Các cõi trời trong Phật giáo là khái niệm căn bản trong thế giới quan của Đạo Phật, bao gồm 28 cõi trời, trong đó: Dục giới có 6 cõi, Sắc giới 18 cõi và Vô sắc giới 4 cõi.
Có người vặn hỏi tôi: “Ngày nay khoa học phát triển, con người đã bay vào vũ trụ. Lên vũ trụ rồi chỉ thấy có các hành tinh và cát đá, nào có thấy cõi trời và chư thiên nào như đạo Phật nói đâu?”
Tôi bảo: “Không phải như ông nghĩ đâu, các cõi trời trong Đạo Phật chỉ được nhìn thấy bằng đạo nhãn. Nếu ông chịu khó tu tập, thân tâm thanh tịnh; một mai khai mở thiên nhãn rồi nhìn lên ắt không gì chẳng thấy. Còn như con mắt phàm phu đầy rẫy tham sân si của bọn ta, dù có dùng phi thuyền lên đến cõi trời Phi tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, cũng chỉ nhìn thấy toàn cát đá mà thôi.”
Nay xin trích đăng lời giảng giải của Hòa Thượng Tuyên Hóa về các cõi trời trong Phật giáo. Mong sẽ lợi lạc cho những ai chưa biết vậy.
- Tam Thiên Đại Thiên Thế giới là gì.
- Thần linh, ông là ai.
- Hộ Pháp là gì.
- Tam giới là gì.
- Thiên Ma là loại ma gì.
- Tứ Đại Thiên Vương là những ai.
- Mười điều quan trọng Phật tử tại gia cần biết.
Các cõi Trời trong Phật giáo giảng giải.
Các cõi trời trong Phật giáo: 1. Sáu cõi trời thuộc Dục giới.
Kể từ bên dưới tầng đất nước của thế gian trở lên cho đến cảnh trời Tha hóa tự tại đều gọi chung là cõi Dục, vì chúng sinh trong cõi này đều có tham dục. Từ dưới đếm lên có cả thảy sáu cảnh trời tuần tự kể ra như sau: 1.Cõi Trời Tứ Vương. 2.Cõi Trời Đao Lợi. 3.Cõi Trời Dạ Ma. 4.Cõi Trời Đâu Suất. 5.Cõi Trời Hóa Lạc. 6.Cõi Trời Tha Hóa Tự Tại.
1. Cõi Trời Tứ Thiên Vương.
Tứ Thiên Vương còn được gọi là Hộ Thế Tứ Vương, tức là bốn ông thiên vương bảo hộ thế gian. Tứ Thiên Vương Thiên nằm ở lưng chừng núi Tu Di; còn Ðao Lợi Thiên thì ở tại sơn đỉnh của núi này.
Tứ Thiên Vương chính là bốn vị đại thiên vương trấn giữ bốn phương – Ðông Thiên Vương, Nam Thiên Vương, Tây Thiên Vương và Bắc Thiên Vương. Vị Thiên Vương ở phương đông là Trì Quốc Thiên Vương, ở phương nam là Tăng Trưởng Thiên Vương, ở phương tây là Quảng Mục Thiên Vương, và ở phương bắc là Ða Văn Thiên Vương.
Ở cõi trời mà bốn vị đại thiên vương cư ngụ, thọ mạng của thiên nhân là năm trăm tuổi; và một ngày một đêm tại cõi Tứ Vương Thiên này là năm mươi năm ở chốn nhân gian.
Tứ Vương Thiên là cõi trời gần với thế giới của chúng ta nhất. Người thế gian ai làm thiện hoặc làm ác đều do Tứ Vương Thiên xét xử; bởi chư thiên ở đó lo trông coi việc thiện ác của nhân gian chúng ta. Ðó là nói về Tứ Thiên Vương Thiên.
2. Cõi Trời Ðao Lợi.
“Ðao Lợi” là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là “tam thập tam”, tức là chỉ cõi trời Ba Mươi Ba. Như thế, có phải trời Ðao Lợi nằm ở tầng thứ ba mươi ba không? Không phải! Tuy gọi là cõi trời “Ba Mươi Ba”, nhưng đó không phải do đếm từ dưới lên trên theo thứ tự, như tầng trời thứ nhất, tầng trời thứ hai, rồi đến tầng trời thứ ba,… cho tới tầng trời thứ ba mươi ba.
Vậy thì như thế nào? Cõi trời Ba Mươi Ba này vốn nằm chính giữa, và ở bốn phía đông tây nam bắc của cõi trời này thì mỗi phía lại có tám cõi trời. Do đó, tổng cộng có ba mươi hai cõi trời phân bố chung quanh cõi trời Ba Mươi Ba.
Thiên chủ của cõi trời Ba Mươi Ba là Ðế Thích. Trong Kinh A Di Ðà có nói đến “Thích Ðề Hoàn Nhân”, tức là vị Ðế Thích này vậy. Ngoài ra, trong Chú Lăng Nghiêm có câu “Nam Mô Nhân Ðà La Da”, thì Nhân Ðà La Da cũng chính là Thiên Chủ Ðế Thích. Ở cõi trời thì Ðế Thích là một vị Thiên Chủ; còn trong Phật Giáo thì Ngài là một vị Hộ Pháp – Ngài chẳng những không được làm chủ mà ngay cả tòa sen để ngồi cũng không có nữa, Ngài chỉ đứng ở ngưỡng cửa mà thôi!
*
Thiên Chủ Ðế Thích cũng chính là đấng “Thượng Ðế Vạn Năng” mà người đời thường xưng tụng. Ðúng vậy, Ðế Thích quả là một “đấng vạn năng” – Ngài cai quản tất cả mọi việc ở cõi trời cũng như ở cõi người. Tuy nhiên, giữa Ngài và người thế gian chúng ta chẳng có gì khác biệt lắm. Vì sao? Vì Ngài vẫn còn tâm dâm dục, và vẫn cần ăn uống, ngủ nghỉ; có khác chăng là ba thứ dục vọng ấy ở Ngài thì nhẹ và tinh tế, chứ không nặng nề và thô thiển như ở phàm phu chúng ta!
Người thế gian chúng ta chỉ không ăn không uống vài bữa là chịu không nổi, vài ngày không dâm dục là cảm thấy khó chịu, vài hôm không ngủ nghỉ là thấy uể oải, bạc nhược. Còn Trời Ðế Thích thì một trăm ngày không ăn cũng được; thậm chí hai trăm ngày, ba trăm ngày, hoặc một năm mới ăn một lần cũng chẳng sao; suốt năm không ngủ cũng vẫn tỉnh táo như thường, và quanh năm không dâm dục cũng chẳng lấy làm phiền – tuy nhiên, Ngài vẫn chưa đoạn trừ được dục vọng.
Tuổi thọ của chư thiên ở cõi trời Ðao Lợi là một ngàn năm. Một trăm năm của cõi nhân gian chúng ta chỉ là một ngày một đêm ở cõi trời Ðao Lợi. Vậy, quý vị thử tính xem, so với người thế gian chúng ta thì thọ mạng của chư thiên lâu hơn được bao nhiêu năm?
*
Cõi trời Ðao Lợi rộng tám vạn do-tuần; tất cả tường vách của thành trì nơi đây đều được làm bằng bảy thứ báu. Thành trì của Thiên Chủ Ðao Lợi Thiên là Thiện Kiến Thành, rộng sáu vạn do-tuần; và tất cả cung điện đều được xây bằng những vật liệu quý báu nhất. Ðây cũng là lý do khiến Thiên Chủ Ðế Thích sau khi được sanh về đó rồi thì chỉ muốn ở lại làm chúa trời, chứ không muốn “dọn nhà” đi nơi khác! Mọi thứ xung quanh Ðế Thích toàn làm bằng châu báu; ngay cả nhà cửa phòng ốc cũng được kiến tạo bằng những vật liệu vô cùng quý giá.
Vì được sống ở một nơi đẹp đẽ với những cung điện tráng lệ như thế, nên Ðế Thích khó thể dứt bỏ dục tâm. Ngài lấy làm thỏa mãn, an nhiên hưởng thụ phước trời, và cho rằng đó là nơi vui sướng nhất. Chẳng những thế, Ngài còn kêu gọi tất cả chúng sanh hãy sanh về “thiên quốc” – thế giới của Ngài.
Ðối với Ngài, cõi trời Ðao Lợi là một thế giới đầy vui thú; do đó, ai thích thì cứ đến ở, Ngài sẵn lòng hoan nghênh tất cả. Ngài cho rằng Ngài rất khảng khái, rộng lượng, vì lúc nào cũng hoan hỷ nghênh đón mọi người đến ở và cùng an hưởng phước lạc của cõi trời với Ngài; song le, Ngài không biết rằng sở dĩ bản thân mình chưa thoát khỏi vòng sanh tử là bởi mình còn tham đắm dục lạc!
3. Cõi Trời Tu Diệm Ma.
Ðây là nơi mà ánh mặt trời và mặt trăng đều không giọi tới được. Thế thì nơi ấy có lẽ rất tối tăm? Cũng không hẳn! Bởi thiên nhân ở cõi Dạ Ma Thiên này trên thân đều có hào quang chiếu sáng, cho nên cũng không cần tới ánh sáng của mặt trời và mặt trăng.
Vì sao cõi trời này có tên là “Dạ Ma”? “Dạ Ma” (Suyama) là Phạn ngữ; Trung Hoa dịch là “thiện thời phân” (khéo chia thời giờ). Vì sao gọi là “thiện thời phân”? Bởi vì cõi trời này nằm ở vị trí quá cao, ánh sáng của mặt trời và mặt trăng đều không thể nào giọi tới được; cho nên thiên nhân ở đây bèn lấy lúc bông sen nở hiệp để phân biệt ngày và đêm – hoa nở là ban ngày, hoa hiệp là ban đêm.
Tại Tứ Vương Thiên thì thiên nhân thân cao nửa dặm (lý).
Tại Ðao Lợi Thiên, thiên nhân thân cao một dặm (lý), và có thọ mạng là một ngàn tuổi. Một ngày đêm ở cõi trời này là một trăm năm ở chốn nhân gian.
Còn ở Dạ Ma Thiên thì thế nào? Thiên nhân ở đây thân cao một dặm (lý) rưỡi, và có thọ mạng là một ngàn năm trăm tuổi. Một ngày đêm tại cõi trời này là một trăm năm ở trần gian.
Cứ lên cao hơn một tầng trời thì thọ mạng được tăng thêm năm trăm tuổi, thân cao thêm nửa dặm (lý); cho nên càng lên các tầng trời phía trên thì thiên nhân thân hình càng cao lớn, và tuổi thọ càng gia tăng.
4. Cõi Trời Ðâu Suất Ðà.
“Ðâu Suất Ðà” là Phạn ngữ (Tusita); Trung Hoa dịch là “tri túc” (biết đủ); do đó cũng gọi là “Tri Túc Thiên.” Ðâu Suất Ðà Thiên gồm có nội viện và ngoại viện. Bồ Tác Di Lặc hiện ngụ tại nội viện, còn các thiên nhân thì ở tại ngoại viện.
Tam Tai (ba thứ tai họa – lửa cháy, nước lụt, gió bão) không lan tràn đến Ðâu Suất Nội Viện được, song vẫn có thể hủy diệt Ðâu Suất Ngoại Viện.
5. Cõi Trời Hóa Lạc.
Sự vui sướng tại cảnh trời này có tánh biến hóa, bởi sự vui sướng phi thường ấy là do chư thiên ở đó biến hóa ra.
6. Cõi Trời Tha Hóa Tự Tại.
Sự vui sướng ở Tha Hóa Tự Tại Thiên vốn là của các cõi trời khác hóa hiện ra; vì chư thiên ở đây có thần thông nên họ có thể chuyển dịch sự vui sướng của các cõi trời khác về cõi trời của họ. Tha Hóa Tự Tại Thiên là nơi trú ngụ của thiên ma, chứ không phải của các vị thiên thần hoặc tiên nhân chân chánh.
Sáu cảnh trời kể trên – Tứ Vương Thiên, Ðao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Ðâu Suất Ðà Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên – được gọi chung là Lục Dục Thiên. Vì sao gọi là “Lục Dục Thiên” (sáu cõi trời dục)? Bởi vì các thiên nhân ở đó tuy được sanh lên cõi trời nhưng vẫn còn tâm dâm dục, vẫn còn những ý nghĩ không thanh tịnh.
Trong khóa hè vừa qua, lúc giảng Kinh Lăng Nghiêm, tôi đã có giảng về Lục Dục Thiên rồi, song tôi tin chắc là quý vị nghe xong đều không muốn giữ cho mình và đã “tặng” lại hết cho tôi; vì thế bây giờ tôi giảng lại để “thân tặng” cho quý vị thêm lần nữa vậy!
Thiên chúng ở Lục Dục Thiên đều còn lòng ái dục. Sự hành dâm của chư thiên ở trời Tứ Thiên Vương và trời Ðao Lợi thì cũng giống như của con người ở nhân gian vậy. Vì sao ư? Bởi vì họ đều có hình thể. Thiên nhân ở trời Tứ Thiên Vương cũng kết hôn như người thế tục; và ngay cả thiên nhân ở trời Ðao Lợi cũng vậy, họ đều có vợ chồng, con cái chẳng khác gì loài người ở trần gian cả.
*
Trẻ sơ sinh ở Tứ Vương Thiên thì như thế nào? Ở cõi trời này, trẻ con mới sinh ra đã lớn bằng đứa bé năm tuổi ở nhân gian. Còn ở Ðao Lợi Thiên thì sao? Trẻ sơ sinh ở trời Ðao Lợi thì trạc đứa bé bảy tuổi ở nhân gian; và ở trời Dạ Ma thì trẻ sơ sinh bằng cỡ đứa bé mười tuổi ở nhân gian.
Trẻ con mới sinh ra là đã lớn như thế, ngồi trên đùi của thiên nhân; và một lát sau thì được cho ăn “thiên lộ tự nhiên,” một thứ cam-lộ của cõi trời tự nhiên hóa hiện ra. Ăn xong chưa được bao lâu thì đứa bé vụt biến thành cao lớn như mọi thiên nhân khác – thân cao nửa dặm (lý), và thọ mạng là năm trăm tuổi. Ðó là nói về Tứ Vương Thiên.
Có bài kệ nói về cảnh giới dục lạc của chư thiên ở Lục Dục Thiên như sau:
Tứ Vương, Ðao Lợi dục giao bão,
Dạ Ma chấp thủ, Ðâu Suất tiếu,
Hóa Lạc thục thị, Tha tạm thị,
Thử thị Lục Thiên chi dục lạc.
Dịch là:
Tứ Vương, Ðao Lợi còn ôm ấp,
Dạ Ma nắm tay, Ðâu Suất cười,
Hóa Lạc nhìn lâu, Tha nhìn thoáng,
Đó là dục lạc cõi Lục Thiên
*
“Tứ Vương, Ðao Lợi dục giao bão” (Tứ Vương, Ðao Lợi còn ôm ấp). Thiên chúng ở trời Tứ Thiên Vương và trời Ðao Lợi cũng hành dâm như loài người ở thế gian vậy.
“Dạ Ma chấp thủ, Ðâu Suất tiếu” (Dạ Ma nắm tay, Ðâu Suất cười). Hành vi sắc dục của thiên nhân ở trời Dạ Ma là cầm tay nhau.
Ở cõi trời này, thiên nam và thiên nữ giao tình bằng cách nắm tay nhau, tương tự như lối bắt tay của người Tây phương vậy.
Thế còn ở trời Ðâu Suất thì sao? Ở trời Ðâu Suất thì thiên nam thiên nữ chỉ cười với nhau là đã thành vợ chồng rồi; bởi thiên nhân ở đó bình thời không hề cười! Vì sao? Vì lòng ham muốn của họ quá nhẹ, hầu như là không còn nữa vậy. Tại Lục Dục Thiên, hễ lên cao được một tầng trời thì dục niệm lại giảm nhẹ bớt một bậc.
Tại sao ở cõi nhân gian chúng ta, những người tu Ðạo đều cần phải “khử dục đoạn ái,” quét sạch mọi dục niệm? Bởi vì nếu dục niệm mà nhiều thì ngu si mê muội cũng nhiều thêm; dục niệm càng giảm thiểu thì trí huệ sáng suốt càng gia tăng. Dục niệm là thuộc cõi Ngũ Trược Ác Thế – cái gì gọi là “trược”? Ðó là dục niệm! Dục niệm là một thứ ô trược nhất, dơ bẩn nhất.
Lòng sắc dục của thiên chúng trên cõi trời Tứ Thiên Vương thì cũng giống như của nhân gian chúng ta vậy; còn dục niệm của thiên nhân ở trời Ðao Lợi thì có phần nhẹ hơn so với ở trời Tứ Thiên Vương.
*
Hành vi sắc dục của thiên nhân ở trời Dạ Ma là nắm tay nhau, còn ở trời Ðâu Suất thì cười với nhau. Quý vị chớ cho rằng cười là tốt – nhân gian chúng ta thường cho cười là điều tốt, mà không biết rằng cười cũng có một tác dụng về mặt tình cảm và sắc dục.
Chư thiên ở cõi trời Dạ Ma đều thích dụng công tu hành, cho nên rất hiếm khi có chuyện nắm tay nhau xảy ra.
“Hóa Lạc thục thị, Tha tạm thị” (Hóa Lạc nhìn lâu, Tha nhìn thoáng). “Thục thị” tức là nhìn hơi lâu một chút, như chừng một phút, hai phút hoặc năm phút. Thiên nam thiên nữ ở trời Hóa Lạc thì đăm đăm ngó nhau chừng một vài phút là thành dâm; còn ở trời Tha Hóa Tự Tại thì chỉ cần nhìn phớt nhau thôi, không phải nhìn lâu.
“Thử thị Lục Thiên chi dục lạc” (đó là dục lạc cõi Lục Thiên). Hành vi sắc dục của thiên nam thiên nữ ở Lục Dục Thiên là như thế – hễ lên cao hơn một tầng thì dục niệm giảm nhẹ bớt một tầng. Kẻ có dục niệm nặng nề thì không thể sanh lên cõi trời, cho nên những người được sanh thiên đều rất ít dục niệm. Bài kệ vừa rồi là nói về dục lạc ở Lục Dục Thiên.
Các cõi trời trong Phật giáo: 2. Mười tám cõi trời thuộc Sắc giới.
1. Ba cõi Trời Sơ Thiền
Trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ, trời Ðại Phạm. Ðây là ba tầng trời thuộc cõi Sơ Thiền, cũng gọi là Sơ Thiền Tam Thiên. Ngoài ra, còn có cõi Nhị Thiền và Tam Thiền, và ở mỗi cõi cũng đều có ba tầng trời.
Trời Phạm Chúng.
“Phạm” là gì? “Phạm” có nghĩa là thanh tịnh. Dục niệm của thiên nhân ở cõi Sơ Thiền Thiên thì càng nhẹ hơn nữa so với ở Lục Dục Thiên, cho nên gọi là “phạm.” Tất cả thiên nhân cư ngụ ở tầng trời này đều thanh tịnh và đều là dân chúng của toàn cõi Phạm Thiên.
Trời Phạm Phụ.
Chư thiên ở nơi này là những vị Tể Quan thanh tịnh, làm quan trên cõi trời. “Phụ” tức là phụ tá; và ở đây là phụ tá cho Ðại Phạm Thiên Vương.
Trời Ðại Phạm
Ðây là nơi trú ngụ của Ðại Phạm Thiên Vương. Ngài vốn là người rất siêng năng dụng công tu Ðạo, song chỉ tu thiên phước để được hưởng phước lạc của cõi trời chứ chưa đạt đến mức khai ngộ và chứng quả vị; do đó, ngài được sanh lên cõi trời và làm vua trời Ðại Phạm. Vị Ðại Phạm Thiên Vương này được sự hỗ trợ của chư thiên ở tầng trời Phạm Chúng và Phạm Phụ.
Sơ Thiền Tam Thiên còn được gọi là Ly Sanh Hỷ Lạc Ðịa, tức là cảnh giới xa lìa sự sanh khởi phiền não, vô cùng vui sướng. Phàm phu chúng ta khi dụng công đạt tới cảnh giới Sơ Thiền, thì cũng có thể đến được Sơ Thiền Thiên để gặp Ðại Phạm Thiên Vương, các Tể Quan phụ tá của ngài, và dân chúng cư ngụ ở đó.
2. Ba cõi Trời thuộc Nhị Thiền
Trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang, trời Quang Âm. Ðây là ba tầng trời thuộc cõi Nhị Thiền, cũng gọi là Nhị Thiền Tam Thiên. Làm thế nào để được sanh lên cõi trời Nhị Thiền này? Cần phải “khử dục đoạn ái,” dứt sạch tâm dâm dục! Nếu vẫn còn lòng ham mê sắc dục thì không thể nào sanh về cõi trời này được. Mỗi tầng trời ở đây chênh lệch nhau một “giai cấp”; vì sao? Bởi chư thiên ở nơi này không còn dục niệm nữa, cứ lên cao mỗi tầng thì dục niệm mỗi giảm nhẹ, ít dần.
Cõi Trời Thiểu Quang.
Thân thể của chư thiên ở tầng trời này đều tỏa ánh hào quang; và hào quang này lớn hơn nhiều so với hào quang của thiên nhân ở trời Dạ Ma. Tuy nhiên, trong ba tầng trời thuộc Nhị Thiền Tam Thiên, thì hào quang của thiên nhân ở trời Thiểu Quang có phần kém thua hai tầng trời kia.
Vì sao các thiên nhân này có hào quang? Ðó là do lúc còn tu hành ở thế gian, họ chuyên chú tuân thủ Giới Luật, trì Giới rất thanh tịnh. Chư thiên ở trời Phạm Chúng và Phạm Phụ cũng tuân thủ Giới Luật vậy, có điều là không được nghiêm ngặt bằng chư thiên ở trời Thiểu Quang, cho nên thanh tịnh thì có thanh tịnh, song không phát hào quang. Thiên nhân trời Thiểu Quang thì giữ Giới chẳng những tinh nghiêm mà còn sanh xuất hào quang nữa, do đó mà được sanh lên tầng trời này.
Cõi Trời Vô Lượng Quang.
Tầng trời vừa rồi là Thiểu Quang – ít hào quang; còn tầng trời này thì thế nào? Thì có vô lượng vô biên hào quang, không tính ra số lượng được.
Cõi Trời Quang Âm.
Tầng trời nằm phía trên trời Vô Lượng Quang là trời Quang Âm. Chư thiên ở trời Quang Âm nói chuyện với nhau bằng cách nào? Bằng hào quang! Tương tự như việc dựa vào tác dụng của điện quang để cấu tạo hình ảnh của tivi, chư thiên ở đây dùng ánh sáng tiêu biểu cho lời nói. Thiên nhân ở trời Quang Âm không nói ra tiếng, điều đó không có nghĩa là họ không biết nói; chẳng qua là họ không dùng ngôn ngữ mà lại dùng hào quang để nói chuyện.
Có người phê bình, cho rằng chư thiên ở trời Quang Âm là không biết nói, không có ngôn ngữ, không có văn tự; và sở dĩ họ dùng hào quang thay cho ngôn ngữ, văn tự là vì họ vốn không biết nói! Không phải thế! Nếu họ không biết nói, thì chẳng lẽ cả tầng trời Quang Âm toàn là thiên nhân “câm” hết sao? Thế thì so với người biết nói ở chốn nhân gian có tốt hơn gì đâu? Nếu nói rằng chư thiên ở trời Quang Âm dùng hào quang tiêu biểu cho lời nói vì họ đều bị câm, thế thì sanh lên tầng trời này có lợi ích gì???
*
Cho nên, tôi nói rằng họ cũng có ngôn ngữ, chẳng qua là họ không dùng đến ngôn ngữ mà thôi. Nhân gian chúng ta thì có văn tự và chúng ta dùng văn tự để tiêu biểu ngôn ngữ, chứ chúng ta không phải chỉ dùng văn tự mà từ bỏ ngôn ngữ. Hào quang được dùng ở trời Quang Âm cũng tương tự như văn tự của nhân gian chúng ta – chư thiên ở đó dùng hào quang để viết, tính chất cũng tựa như máy fax của chúng ta vậy. Sự việc nhất định là như thế; chứ không phải là họ chẳng có ngôn ngữ, chỉ có thể nói bằng hào quang mà thôi!
Cho nên, đối với Phật Pháp, quý vị cứ đem Phật Pháp với thế gian pháp ra để hỗ tương so sánh, suy luận, thì sẽ hiểu được ngay. Quý vị chớ nên hùa theo người khác mà vội cho rằng cõi trời Quang Âm chẳng có ngôn ngữ và tất cả chư thiên ở đó đều bị câm! Những người đó chắc chắn là chưa hiểu rõ vấn đề!!!
Vừa rồi là nói về ba tầng trời của Nhị Thiền Thiên. Người tham Thiền đạt được Ðịnh lực của Nhị Thiền Thiên tức là đến được cảnh giới Ðịnh Sanh Hỷ Lạc Ðịa, từ trong Ðịnh sanh xuất ra một thứ hỷ lạc.
*
Tuy nhiên, kẻ đạt tới cảnh giới Nhị Thiền cũng không thể nói rằng công phu tu tập của mình đã lên đến tột đỉnh, đến mức cao nhất. Không phải như thế! Quý vị, những người đang dụng công, bây giờ hãy tự hỏi rằng mình đã đạt đến trình độ này hay chưa? Có thật là mạch tim mình có ngừng đập? Có thật là sự hô hấp của mình có gián đoạn? Có phải là hễ ngồi Thiền thì sự hít thở của mình liền đình chỉ?
Không phải ư? Nếu không phải, thì hãy tiếp tục dụng công tu tập; nếu không dụng công thì không thể nào ngăn chặn được vòng luân hồi sanh tử. Cho dù quý vị có đạt được cảnh giới Sơ Thiền hay Nhị Thiền đi nữa, sự sanh tử của chính quý vị vẫn chưa kết thúc.
Chúng ta dụng công tu tập không phải để thấy được một vài cảnh giới nho nhỏ, thấy được Bồ Tát hiện thân hộ pháp, hoặc trông thấy người nào đó … Khi chúng ta ngồi Thiền, nếu có trông thấy hào quang thì phải biết đó chỉ là thứ cảnh giới nhỏ nhặt, không nên sanh tâm chấp trước, bám trụ vào cảnh giới.
Có trường hợp đang ngồi Thiền thì thân thể tự dưng lắc lư – quý vị không muốn động đậy, nhưng thân thể cứ chao qua đảo lại, có muốn ngừng cũng không ngừng lại được. Ðây là tác dụng của sáu loại chấn động đối với lục căn, biểu hiện sáu cách chấn động của đại địa. Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là công phu chân chánh, quý vị vẫn còn phải hướng tới trước mà nỗ lực nhiều hơn nữa mới được.
*
Quý vị nếu chưa đạt được cảnh giới Sơ Thiền và Nhị Thiền, thì cần phải cố gắng dụng công hơn nữa, không nên lười biếng. Nếu lười biếng thì không dứt được sanh tử; mà không dứt được sanh tử thì sẽ rất nguy hiểm cho tương lai của quý vị; cho nên, xuất gia tu hành không phải là chuyện dễ. Lười biếng tức là tự dọn đường cho mình tiến vào địa ngục. Nếu không muốn đọa địa ngục, thì phải siêng năng chịu khó, chăm chỉ dụng công.
Có người phàn nàn: ” – , hễ tôi dụng công là trong người thấy khó chịu, không được khỏe.” Thế thì đợi đến khi đọa địa ngục, quý vị sẽ thấy rằng ở đó còn khó chịu, khổ sở hơn nhiều! Quý vị muốn được thoải mái sung sướng trong hiện tại, thì tương lai sẽ không được “dễ chịu”; còn nếu quý vị chịu khó dụng công ngay từ bây giờ, thì tương lai tất sẽ rất “dễ chịu.”
Do đó, quý vị hãy cân nhắc điều này cho kỹ! Một khi bị đọa địa ngục, thì không biết phải chịu đày đọa đến bao lâu; vì nếu bị đọa vào địa ngục Vô Gián thì sẽ không có ngày được ra, quanh năm suốt tháng phải ở trong đó mà thọ tội, chịu sự trừng phạt. Bởi đã xuất gia học Ðạo rồi mà còn lười biếng trễ nãi, chẳng chịu dụng công, chẳng học Phật Pháp, chỉ muốn “tự do tự tại” theo ý mình, nên phải thọ tội ở địa ngục. Ðó chính là “tự do tự tại” vào địa ngục vậy!
3. Ba cõi Trời thuộc Tam Thiền Thiên
Trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng Tịnh, trời Biến Tịnh. Ðây là ba tầng trời thuộc cõi Tam Thiền. Cõi Sơ Thiền còn gọi là Ly Sanh Hỷ Lạc Ðịa, Nhị Thiền là Ðịnh Sanh Hỷ Lạc Ðịa, và Tam Thiền là Ly Hỷ Diệu Lạc Ðịa.
Tại Sơ Thiền Thiên – trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ, và trời Ðại Phạm – chư thiên đều thanh tịnh, song chưa có hào quang. Thật ra thì không hẳn là hoàn toàn không có – họ cũng có hào quang đấy, nhưng hết sức yếu ớt, mờ nhạt. Các thiên nhân thuộc Nhị Thiền Thiên thì có hào quang sáng rỡ và cũng thanh tịnh hơn.
Ở đây chúng ta có thể nêu ra một tỷ dụ rất đơn giản, so sánh trình tự của các tầng trời với tiến trình làm sạch sàn nhà. Trước hết, sàn nhà cần phải được quét dọn cho thật sạch sẽ – đây là dụ cho các tầng trời thanh tịnh Phạm Chúng, Phạm Phụ và Ðại Phạm (thuộc Sơ Thiền Thiên).
Sàn nhà tuy đã được quét dọn sạch sẽ rồi, song chưa được đánh sáp nên trông không có vẻ sáng sủa, bóng loáng. Sau khi đánh sáp thì mặt nền sáng hẳn lên – đây là dụ cho trời Thiểu Quang, trời Vô Lượng Quang và trời Quang Âm của Nhị Thiền Thiên.
*
Ðánh sáp rồi, chúng ta cần phải lau chùi thêm nữa thì sàn nhà mới hoàn toàn sáng loáng, bóng lộn. Bởi sau khi đánh sáp, trên mặt sàn vẫn còn sót chút ít bụi bặm hoặc một vài cọng lông chổi, cho nên sàn nhà tuy có sáng lên song vẫn chưa hoàn toàn sạch sẽ. Khi được lau chùi cẩn thận, không còn dính một hạt bụi, thì sàn nhà vừa sáng sủa lại vừa sạch sẽ – đây là dụ cho trời Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh và Biến Tịnh của Tam Thiền Thiên. Quý vị nào muốn hiểu rõ cảnh giới của các tầng trời, thì nên suy gẫm thêm về tỷ dụ này.
Khi quý vị tọa Thiền đến được cảnh giới Tam Thiền thì mọi ý niệm đều không còn, tất cả vọng niệm đều đình chỉ. Tại Sơ Thiền thì ý niệm vẫn còn tồn tại, quý vị vẫn còn sự suy nghĩ. Ở cảnh giới Nhị Thiền thì dòng ý niệm này vẫn chưa đoạn dứt; song đến Tam Thiền thì mọi niệm đều dứt tuyệt – không còn tình trạng hết niệm này sanh đến niệm kia khởi nữa.
Trong một sát-na có chín mươi cái sanh tử, trong mỗi cái sanh tử lại có chín trăm niệm; cho nên chỉ nội trong một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi mà chúng ta đã khởi không biết bao nhiêu là niệm. Nhưng khi quý vị đạt đến cảnh giới Tam Thiền thì mọi niệm đều đình chỉ. Lúc này, một niệm cũng không khởi, không còn niệm trước cũng chẳng có niệm sau – tất cả đều vắng lặng. Ðó là cảnh giới của Tam Thiền.
*
Bấy giờ, chẳng những khí và mạch đình chỉ, mà luôn cả niệm cũng đình chỉ, không còn nảy sanh nữa. Những người hành Thiền đến trình độ này có thể ngồi Thiền trong suốt một tháng mà không biết là đã một tháng, hoặc ngồi Thiền cả năm mà không biết là đã một năm trôi qua. Mặc dù họ không còn ý niệm về tánh thời gian và không gian nữa, song đó là trạng thái nhập Thiền Ðịnh chứ không phải là chết; cho nên nếu muốn thì họ vẫn có thể trở về được. “Muốn trở về” ư? Thế không phải là mọi niệm đều đình chỉ rồi sao? Khi họ vừa sực nghĩ: “Vì sao mình lại ngồi Thiền ở đây nhỉ?”; thì luồng ý niệm lập tức tái sanh và họ trở về lại.
Vậy, ở cảnh giới Tam Thiền thì ngay cả ý niệm cũng không tồn tại, cho nên gọi là “tịnh” (trong sạch). Nếu còn ý niệm thì cũng như còn dính bụi bặm vậy, chưa được thanh tịnh, sạch sẽ hoàn toàn. Do đó, các tầng trời thuộc Tam Thiền Thiên có tên là Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh và Biến Tịnh.
Tam Thiền Thiên cũng gọi là Ly Hỷ Diệu Lạc Ðịa, cảnh giới xa rời sự vui sướng. Loài người chúng ta hễ sanh tâm vui vẻ thì cho là điều tốt, song ngay cả “điều tốt” này chúng ta cũng phải lìa bỏ, không nên chấp trước bám víu vào sự vui sướng. Ðược như thế thì sẽ nảy sanh tác dụng vi diệu.
4. Chín cảnh trời thuộc Tứ Thiền Thiên
1. Trời Phước Sanh.
Vì sao gọi là trời Phước Sanh? Bởi chư thiên ở tầng trời này đều là “khổ nhân dĩ tận, lạc phi thường trụ” – họ không còn sự đau khổ, và cũng không còn chấp trước vào dục lạc nữa.
Thế nào gọi là “khổ nhân dĩ tận, lạc phi thường trụ”? Chư thiên ở Sơ Thiền Thiên vẫn còn một thứ khổ não mà ngay cả tại Nhị Thiền Thiên và Tam Thiền Thiên, sự khổ não này cũng vẫn còn tồn tại, chưa hoàn toàn dứt tuyệt. Phải đến Tứ Thiền Thiên, ở tầng trời Phước Sanh này, thì mới đích thực là “khổ nhân dĩ tận” – cái mầm mống gây khổ não đó không còn nữa, mọi chủng tử của khổ não đều bị hủy diệt. Phải chăng hết khổ rồi thì sẽ được vui? Bấy giờ, họ cũng chẳng chấp trước vào cái vui, cho nên nói là “lạc phi thường trụ.”
Thế thì, nguyên nhân của khổ là gì? Nguyên nhân của khổ là “dục” – “dục” đích thị là cái nhân dẫn đến mọi đau khổ. “Dục” là gì? Ðó là “dục niệm,” hay “dục vọng,” tức là lòng ham muốn; tiếng Anh gọi là desire! Chữ “dục” này chính là nguyên nhân, mầm mống của khổ đau; nếu không có “dục” thì không có đau khổ. Không có tâm dâm dục thì không có cái nhân gây tạo bao nhiêu khổ não khác.
*
Thiên nhân ở Tứ Thiền Thiên đều không còn dâm tâm; bởi họ đã dứt trừ được tâm dâm dục nên nói là “chư dục đỗ tuyệt” – mọi dục vọng, ham muốn đều đã dứt tuyệt, không còn nữa. Các tướng trạng thô trọng đều bị hủy diệt, hết thảy các tướng có hình sắc và rất thô đều bị đoạn trừ. Tướng thô trọng diệt rồi, thì họ liền đắc được một thứ phước đức rất thanh tịnh, nên gọi là trời Phước Sanh – nơi nảy sanh thứ phước thanh tịnh. Ðó là tầng trời thứ nhất thuộc Tứ Thiền Thiên.
Nhiều người chỉ biết suông trời là trời; quý vị có biết là có bao nhiêu cõi trời không? Theo kinh điển đạo Phật thì có sáu tầng trời cõi Dục (Lục Dục chư thiên), ba tầng trời Sơ Thiền (Sơ Thiền tam thiên), ba tầng trời Nhị Thiền (Nhị Thiền tam thiên), ba tầng trời Tam Thiền (Tam Thiền tam thiên); còn Tứ Thiền thì sao? Cõi Tứ Thiền thì có đến chín tầng trời, và trời Phước Sanh là tầng trời thứ nhất thuộc Tứ Thiền Thiên. Chính vì có sự nảy sanh và hiện tiền của phước thanh tịnh tại tầng trời này cho nên có tên là “trời Phước Sanh.”
2. Trời Phước Ái.
Ðây là tầng trời thứ hai thuộc Tứ Thiền Thiên. “Phước ái” tức là love, love cái gì? Love cái phước – yêu phước, thích phước. “Phước Ái Thiên” tức là cõi trời yêu chuộng phước đức.
Chư thiên ở tầng trời này thì:
Chư thiên ở tầng trời này thì:
Xả tâm viên dung,
Thắng giải thanh tịnh,
Ðắc diệu tùy thuận,
Khổ lạc song ly.
Dịch là:
Lòng xả viên dung,
Thắng giải thanh tịnh,
Được diệu tùy thuận.
Khổ vui đều xa.
“Xả tâm viên dung.” Lòng thí xả của chư thiên ở tầng trời này đã đạt đến cảnh giới viên dung vô ngại – những gì không thể thí xả đều được thí xả, những gì có thể thí xả cũng đều thí xả; những gì không thể buông bỏ đều được buông bỏ, những gì có thể buông bỏ thì càng phải buông bỏ. Ðó gọi là “xả tâm viên dung” vậy.
“Thắng giải thanh tịnh.” Họ đạt được thứ giải thoát thù thắng rất thanh tịnh. “Thắng,” tiếng Anh gọi là supreme. “Thắng giải thanh tịnh” – phước báo của họ to lớn vô ngần, có thể nói là phước ấy vượt khỏi trời đất, không có gì có thể che lấp được.
*
“Ðắc diệu tùy thuận.” Họ đạt tới cảnh giới “tùy tâm như ý,” muốn thế nào thì được thế ấy. Ðây là một sự tùy thuận vô cùng kỳ diệu, muốn gì được nấy, luôn luôn được toại tâm toại ý.
“Khổ lạc song ly.” Bấy giờ, không có khổ đau cũng chẳng còn vui sướng – họ đã lìa bỏ được cảm giác khổ và sướng. Tuy nhiên, chư thiên ở đây cũng còn một thứ ước muốn khác, một thứ hy vọng khác. Ðó là điều gì? Hy vọng của họ chính là hai tầng trời ở ngay phía trên trời Phước Ái; đó là hai tầng trời nào? Ðó là trời Quảng Quả và trời Vô Tưởng – họ hy vọng đạt được cảnh giới của hai tầng trời này.
Trời Quảng Quả là một trong những tầng trời thuộc Tứ Thiền Thiên, còn trời Vô Tưởng là nơi trú ngụ của ngoại đạo. Từ trời Phước Ái, chư thiên có thể đến trời Quảng Quả, lại cũng có thể đến trời Vô Tưởng; mà đến trời Vô Tưởng tức là tiến vào cảnh giới của ngoại đạo. Cho nên, ở đây cũng giống như gặp phải ngã rẽ vậy – rất dễ đi sai đường. Do đó, tuy là sanh lên cõi trời, song cũng dễ bị đi lạc vào cảnh trời của ngoại đạo.
3. Trời Quảng Quả.
Thế nào gọi là trời Quảng Quả? Trời Quảng Quả là quả vị của phàm phu. Sáu tầng trời cõi Dục (Lục Dục chư thiên) đều được xem là cảnh giới phàm phu – quả vị mà hạng phàm phu có thể đạt được thì không vượt quá trời Quảng Quả, không hơn được cảnh giới của trời Quảng Quả.
Trời Quảng Quả cách biệt hẳn mọi nhiễm ô, phiền lụy của các tầng trời bên dưới. Tại trời Quảng Quả, chư thiên sống trong niềm an lạc vô cùng vô tận và thần thông của họ cũng diệu dụng vô cùng; cho nên, được sanh lên trời Quảng Quả không phải là chuyện dễ. Ở trời Quảng Quả, sự “diệu tùy thuận” còn thâm áo hơn ở trời Phước Ái một bậc – không chỉ “tùy thuận” thôi, mà là “quảng diệu tùy thuận,” một sự tùy thuận rộng lớn, vi diệu! “Tùy thuận” tức là tùy tâm thuận ý, chư thiên ở nơi này chứng đắc được quả vị mà họ đang tu tập, thuận theo điều họ mong mỏi. Ðó là Quảng Quả Thiên.
4. Trời Vô Tưởng.
Thế nào gọi là trời Vô Tưởng? Chư thiên ở trời Vô Tưởng đã đoạn dứt tư tưởng, song đó chưa phải là sự đoạn dứt vĩnh viễn; họ chỉ mới đoạn được trong năm trăm kiếp mà thôi. Thọ mạng của họ là năm trăm kiếp, như vậy suốt trong một đời của họ, tư tưởng không nảy sanh – họ không nghĩ ngợi, không có tư tưởng.
Thế nhưng, trong năm trăm kiếp ấy, có bốn trăm chín mươi chín (499) kiếp là không có tưởng, và có một kiếp có tưởng. Trong một kiếp này, suốt nửa kiếp đầu thì tư tưởng diệt, không hề dấy khởi; đến nửa kiếp sau cuối thì tư tưởng lại sanh khởi. Cho nên, “vô tưởng” ở đây có nghĩa là trọn đời, rất hiếm khi sanh khởi tư tưởng.
Toàn cõi trời này là nơi trú ngụ của ngoại đạo. Tại đây, hàng ngoại đạo tự cho là cảnh trời rốt ráo, và đinh ninh rằng lúc này họ có thể đạt được Niết Bàn. Chính vì thế mà họ ở lại đây để tu hành; song tu hành thì tu hành mà vẫn bị đọa lạc như thường! Vậy, tầng trời này là chỗ ở của ngoại đạo.
5. Trời Vô Phiền.
“Phiền” tức là phiền não. Thiên nhân ở tầng trời này không còn “kiến tư phiền não” nữa, họ đã đoạn dứt được kiến tư phiền não. “Kiến tư phiền não” là gì?
“Kiến” là cái thấy; đối diện cảnh giới liền sanh lòng tham ái, đó gọi là “kiến phiền não” – phiền não của cái thấy. “Tư” là nghĩ ngợi; đối với đạo lý, vì không hiểu rõ mà sanh tâm phân biệt, ấy gọi là “tư phiền não” hay “tư hoặc” – phiền não của ý tưởng.
Chư thiên ở tầng trời Vô Phiền này không còn hai mối phiền não kiến hoặc và tư hoặc nữa, nên cũng không phải chịu đựng mối phiền não phiền nhiệt; mà cũng chẳng có khổ, chẳng có sướng – sướng khổ đều tiêu vong. Tại cảnh giới “khổ lạc song vong” này, họ không có tâm đấu tranh. Bởi không có tâm đấu tranh, nên cũng chẳng có phiền não; hết phiền não thì được thanh lương (mát mẻ).
6. Trời Vô Nhiệt.
“Nhiệt” (nóng) tức là nhiệt não. Tầng trời này rất mát mẻ, thanh thản, không còn cái “nhiệt” của phiền não.
7. Trời Thiện Kiến.
Vì sao gọi là trời Thiện Kiến? Chư thiên ở tầng trời này có tầm nhìn vô cùng rộng lớn, họ có thể nhìn thấy được rất xa.
8. Trời Thiện Hiện.
Ở tầng trời này có một sự biến hóa rất vi diệu – chư thiên ở đây có thể biến hóa ra mọi cảnh giới an lạc.
9. Trời Sắc Cứu Cánh.
Trời Sắc Cứu Cánh là tầng trời cuối cùng trong số các tầng trời thuộc Sắc Giới Thiên.
10.Trời Ma Hê Thủ La.
“Ma Hê Thủ La” là tiếng Phạn; Trung Hoa dịch là “Ðại Tự Tại.” Ðại Tự Tại Thiên Vương có tám tay, ba đầu, cỡi một con trâu lớn màu trắng; và Ngài tự cho là mình rất thong dong, tự tại.
Bên trên cảnh trời Sắc Cứu Cánh là cảnh trời Ma-hê-thủ la, uy quyền cao nhất, là chủ tể cai quản thế giới Ta-bà này, thống nhiếp cả thảy vạn ức chư thiên cảnh trời Tha Hóa, vạn ức chư thiên cảnh trời Hóa Lạc, vạn ức chư thiên cảnh trời Đâu-suất, vạn ức chư thiên cảnh trời Dạ-ma, vạn ức chư thiên cảnh trời Đao-lợi, vạn ức chư thiên cảnh trời Tứ vương, vạn ức các vị Nhật thiên tử, vạn ức các vị Nguyệt thiên tử, nhưng chư thiên trong cõi Dục đều không được nghe biết đến danh hiệu, không được nhìn thấy hình tướng.
Trong mười cảnh trời kể trên, ngoại trừ trời Vô Tưởng là nơi trú ngụ của thiên ma ngoại đạo, tất cả chín tầng trời còn lại – trời Phước Sanh, trời Phước Ái, trời Quảng Quả, trời Vô Phiền, trời Vô Nhiệt, trời Thiện Kiến, trời Thiện Hiện, trời Sắc Cứu Cánh, trời Ma Hê Thủ La – đều thuộc cõi Tứ Thiền Thiên.
Tứ Thiền còn gọi là Xả Niệm Thanh Tịnh Ðịa. Ở cảnh giới Sơ Thiền thì sự hô hấp gián đoạn, tới Nhị Thiền thì mạch tim ngưng đập, đến Tam Thiền thì ý niệm dứt tuyệt; còn ở Tứ Thiền thì sao? Thì “xả niệm,” vất bỏ hết mọi niệm, không còn gì nữa.
Các cõi trời trong Phật giáo: 3. Bốn cõi trời thuộc Vô Sắc giới.
Bên trên cõi Sắc lại có bốn cảnh trời.
- Không Vô Biên Xứ
- Thức Vô Biên Xứ
- Vô Sở Hữu Xứ
- Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Chư thiên ở các cảnh trời này chỉ thọ hưởng kết quả do tu các pháp thiền định vô sắc, không còn nghiệp quả có hình sắc, nên gọi chung là cõi Vô Sắc.
Cảnh trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng là cao nhất trong Ba cõi, chư thiên ở đó có tuổi thọ đến 84.000 đại kiếp, nhưng thảy đều chưa thấu rõ được chân tâm sáng suốt mầu nhiệm, nên một khi phước trời đã hết vẫn phải trở lại lưu chuyển trong luân hồi. Nếu nhìn từ góc độ nhà Phật thì đó vẫn là hàng phàm phu chưa giải thoát ra khỏi thế gian. Đạo gia tuy cũng nói đến Tam giới, nhưng là Thượng giới, Trung giới và Hạ giới, không giống như Tam giới hay Ba cõi trong Kinh Phật.
( Theo Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng giải )
Tuệ Tâm 2021.
Tzjztkt viết
Nam Mô A Di Đà Phật! Tuệ Tâm cho con hỏi có phải là những vì sao con đang nhìn thấy trên trời là có người trời đang ở không ạ.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
bởi các cõi của chư thiên chỉ được nhìn thấy bằng đạo nhãn nên cái bạn nhìn thấy chỉ là cát đá vô tri mà thôi.
Duy viết
Nam mô a di đà phật!
Thưa thầy cho con hỏi. Chuyển kiếp luân hồi, nhân quả của mỗi chúng sanh đều là do duyên mà tự thành hay phải có vị /các vị nào sắp xếp quyết định việc này!?
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Chuyển kiếp luân hồi của chúng sanh là một chủ đề vô cùng sâu rộng và Tuệ Tâm thực không đủ trí huệ để lạm bàn. Đại khái thì chúng ta phải chịu luân hồi do nghiệp lực và nhân duyên của chính mình quyết định. Đây là hai quy luật của tự nhiên, chớ không có ai và không có thế lực nào sắp xếp hay can thiệp được cả. Muốn ra khỏi sanh tử luân hồi chỉ có hai cách:
1. Tu tập các pháp giải thoát vô lậu, đoạn sạch hoặc nghiệp và chứng được quả Thánh. Để làm được điều này vô cùng khó! Trừ bậc Bồ Tát thị hiện để giáo hóa chúng sanh ra thì trong một triệu người tu may lắm được một người. Người ấy phải là bậc thượng thượng căn, giới hạnh cực tinh nghiêm, tu trì miên mật và phải có bậc Thiện Tri Thức chỉ bảo, dẫn dắt, chứng minh mới không lạc vào lưới của Thiên Ma… Đầy đủ các điều kiện này rồi còn phải mất mấy chục năm tu trì may ra mới chạm đến được cửa giải thoát. Giác ngộ giải thoát khó như thế, chớ không phải đơn giản như hàng ma giáo rêu rao những giác ngộ với công thức thành Phật…đâu nhé!
2. Phát đại nguyện lực, nương triệt để vào Phật lực mà vãng sanh về cõi Phật. Như người niệm Phật cầu vãng sanh sanh Cực Lạc chẳng hạn, dù không đoạn được hết nghiệp nhưng nương nơi bản nguyện của đức Phật A Di Đà mà ra khỏi sanh tử. Sức nguyện lực vô cùng mạnh mẽ, có thể vượt thoát được sự che chướng của nghiệp lực. Tại sao nói như thế, bởi Kinh Hoa Nghiêm, đức Phổ Hiền Bồ Tát dạy: “Người này khi sắp mạng chung, trong khoảng sát na rốt sau, tất cả các căn thảy đều tan hoại, tất cả quyến thuộc thảy đều lìa bỏ, tất cả oai thế thảy đều lui mất. Duy có nguyện vương này chẳng rời bỏ nhau, trong tất cả thời, nó đều dẫn dắt ở trước. Và trong khoảng một sát na, kẻ ấy liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc”.
Người tu tịnh độ nói chuyện phát nguyện vãng sanh cứ tưởng chuyện thường mà chẳng biết rằng: “Phát nguyện vãng sanh Cực Lạc là đại nguyện lực!” Vì sao là Đại Nguyện Lực? Bởi Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc thực ra chính là nguyện thành Phật. Điều này trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, đức Thế Tôn đã khẳng định: “Vãng sanh về Cực lạc là Thành Phật” vậy…
Nam mô A Di Đà Phật!
Long viết
Dạ con chào thầy ạ.
Con năm nay đang 18 tuổi và có điều không hiểu, mong thầy giái đáp hộ con ạ: Theo tư duy thiển cận của con thì việc không sa vào các sắc dục và học tập, cống hiện cho xã hội đến khi qua đời là cách mà con người có thể tiến vào cõi Trời.
Tuy nhiên khi đọc song bài viết này, con nhận thấy rằng bản thân phải tu luyện Phật pháp mới có thể tiến vào cõi Trời, phải vậy không ạ ? Nếu không con xin phép Thầy chỉ dạy lại con ạ.
Con cảm ơn và xin chúc thầy sức khỏe ạ
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Bạn còn trẻ tuổi mà đã phát tâm học Phật, thật vô cùng đáng quý! Sanh lên cõi trời, hưởng phước làm Chư Thiên thì không riêng gì Phật pháp, hàng Ngoại đạo nếu suốt đời giữ giới vẫn có thể sanh Thiên được. Chỉ là: Ngoại đạo tu hành vô cùng khổ nhọc mà chỉ được phước hữu lậu, muốn sanh thiên là việc vô cùng hy hữu, trong 1 triệu người may lắm được 1-2 người.
Quan trọng hơn là thế này: Dù ta có được sanh lên cõi trời đi chăng nữa, khi hết phước làm trời cũng sẽ bị đọa lạc, trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi: Trời, Người, A Tu La, Địa ngục, Ngạ quỷ, súc sanh. Cho nên mục đích chính của người học Phật là để thoát khỏi sanh tử, không còn bị nghiệp lực chi phối mà trôi lăn trong sáu nẻo.
Cho nên Tuệ Tâm khuyên bạn: Nên niệm Phật hằng ngày để cuộc sống được an vui, thành đạt, sau này khi bỏ thân giả tạm vãng sanh về Tây Phương Tịnh Độ, vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử luân hồi. Bạn xem thêm các bài này để nắm rõ hơn về cách thực hành nhé: Cách niệm Phật tại nhà và Niệm Phật Tông Yếu – Pháp Nhiên Thượng Nhân.. Ngoài ra lúc rảnh rỗi nên tìm đọc bộ sách “Nhân quả báo ứng hiện đời” của Ni Sư Hạnh Doan dịch, bộ “An Sĩ Toàn Thư” để giữ vững tín tâm.
Nam mô A Di Đà Phật.
Long viết
Nam mô A Dì Đà Phật!
Con cảm ơn thầy ạ. Thưa thầy con vẫn còn thắc mắc mong thầy giải đáp ạ: Con hiện tại đang muốn sau này sẽ không sinh con đẻ cái, mà dùng thời gian của mình để để niệm phật và phụng dưỡng cha mẹ. Thầy cho con hỏi việc không sinh con có trái với lời dạy của Phật không ạ. Và điều thiện mà con làm, do không có con cháu, nên bố mẹ có thể hưởng thay không ạ.
Con cảm ơn thầy ạ
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Thế gian thấy người xuất gia cắt ái từ thân, thường lầm tưởng rằng chữ hiếu không tròn. Thực ra chữ Hiếu trong Phật pháp sâu mầu và rốt ráo vô cùng, không cợn cạt như hiếu của thế gian, cho nên việc ấy không trái lời Phật dạy! Bạn xem bài này để nắm rõ hơn nhé: Chữ Hiếu trong Phật pháp và Lời Phật dạy về Hiếu đạo.. Bạn sống thiện lương, làm việc thiện lành, lại niệm Phật thì nghiệp tiêu trí rạng, phước đức tăng trưởng. Do cha mẹ và con cái có sợi dây vô hình liên kết rất mạnh, cho nên bố mẹ cũng được hưởng. Ngược lại, nếu cha mẹ hành thiện tích đức, con cháu cũng được bồi thêm phước vậy! Bạn đọc hai bài trên sẽ nắm rõ hơn nhé. Nam mô A Di Đà Phật.
Cung Kính viết
Nam mô A Di Đà Phật
Nhờ Phật lực nhiếp thọ, cha mẹ con đã biết niệm Phật, dù con không biết song thân có niệm nhiều hay không nhưng chắc chắn là họ có niệm. Con thấy ngạc nhiên đến sững người, vì đột nhiên có những hôm cha mẹ con khuyên ngược lại con rằng con phải nên niệm Phật đi, trong khi con vẫn cứ đinh ninh là con sẽ phải lựa dịp khuyên hai người thật nhiều nữa thì họ mới chịu tin Phật. Hơn nữa bố con mới vài năm trước thôi còn từng nói rằng ông chỉ theo chủ nghĩa vật chất. Thật là lạ!
Đến đây thì con mới thấm rằng cha mẹ với con cái có sợi dây liên kết rất mạnh, con cái niệm Phật thì tự nhiên tâm niệm của cha mẹ cũng được chuyển. Cũng cho thấy tâm từ bi vô bờ bến của Phật, không bỏ một ai.
(Có lẽ không phải chỉ một mình con niệm Phật, mà cả em con cũng thường niệm Phật nữa nên tâm ý cha mẹ con mới nhanh chuyển như thế)
Cha mẹ con thì không giữ giới, nhưng chỉ cần họ niệm Phật thì con tin rằng, như lời thầy dạy, Phật sẽ có phương tiện dẫn dắt họ mà thôi.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Nếu chúng ta chân thật niệm Phật cầu vãng sanh thì không chỉ anh em, cha mẹ, mà ngay cả dòng tộc, tổ tiên cũng nhờ đó mà được tăng trưởng phước lành, nhờ đó mà được cứu độ. Nay cha mẹ chịu niệm Phật là bậc nhất rồi, mừng cho bạn!
Chỉ cần chúng sanh chịu niệm Phật, trong âm thầm sẽ được chư Phật dùng phương tiện hóa độ, sớm hay muộn rồi cũng sẽ được giải thoát cả.
Cung Kính viết
Con xin bổ sung thêm bình luận trước một chút ạ. Nếu thầy xem lại tâm sự của con viết hơn một năm về trước trong bài “Làm cha mẹ phải biết bồi phước cho con”, sẽ thấy con lúc đó thật sự rất phiền khổ về việc cha mẹ tạo ác. Nay được Phật gia hộ cho cha mẹ biết niệm Phật, dù họ niệm ít hay nhiều cũng tốt, là niềm an ủi to lớn đối với con, phiền muộn cũng bớt đi nhiều vậy. Con bất hiếu, chẳng giúp được gì cho cha mẹ lại còn thường làm cha mẹ phiền lòng, chỉ có thể ngưỡng mong nhờ sức Phật, cầu Phật độ cho cha mẹ con ra khỏi sanh tử vậy.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Tu tập mà khuyên nhủ hoặc cảm được cha mẹ niệm Phật theo, chư Tổ gọi là ĐẠI HIẾU, không có hiếu nào trên thế gian sánh được. Bạn nên tinh tấn niệm Phật để báo ân vô bờ bến của Tam Bảo!
Cung Kính viết
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nguyễn Thiện Phúc viết
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT – NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT: Mình đọc bài viết này đếm tới đếm lui cũng đã mấy lần(cõi Dục 6, cõi Sắc: sơ thiền có 3, nhị thiền có 3, tam thiền có 3, tứ thiền có 10 ra 19, cõi Vô sắc có 4 cộng lại(6+3+3+3+10+4) thấy có 29 cõi Trời mà sao nói có 28 là sao? Thấy các trang khác thì có trang thì thiếu cõi Ma hê thủ la? Mình thấy thắc mắc kính mong ai đó có thể giải đáp?
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Trong tứ Thiền thì hai cõi Quảng Quả Thiên và Vô Tưởng Thiên thực ra là một. Nhưng do Vô Tưởng Thiên là nơi ngoại đạo cư trú, nên trong các luận chư Tổ phân ra làm hai cho dễ phân biệt chánh tà và phàm Thánh mà thôi.
Theo Bà Sa Luận thì: “Trời Vô tưởng, chỉ có kẻ ngoại đạo tu tập định vô tưởng, nên sinh vào đấy, hưởng thọ phước báo năm trăm kiếp vô tâm. Kẻ ngoại đạo ấy không thấu đạt, cho đây là Niết bàn. Đến khi phước báo đã hết, tất nhiên nảy sinh tà kiến, lại sinh vào địa ngục. Vì lý do này, tất cả Thánh nhân đều không sinh vào đấy.”
Minh Thư viết
Nam mô A Di Đà Phật
Con xin được hỏi nếu mình phát nguyện vãng Sanh về Tây Phương Cực Lạc. Nhưng lúc sanh tử mình vẫn chưa đủ Công đức đủ Tín, Nguyện, Hạnh để Ngài rước mình thì Chư Thiên Chư Tiên sẽ rước mình về Cõi của các Ngài phải không ạ. Con xin cảm ơn Thầy giải đáp thắc mắc của con
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Niệm Phật cầu vãng sanh trọng yếu nơi Tín và Nguyện. Chỉ cần nguyện thiết, tin sâu trì danh hiệu Phật là chắc chắn được vãng sanh. Bạn suy nghĩ như thế là “Tin” chưa sâu, đây là một trong những chướng ngại lớn nhất khiến người ta niệm Phật mà không vãng sanh được. Phải tin chắc rằng: Mình niệm Phật, do thuận theo bản nguyện tiếp dẫn của đức Phật A Di Đà nên nhất định được vãng sanh. Bởi Ngài không bao giờ nguyện dối, người 10 niệm còn được vãng sanh, huống chi ta niệm Phật cả đời! Bạn nên tham khảo thêm bài Cách niệm Phật tại nhà và Niệm Phật Tông Yếu – Pháp Nhiên Thượng Nhân để nắm được yếu chỉ hành trì.
Khi sanh tử đến, nếu chẳng vãng sanh thì tùy theo sức của nghiệp lực mà trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi. Nếu cận tử nghiệp là thiện nghiệp sẽ hóa sanh làm chư Thiên nơi các cõi trời, hoặc tái sanh nơi cõi người, nếu là ác nghiệp ắt đọa lạc nơi A Tu La, súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục.
Mong bạn vững tin mà niệm Phật để cùng về Cực Lạc. Cõi ta bà khổ hải vô biên, càng về sau chúng sanh càng xấu ác, cơ hội gặp được Phật pháp càng hiếm hoi, thật vô cùng đáng kinh sợ vậy!