì đáp rằng con giữ được. Ngược lại, hãy đáp rằng không giữ được.
Thần thưa: – Con kính cẩn thọ giáo.
– Ông có thể giữ giới cấm dâm dục được không?
– Con vẫn còn có vợ.
– Chẳng phải thế! Ta bảo là không nên tà dâm.
– Con giữ được.
– Ông có thể giữ giới cấm ăn cắp được không?
– Con đâu có thiếu gì, sao lại đi ăn cắp?
– Không phải vậy! Hưởng thụ mà không tham lam quá độ. Không được cúng, chớ nên gieo họa cho người hiền.
– Con giữ được.
– Ông có thể giữ giới cấm giết hại được không?
– Con đang nhậm chức phán sát, sao không thể giết hại được?
– Không phải thế! Chẳng nên lạm dụng quyền thế, giết hại người hiền.
– Con giữ được.
– Ông có thể giữ giới cấm nói láo được không?
– Tâm con chất trực, sao lại đi nói láo?
– Không phải thế! Không nói láo tức lời nói trước sau đều hợp với tâm của trời đất.
– Con giữ được.
– Ông có thể giữ giới cấm uống rượu được không?
– Con giữ được.
*
– Trên đây là những giới cấm do Phật chế. Có tâm phụng trì mà vô tâm chấp vật. Có tâm vì vật, mà vô tâm nghĩ tưởng thân. Nếu được như thế, thì lúc trời đất vừa thành lập, chẳng tinh khiết. Lúc trời đất tan hoại thì chẳng già. Biến hóa ngày đêm mà không động. Cứu cánh tịch mặc mà chẳng ngừng nghỉ. Ngộ được như thế, tuy có vợ mà chẳng phải thê thiếp. Tuy hưởng thụ, mà chẳng chấp thủ. Tuy có oai quyền mà chẳng lạm dụng uy thế. Tuy làm mà chẳng tạo. Tuy say rượu mà chẳng hôn mê.
Nếu vô tâm nơi muôn vật, tuy nhiều dục mà chẳng dâm; tham lam quá độ mà không phạm tội ăn cắp; lạm quyền giết lầm người mà không phạm tội sát. Trước sau ngược với trời đất mà không vọng dối. Hôn vọng điên đảo mà chẳng say. Đó gọi là vô tâm. Vô tâm thì vô giới. Vô giới tức là vô tâm, vô Phật, vô chúng sanh, vô nhân, vô ngã, vậy thì ai là người trì giới?
– Thần thông của con thật không thể sánh bằng Phật.
– Trong mười phần thần thông, ông không thể làm được năm phần, còn Phật thì không thể làm ba phần.
Nghe thế Thần bèn quỳ xuống thưa: – Cầu xin Đại Sư kể rõ cho con nghe.
Đại Sư hỏi: – Ông có thể khiến mặt trời mọc ở hướng tây, lặn ở hướng đông không?
– Không thể. – Ông có thể lấy đất năm đảnh núi mà kết thành bốn biển không?
– Không thể.
*
– Phật có thể chuyển tất cả tướng không thành muôn pháp trí, mà không thể diệt định nghiệp. Phật có thể biết sự việc của chúng sanh cùng tận ức kiếp, mà không thể giáo hóa những kẻ vô duyên. Phật có thể độ vô lượng loài hữu tình mà không thể diệt tận pháp giới chúng sanh. Đó là ba việc mà Phật không thể làm được. Định nghiệp cũng không lâu. Kẻ vô duyên cũng có kỳ. Pháp giới chúng sanh vốn không tăng không giảm. Không ai có thể làm chủ tất cả pháp. Có pháp mà vô chủ, nên gọi là vô pháp. Vô pháp vô chủ, cũng gọi là vô tâm. Nay giải thích về Phật, Ta cũng chẳng có thần thông, chỉ dùng vô tâm mà thông đạt hết muôn pháp.
– Con thật rất ngu muội, chưa từng được nghe nghĩa không. Đại Sư truyền giới, con vâng giữ phụng hành. Ngày nay, con nguyện muốn báo đáp ân đức từ bi của Đại Sư, nên sẽ hiển hiện chút ít thần thông.
– Ta quán thân vô vật, quán pháp vô thường, sao cần cầu chi nữa?
– Nếu Đại Sư cho phép, con sẽ triển chuyển chút ít thần thông, để khiến người đã phát tâm, vừa phát tâm, chưa phát tâm, chẳng có tín tâm, đã có tín tâm, biết được có Phật, có thần có năng lực thần thông, không có năng lực thần thông, có tự nhiên, không có tự nhiên.
– Không được! Không được!
– Phật cũng xử dụng thần thông để truyền pháp, sao Đại Sư chẳng làm theo? Xin Đại Sư rủ lòng dạy bảo.
*
Đại Sư bất đắc dĩ bảo: – Chùa Đông Nham có chướng ngại là cỏ dại rậm rạp mà chẳng có cây cối to lớn; đằng sau lưng chùa lại không có chỗ tựa. Ngọn núi phía bắc có rất nhiều cây cối. Ông có thể di chuyển cây cối bên hướng bắc qua đỉnh núi phía đông không?
Thần thưa: – Xin vâng mạng! Giữa khuya, con sẽ thổi chúng đi, mong Đại Sư chớ sợ! Nói xong, Thần liền đảnh lễ tạ từ lui ra. Tăng chúng trong chùa, vừa đưa Thần ra cửa, thì thấy có rất nhiều người, đứng hai hàng dài, đi theo hầu. Tướng Thần oai vệ uy nghi như vua chúa, xung quanh thân sương khói xông lên mù mịt, mây ngũ sắc quấn chằng chịt, trên đầu có tràng phan ngọc bội.
Thần bay lên hư không rồi biến mất. Tối đến, quả nhiên mây kéo đến ùn ùn, mưa to gió lớn, sấm sét nổi lên, mái nóc đều lung lay rung động, khiến chim chóc cầm thú la hoảng. Đại Sư bảo đại chúng: – Chớ sợ! Chớ sợ! Thần làm theo ý ta.
Sáng hôm sau, trời trong mưa tạnh; tất cả cây cối bên phía bắc đều được dời hết qua đỉnh núi phía đông, mọc tủa xum xuê khắp nơi. Đại Sư thấy thế, bảo đệ tử: – Sau khi Ta mất, chớ kể chuyện này cho người ngoài nghe. Nếu họ biết được, sẽ cho Ta là yêu quái.
Quý vị hãy xem, thần tuy có thần thông, nhưng không bằng người có đạo đức. Thế nên bảo rằng “đức trọng quỷ thần khâm”.
*
Người không có đạo đức, bị quỷ thần quản chế, thọ bao hiểm họa. Người có đạo đức, lại muốn minh tâm kiến tánh, thì tự nhiên sẽ cảm động quỷ thần. Chư thiền sư đại đức xưa nay, tu hành kinh thiên động địa, khiến hươu nai dâng hoa, khỉ vượn cúng trái. Thiên ma ngoại đạo, chư tiên quỷ thần, đều đến quy y, như Chân tổ sư quy y Quán Âm, Tài Thần quy y Phổ Hiền, Động Tân tiên sư quy y Hoàng Long, Vương Linh Quang quy y Địa Tạng, vua Văn Xương quy y Phật Thích Ca, v.v…
Do đó, hoàng đế Nhân Tông triều Tống viết bài kệ phú tán thán chư tăng đại đức: “Những bậc tôn quý nhất trên thế gian, không ai bằng những vị xả tục xuất gia. Nếu được làm tăng sĩ, thì mới thọ sự cúng dường của trời người. Làm đệ tử của đấng Thế Tôn, tức là quyến thuộc của tiên thánh, vào nơi cửa vàng, đến cung điện bảo tạng. Hươu trắng dâng hoa, khỉ vượn cúng trái. Xuân nghe chim hót líu lo, vang tiếng diệu nhạc cơ trời. Hạ nghe ve kêu trên cây cao, liền biết mùa nóng đã đến. Thu ngắm trời xanh, gió trong trăng sao chiếu sáng. Đông xem tuyết phủ đảnh núi sông ngòi.
*
Ngồi thiền trên bồ đoàn, thân ấm áp. Dẫu sóng ba đào nổi dậy, vẫn cưỡi tích trượng thăng hư không. Mười đại quân ma khi nghe danh, vẫn phải hàng phục, quy y chánh đạo. Vang tiếng gõ bản, bèn lên vân đường lễ cúng. Nghe tiếng chuông, bèn lên chánh điện tụng kinh. Mọi việc đều như ý, muôn loại hiện thành. Lúc sống làm thầy trời người. Lúc chết quyết định quy y thánh quả.
Kệ viết:
“Không Vương đệ tử Phật
Quyến thuộc chư Như Lai
Thân mặc y trăm mảnh
Miệng ăn ngàn bát cơm
Tối ngủ giường vô úy
Sáng thấy Phật A Di Đà”
Nếu Trẫm được như vậy, thì rất là mãn nguyện”.
Trên đây là lời văn tán tụng chư tăng đại đức của hoàng đế Nhân Tông. Chúng ta tự hãy xem xét mình có tương ưng điểm nào với bài văn phú tán thán này không? Nếu hạnh mình đều tương hợp với lời văn trên, thì mới có thể thọ sự tôn kính của quỷ thần. Nếu “sóng ba đào khởi”, như khi vô minh dấy lên, mà không thể “mở tích trượng, phóng lên hư không”, khiến làm náo loạn cả trời đất, thì thật xấu hổ cùng cực. Ngược lại, nếu “mười đại ma quân” làm phiền hà, khiến chẳng được như ý, và bao việc chẳng thành tựu, mà có thể hàng phục chúng, thì trời rồng tám bộ quỷ thần đều tôn trọng cung kính.”
Đạo cao Long Hổ phục, Đức trọng Quỷ Thần khâm: Tiên Nhân quy phục.
Hòa Thượng kể: “Trong chúng hội tiên nhân có Lữ Động Tân, biệt hiệu Thống Dương, người Kinh Châu. Vào đời Đường, ông lên kinh đô thi rớt ba lần, nên không muốn về nhà. Lúc đi ngang qua một quán rượu ở Trường An, gặp Chung Ly Quyền, dạy cho phép trường sanh bất tử. Lữ Đồng Tân y theo đó tu hành. Sau này, phi hành tự tại, đi khắp thiên hạ.
Ngày nọ, ông đến chùa Hải Hội ở Lô Sơn, bay lên lầu chuông, đề bốn câu thơ:
“Một ngày an nhàn Thân tự tại
Sáu căn hòa hợp Báo bình an
Vật quý đơn điền Sao vấn đạo
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền”.
Khi đi ngang qua núi Hoàng Long, lúc trông thấy tướng mây ngũ sắc như cái dù, ông nghi rằng trong chùa có bậc dị nhân, nên bước vào, lại gặp lúc ngài Hoàng Long đang ngồi tòa giảng kinh đánh trống pháp vi diệu. Ông theo đại chúng vào pháp đường nghe pháp.
Ngài Hoàng Long nói: – Hôm nay có người đến trộm pháp. Lão tăng sẽ không thuyết giảng.
Lữ Đồng Tân liền bước ra đảnh lễ, thưa: – Xin thỉnh Hòa Thượng giải thích cho nghĩa của câu:
“Trong một hạt gạo chứa đầy thế giới. Núi sông ngòi rạch đều chảy vào chiếc nồi nhỏ”.
Ngài Hoàng Long nạt: – Con quỷ giữ tử thi.
Lữ Đồng Tân bảo: – Nhưng trong bụng có chứa thuốc trường sanh.
– Sống cho tới tám muôn bốn ngàn kiếp, vẫn chỉ lạc vào không vọng vô ích.
*
Bấy giờ, vì quên mất công phu “đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền”, Lữ Đồng Tân tức giận dữ dội, vung kiếm đâm thẳng vào ngài Hoàng Long. Ngài Hoàng Long chỉ tay vào kiếm, kiếm tự rơi xuống đất, không thể nhặt lên. Lữ Đồng Tân bèn quỳ xuống xin sám hối, thỉnh cầu Phật pháp.
Ngài Hoàng Long nói: – Để câu “núi sông ngòi rạch chảy vào chiếc nồi nhỏ” qua một bên. Hãy trả lời cho Ta câu “trong hạt gạo, chứa đầy cả thế giới”, là gì?
Lữ Đồng Tân nghe lời này, liền khế hợp huyền chỉ, nên viết kệ sám hối:
“Quăng đi bụng rỗng đàn cầm
Nay chẳng giữ vàng trong ngân
Vừa khi gặp được Hoàng Long
Mới biết xưa lầm dụng tâm”.
Đây là câu chuyện tiên nhân quy y Tam Bảo, cầu mong làm hộ pháp ở chốn già lam. Đạo giáo trong tay của Lữ Đồng Tân khi ấy rất hưng thạnh. Ông là tổ thứ năm của Đạo giáo ở miền Bắc. Chân nhân Tử Dương cũng do xem Tổ Anh Tập mà rõ nguồn tâm, làm tổ thứ năm của Đạo giáo ở miền Nam.
Thế nên, nhờ Phật giáo mà Đạo giáo được hưng thịnh trở lại. Khổng Tử truyền đạo đến Mạnh Tử thì thất truyền. Đến đời Tống, tiên sinh Châu Liêm Khê do từ trong tông môn mà phát minh tâm địa. Trình Tử, Trang Tử, Chu Tử v.v…, cũng từ Phật pháp mà ra. Thế nên, tông môn trợ lực cho Đạo Nho rất nhiều. Hiện nay, có lắm kẻ khinh khi tông môn, thậm chí lại hủy báng. Đó là muốn gieo nghiệp tội vô gián…”
Đạo cao Long Hổ phục, Đức trọng Quỷ Thần khâm: Sư Tăng Quang
Theo Pháp Uyển Châu Lâm: Thời nhà Tấn ở núi Ẩn Nhạc, thuộc vùng Diệm, có Bạch Tăng Quang, hoặc gọi là Đàm Quang, không biết là người nơi nào, thuở trẻ luyện tập thiền nghiệp. Đầu thời Tấn Vĩnh Hòa đi đến vùng Giang Đông, tìm vào núi Thạch Thành của vùng Diệm, dân sống cạnh núi đều nói: “Trong núi này xưa có tai họa của mãnh thú, và Sơn thần tung hoành hung ác cho nên từ lâu bặt dấu chân người.”
Tăng Quang không hề tỏ ra sợ sệt chút nào, nhìn mọi người vạch đường vác gậy mà tiến lên. Đi vào mấy dặm, bỗng nhiên mưa gió ào ào, bầy hổ gầm gào dữ tợn. Tăng Quang đến phía nam vùng núi trông thấy một hang đá, bèn dừng lại trong đó chắp tay ngồi thiền yên ổn, lấy làm nơi cư trú tu thiền. Đến sáng sớm mưa tạnh, bèn đi vào thôn xóm khất thực, chiều lại trở về trong hang.
Trải qua ba ngày mới thấy Sơn thần, hoặc làm thân hình loài hổ, hoặc làm thân hình loài rắn, tranh nhau đến đe dọa Tăng Quang, Tăng Quang không một chút sợ hãi. Qua ba ngày sau lại mộng thấy Sơn thần, thấy ông ta bảo: Tôi đã chuyển đến cư trú trong núi Hàn Thạch ở huyện Chương An. Xin nhường hang đá cho bậc Chân tu.”
*
Từ đó về sau Ngài hái củi đổi lấy lương thực đạo tục trong vùng rất tôn trọng. Người thích học pháp thiền tìm đến, dựng chòi tranh ở bên cạnh hang đá, dần dần làm thành nhà cửa chùa chiền, nhân đó gọi là Ẩn Nhạc. Tăng Quang mỗi khi nhập định thì bảy ngày không đứng dậy.
Cuối đời Tấn Thái Nguyên, Ngài dùng y che đầu ngồi yên lặng mà qua đời. Tăng chúng đều nói là theo lệ thường nhập định, sau quá bảy ngày cảm thấy lạ lùng vì không đứng dậy, mới cùng nhau đến xem sao. Sắc diện như thường, nhưng trong mũi không có hơi thở, thần thức chuyển dời tuy đã lâu mà hình hài không hư hoại.
Đến năm thứ hai đời Tống Hiếu Kiến, Quách Hồng nhậm chức ở huyện Diệm, đi vào núi lễ bái, thử dùng gậy như ý đẩy vào ngực, gió ào ào nổi lên làm cho da thịt tiêu tán, chỉ còn lại xương trắng. Quách Hồng vô cùng hổ thẹn và sợ hãi thu nhặt đưa vào hang, dùng gạch xây lên mà tô vữa bên ngoài, họa thành hình tượng, đến nay vẫn còn.
Đạo cao Long Hổ phục, Đức trọng Quỷ Thần khâm: Sư Đàm Du
Cũng Theo Pháp Uyển Châu Lâm: ” Vào thời nhà Tấn ở núi Xích Thành vùng Thỉ Phong có Trúc Đàm Du, hoặc gọi là Pháp Du, người vùng Đôn Hoàng, thuở trẻ sống khổ hạnh, luyện tập thiền định. Sau đi đến Giang Tả dừng lại trong núi Thạch Thành của vùng Diệm, khất thực ngồi thiền. Ngài đã từng đi đến một nhà chuyên nuôi sâu độc khất thực, Đàm Du chú nguyện xong, bỗng nhiên thấy con rết từ trong thức ăn nhảy ra. Đàm Du tự nhiên ăn chứ không có gì khác.
Sau Ngài chuyển đến ngồi thiền ở hang đá nơi núi Xích Thành vùng Thỉ Phong, có mấy chục con hổ dữ ngồi chồm hổm ở phái trước Đàm Du, Đàm Du tụng kinh như cũ, cả bầy hổ chỉ có ngủ, Đàm Du dùng gậy như ý gõ vào đầu hổ trách mắng, vì sao không nghe kinh. Trong chốc lát cả bầy hổ đều bỏ đi. Một lúc sau loài mãng xà tranh nhau xuất hiện, lớn hơn mười vòng tay ôm, cứ vòng lại ngước đầu hướng về Đàm Du, suốt nửa ngày lại bò đi.
Sau đó một hôm có vị thần hiện rõ hình dáng, nói với Đàm Du rằng: “Uy đức của Pháp sư sâu dày. Nay Ngài đến ở tại núi này, đệ tử xin cúng dường hang đá.”
Đàm Du nói: “Bần đạo tìm đến núi dựng am tu trì. Sao thần không cùng ở lại?”
Thần nói: “Đệ tử thuận theo tự nhiên, nhưng thuộc hạ chưa tiếp xúc với giáo pháp. Sợ họ bất ngờ khó mà chế ngự được. Bởi người và thần khác nhau về đạo lý, vì vậy ra đi mà thôi.”
*
Đàm Du nói: Vốn là thần gì, ở đây đã bao lâu, muốn chuyển đến nơi nào vậy?
Thần nói: Đệ tử là con trai của vua Hạ, ở tại núi này hơn hai ngàn năm, núi Hàn Thạch là nơi cai quản của nhà cậu, nên đến cư trú ở đó. Lát sau trở về miếu thờ ở phía Bắc của núi. Trước lúc từ biệt tự tay cầm tặng cho Đàm Du ba hộp hương, ngay sau đó vỗ bao kiếm thổi tù và rồi cưỡi mây mà đi.
Núi Xích Thành có đỉnh cao lẻ loi, đứng một mình vượt ra ngoài tầng mây bao phủ, Đàm Du đập đá làm bậc thang lên trên mỏm núi cao ngồi an nhàn, nối những ống trúc dẫn nước để cung cấp sử dụng hằng ngày. Người đến theo học thiền rất đông.
Đỉnh Xích Thành và thác nước Thiên Thai cùng khe nước linh thiêng Tứ Minh, tất cả đều nối liền với nhau, mà Thiên Thai thì núi cao vách đứng, đỉnh sừng sừng chọc trời. Cổ xưa tương truyền rằng: “Phía trên có Tinh xá rất đẹp, là nơi cư trú của những người đắc đạo. Tuy có cầu đá vượt qua khe núi mà đá lớn chắn ngang cắt lối người đi, và lại đầy rêu xanh trơn trợt, từ xa xưa đến nay không có người nào đến được.”
Đàm Du đi đến nơi cầu đá, nghe giữa hư không có tiếng nói rằng: “Biết ông chân thành, nhưng nay chưa đi qua được, mười năm sau tự nhiên sẽ đến được.” Trong lòng Đàm Du buồn bã, nhiều tối dừng lại ngủ qua đêm, trong đêm vắng nghe tiếng người hành đạo xướng lên Bố tát.
*
Sáng sớm lại muốn tiến lên, gặp một người mày râu bạc phơ, hỏi Đàm Du mong muốn điều gì? Đàm Du nói về ý nguyện. Người ấy nói: “Ông là thân sanh tử, sao có thể đến được. Tôi là Sơn thần phụ trách ở nơi đây.”
Đàm Du bèn quay trở về, đường đi qua một hang đá, liền vào trong hang nghỉ chân, chốc lát mây mù tối đen trong hang đều sáng tỏ, thần sắc Đàm Du không hề thay đổi. Sáng sớm thấy người mặc áo mỏng khép nách xuất hiện, nói rằng đây chính là nơi ở của tôi tớ, hôm qua đi vắng, trong nhà liền trở nên bừa bộn, thật vô cùng hổ thẹn.
Đàm Du nói: Nếu là nhà của ông, thì xin để tự nhiên trả lại.
Vị thần nói: Nhà ở của kẻ tôi tớ đã chuyển nơi khác, xin Sư dừng lại cư trú nơi này.
Đàm Du tiếc là không qua được cầu đá nên về sau trai tịnh nhiều ngày rồi tiếp tục đi đến cầu. Ngài trông thấy tảng đá chắn ngang mở ra thông suốt. Qua cầu trong chốc lát liền nhìn thấy Tinh xá và các Thần Tăng, quả nhiên giống như người đã nói. Nhân đó thắp hương rồi ăn cơm trưa.
Ăn xong Thần Tăng nói với Đàm Du rằng: “Mười năm sau hãy nên đến chỗ này, bây giờ chưa dừng lại được.”
Ngay sau đó Ngài trở về, quay đầu nhìn lại thì thấy tảng đá chắn ngang khép lại như cũ.”
(Đạo cao Long Hổ phục, Đức trọng Quỷ Thần khâm. )
Tuệ Tâm 2022.
Để lại một bình luận