Khen chê là một trong những nguyên nhân căn bản gây nên phiền não của đời người. Nó là nguyên nhân gây nên vô lượng vô biên khẩu nghiệp. Nó được ví như bình rượu độc thiêu đốt tâm can và cuộc sống của ta. Nó phá hủy cuộc đời ta một các âm thầm và tinh vi đến mức: Ta không hề nhận ra ta đã khổ vì nó như thế nào!
Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới nói: “Nếu Phật tử nào, tự miệng rao nói tội lỗi của Bồ Tát xuất gia, Bồ Tát tại gia, Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni; hoặc bảo người rao nói tội lỗi; hoặc từ nhân, từ duyên, từ cách thức, cho đến từ nghiệp, rao nói những tội lỗi trong Phật pháp; Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội.”
Lại nói: “Nếu Phật tử tự phô dương tài đức của mình mà dìm chê điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê; Phật tử này phạm Bồ Tát Ba La Di tội.” Lại nói: “Chúng sanh mỗi ngày ba nghiệp tạo vô lượng tội, nhứt là khẩu nghiệp.” Đức Thế Tôn từ bi chỉ đường tội phước rõ ràng; mà hàng Phật tử chúng ta bởi quá si mê, nên có nhiều người đã lãng quên; vì lòng tật đố thị phi, gây biết bao khẩu nghiệp!
- Tu Tâm là gì
- Thập thiện nghiệp đạo là gì.
- Bố thí là gì.
- Trì giới là gì.
- Nhẫn nhục là gì.
- Hội Long Hoa là gì.
- Sự thật về hạn Tam tai.

*
Thầy Thiện Huệ có bài giảng rất hay về Khen chê trong cuốn “Kinh Bách Dụ”, nay xin trích chép vào đây cho bạn đọc hữu duyên. Nguyện người học Phật chân chính đều đoạn tuyệt với thị phi, khen chê; để sớm được an ổn trên đường đời cũng như đường đạo.
” Đức Phật có kể cầu chuyện về một “Người không dễ Sân”. Ta hãy cùng đọc để ngẫm về khen chê:
“Đám đông ngồi nói chuyện trong nhà. Có người khen một người nọ rất tốt, chỉ có điều là dễ nổi nóng và làm việc thiếu suy xét. Nào dè người này tình cờ ngang qua cửa nhà nghe thấy, bèn nổi giận xông vào nhà túm lấy người phê bình mình đánh.
Mọi người can ngăn: Lí do gì đánh người?
Gã này nói: Tôi có hay nổi nóng và làm việc hồ đồ bao giờ, mà nó nói tôi hay sân và hồ đồ, nên phải đánh nó.
Mọi người bèn nói, dễ nổi nóng và hồ đồ của anh đang biểu lộ, người kia nói nào có sai trái. Người phê bình cái dở của mình mà nổi sân si, thực đáng chê cười.
Như có người say sưa rượu chè, phóng dật không tiết chế. Bị người chê trách, lại sinh oán giận, tìm lí lẽ bào chữa. Như thế thì tựa người ngu này, kị người chê trách, tìm cớ đánh người.”
Khen Chê với Thị Phi
Câu chuyện trên đây ẩn dụ cho ta nhiều bài học quý báu. Bởi lẽ thường việc bàn chuyện của người là việc ưa thích của chúng sanh. Đúng hay sai, khen hay chê chưa vội bàn tới; cứ nói cho sướng cái miệng mình đã rồi hẵng hay. Cổ đức nói:
Tĩnh tọa thường tư kỷ quá.
Nhàn đàm mạc luận nhân phi.
Có nghĩa ngồi yên tĩnh thường suy xét lỗi mình, trò chuyện đừng nhắc lỗi người. Phần đông đề tài câu chuyện của mọi người đều quay quanh chuyện thị phi của người. Bàn việc xấu tốt của người có hai loại:
Một là bàn để giải trí giết thì giờ, để khen chê theo ý, vọng sinh tắng ái. Việc này không đưa đến sự giáo dục cho mình và cho người. Chuyện thị phi này người học đạo tuyệt nhiên không nên phạm.
Thứ hai là luận thị phi của người để tự giáo dục mình hay giáo dục người khác, lấy đó làm gương mà sửa đổi hoặc noi theo. Như Khổng tử nói:
Trạch kì thiện nhi tùng chi
Trạch kì ác nhi cải chi
Có nghĩa lấy cái thiện của người để làm theo, coi cái ác của người mà sửa mình. Như vậy thì mọi thị phi là thầy mình, là sự giáo dục cho mọi người. Nếu thị phi chỉ đưa đến sự dè bỉu khinh chê người khác, hay moi móc lỗi người để ngầm khoe đức mình; thì đó là thị phi vô giáo dục, không phải chuyện của người trí đức.
Lạ lùng tiếng Khen chê
Danh có vô lượng danh, gọi nôm na là tiếng. Như tiếng giầu, tiếng đẹp, tiếng tốt, tiếng hào hoa, đủ mọi thứ tiếng… Thế nhân đều ham danh; nhưng trong vô lượng danh đó, con người ưa chuộng nhất là tiếng tốt.
Mặc tử nói, khen một người không đúng sự thật có thể làm họ phản cảm. Như khen một người nghèo cùng là giầu, hay một người ngu là thông minh, hoặc một người xấu xí là đẹp… Họ sẽ không vui và không tiếp nhận lời đó vì họ nghĩ là đang bị mỉa mai. Thế nhưng bất cứ ai khi được khen là người tốt, đều vui vẻ tiếp nhận lời khen. Cho dù là gã bất lương hay đạo tặc cũng rất thích được khen là người tốt.
Như vậy bất chất sự thật đến thế nào đi nữa, mọi người đều sung sướng đón nhận lời khen họ là người tốt. Vì vậy khi bị phê bình là người không tốt, tất nhiên họ sẽ không vui đến mức giận dữ, sinh hồ đồ. Và điều này chứng tỏ quả nhiên họ tốt không đúng thật, nói cách khác là không thật sự tốt.
*
Vậy thế nào là người tốt đúng thật? Đúng thật có nghĩa phù hợp với sự thật. Sự thật của tốt không có nghĩa một người tốt với mình là thật tốt, như quan niệm phổ thông của thế gian. Vì nếu một người tốt với mình, dụ như họ giúp mình làm hại người, hay bao che tội ác của mình…Như vậy đối với mình thì tốt, nhưng với tha nhân thì lại bất lương vô cùng, do đó không thể gọi là tốt đúng thật được.
Thế gian chỉ thất cái tốt ngụy mà không thấy được cái tốt chân thật, nên loạn thuyết tha nhân thị phi. Kì thật thì chẳng hiểu cái thật của thị phi là gì, chỉ thấy cái giả tốt, tức cái tốt không đúng với thật. Nên mọi đàm luận về thị phi đều trở thành một sự thị phi vô giáo dục; không đem đến một sự cải thiện hay hiểu biết thực cho mình và người. Nói chung người tốt đúng thật là người đối xử mọi người bình đẳng, giữ gìn thiện pháp không để mất vì ngũ dục.
Thái độ khi nghe thiên hạ khen chê về mình
Thói thường thiên hạ rất hoan hỷ khi nghe người ca tụng, cho dù không trúng sự thật; và rất bất mãn hoặc phẫn nộ khi nghe người chỉ trích chê bai, bất luận trúng hay sai. Vì tâm lí chỉ thích được khen, nên càng kị sự chê. Tâm lí này đưa đến thái độ chỉ để tâm ý đến khen chê, mà chẳng màng đến sự thật của sự khen chê này. Vì thế nên rất dễ dao động trước lời khen chê, Phật pháp gọi là bát phong.
Đức Phật dạy hàng đệ tử: “Khi nghe một lời chê chớ nên vội buồn, mà hãy suy xét xem lời chê có đúng thật không. Nếu đúng thì nên sửa hơn là nên buồn. Còn nếu sai thì người bị chê đó thực chẳng phải là mình, nên chẳng có gì để buồn.” Vì trí giả chỉ để tâm đến sự thật, chỉ buồn nếu mình thực sai. Còn phàm phu chỉ để tâm đến lời khen chê, nên chỉ buồn nếu bị chê, và vui khi được khen dù sự thật rất tệ.
Ngài lại dạy: “Khi nghe một lời khen chớ nên vội vui, mà hãy suy xét lời khen này có đúng thật không. Nếu đúng thì chẳng có gì để vui, nếu không đúng thì lại càng không thể vui.” Phàm phu được khen sai cũng vui, vì không cần sự thật, chỉ cần lời khen và nếu khen đúng cũng rất vui; nhưng nếu đúng thì tự mình vui lâu nay, cần gì đợi đến khi có lời khen mới thấy vui.
*
Tóm lại câu chuyện này cho ta thấy rằng, thiên hạ đa số đều hồ đồ như gã đánh người. Vì khi chỉ coi trọng lời khen chê mà coi thường sự thật thì rất dễ vui giận với lời khen chê. Vui giận thì dễ nổi nóng vì lời chê và đã nổi nóng thì hành động lỗ mãng. Thậm chí người tu hành cũng không thoát tâm ý này, nếu không thường quán sát thật tướng của mọi pháp. Nhất là hàng tu hành chỉ trọng hình thức bề ngoài để được lợi dưỡng mà không hay cứu xét tâm tính.
Mặt khác của câu chuyện, đó là nhiều khi đính chính lại là xác nhận; và đôi khi chấp nhận lại là lời đính chính hay nhất. Như gã sân này: Đánh người để đính chính rằng tôi là người không dễ sân, mà nó dám nói là tôi dễ sân. Vậy nên tôi đập một trận cho chừa tính vu khống. Nhưng chính hành động đính chính này lại là lời xác nhận hùng hồn cho thấy gã này quả dễ sân si và hành động nông nổi.
Ví dụ như gã vào xin lỗi và cám ơn người đã chỉ trích đúng về gã, thì ai nấy lại thấy gã đâu có sân chút nào, và người kia nói không đúng sự thật. Cho nên người biết nhận lỗi tức là người biết điều, người không nhận lỗi tức người không biết điều. Lỗi là ở sự không biết điều, biết điều chưa bao giờ là lỗi.
*
Thế nên Thế tôn khen người biết nhận lỗi là bậc trí (kinh Niết bàn). Thế nhưng sân có sân hận của phàm phu và huệ sân của Bồ tát: Đó là sự dùng nghịch cảnh để đưa chúng sinh đến chỗ hồi đầu, tùy theo tâm tính chúng sinh: Có những chúng sinh cần dùng nghịch cảnh để độ (hàng này chiếm đa số) thì dùng ác đạo; có những chúng sinh cần dùng thuận cảnh để độ, thì dùng tịnh độ.
Thế nên Như lai vừa xuất hiện ở Ta bà thuyết pháp cho ngũ trược ác thế chúng sinh; Đồng thời Ngài cũng hiện thân thuyết pháp cho bồ tát ở Bảo trang nghiêm tịnh độ. Trợ duyên cho chúng sinh nơi ngũ trược là sân pháp; khiến chúng sinh giác ngộ được bản chất khổ và bất như ý của thế gian, hầu sinh tâm yếm ly ta bà, mà hân cầu tịnh độ. Nếu nơi ngũ trược mà cho như ý ắt khiến chúng sinh phát khởi tham tâm bám víu thế gian hơn nữa.
*
Như Hòa thượng đánh nai để cứu, tức dùng sân pháp độ súc sinh. Bồ tát thường dùng gậy khổ, vô thường, phiền não đánh cho chúng sinh chạy qua bờ kia. Như phương pháp cứu hỏa của Huyền sa Sư bị. Như lai khi độ hóa ngũ tỳ kheo đã tam chuyển pháp luân.
Lần đầu khai thị chân tướng tứ đế gọi là tướng chuyển. Đây là khổ có tính bức bách, đây là tập có tính chiêu cảm, đây là diệt có tính khả chứng, đây là đạo có tính khả tu. Phật dậy năm tỳ kheo chân tướng tứ đế để khuyên y pháp tu hành.
Lần nhì khuyến tu chuyển. Đây là khổ nên biết, đây là tập nên đoạn, đây là diệt nên chứng, đây là đạo nên tu.
Lần thứ ba tác chứng chuyển. Dùng Phật tự chứng minh. Đây là khổ ta đã biết, đây là tập ta đã đoạn, đây là diệt ta đã chứng, đây là đạo ta đã tu.
Đối với Phật pháp điều căn bản để phát tâm tu hành là chân nhận thức nhân sinh thị khổ. Nếu chúng sinh không nhận ra điều này tất tâm tu hành sẽ bị tâm ái nhiễm thế gian tiêu diệt. Vì vậy khổ là trợ duyên tu hành của người học Phật bao quát cả đại lẫn tiểu thừa…” (Thầy Thiện Huệ giảng)
Cách đoạn tuyệt với Khen chê, Thị Phi
Trong Niệm Phật Thập Yếu, Tổ Thiền Tâm có dạy cách để chúng ta đoạn tuyệt với khen chê, thị phi. Ngày dạy: “Hàng phàm phu vì chưa chứng vào chân tâm bình đẳng, còn ranh giới phân biệt giữa ta và người. Cho nên trong đời sống, sự hơn thua phải quấy khen chê có đến muôn ngàn, không ai tránh khỏi. Dù cho chư Phật Bồ Tát vì lòng đại bi thị hiện giữa cõi trần để độ sanh, cũng phải chịu cảnh thị phi thương ghét. Cổ ngôn có câu:
Thùy nhơn bối hậu vô nhơn thuyết.
Na cá nhơn tiền bất thuyết nhơn!
Lời này ý nói: “Không có ai chẳng bị kẻ khác chỉ trích chê bai sau lưng, nhưng ở trước mặt người ta không nói ra mà thôi.” Đây là câu thành ngữ xác thật, do sự kinh nghiệm của người xưa. Những sự thị phi làm cho hành giả, nếu không sáng suốt bình tĩnh, nhiều khi phải xao động sanh phiền não, rất chướng ngại cho đường tu. Cho nên ở đây nêu ra vấn đề này để tìm cách phá giải. Muốn dứt trừ thị phi, phải y theo ba sự kiện:
Điều thứ nhứt:
Phải xét sửa lỗi mình, đừng nhìn nói lỗi người. Ví như con trâu đen thấy cò trắng đứng trên mình thì để yên; khi con quạ bay đến đậu lại lấy sừng quơ đuổi; nó không ngờ mình còn đen nhiều hơn con quạ. Phàm phu cũng thế, thích lời khen, ghét tiếng xấu; ưa bươi móc điều dở của người, không dè mình cũng nhiều lỗi lầm, chẳng có chi là tốt đẹp! Cho nên nguyên tắc của người tu là phải tự phản tỉnh xét sửa lấy mình, đừng nên nhìn nói điều dở của người. Xét sửa lỗi mình thì càng ngày càng sáng, nhìn nói lỗi người tất càng gây thêm việc trái oan.
Điều thứ hai:
Khi bị sự thị phi khinh báng, nên an nhẫn, đừng tìm cách biện minh. Ví như tờ giấy trắng bị vết mực làm lem, cứ để yên, nó chỉ dơ một chỗ đó rồi lần lần phai nhạt; nếu lấy đồ lau chùi, tất sẽ hoen ố cả toàn diện. Luận Niệm Phật Bảo Vương Tam Muội nói: “Bị oan ức chớ cầu biện minh, nếu biện minh tất oán hận càng sanh.” Bởi người đã cố tâm nói xấu, ta biện minh tức là cho kẻ đó nói sai, dĩ nhiên sẽ sanh sự oán thù tranh cãi, mà vô tình lại làm cho quần chúng hay biết, và để ý nghi ngờ mình.
Thông thường, người mới tu hay thấy mình phải kẻ khác quấy. Người tu hơi lâu, thấy mình và kẻ khác đều có phải có quấy. Người tu càng lâu, duy chỉ thấy mình quấy. Tại sao thế? – Bởi khi việc khinh báng xảy ra, nếu hiện tại mình không sai quấy tất kiếp trước cũng lỗi lầm, nên đời nay phải chịu quả. Giả sử kiếp trước ta không có biệt nghiệp trực tiếp gây nên lỗi, thì cũng do cộng nghiệp tội ác, mới đồng sanh trong cõi ngũ trược này.
Đã mang lấy nghiệp vào thân.
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.”
Lời của cụ Nguyễn Du nói, cũng thầm hợp với lý đạo.
Điều thứ ba:
Người tu phải giữ vững lập trường, tin chắc lý nhân quả, đừng xao động vì tiếng hay dở bên ngoài. Kinh Pháp Cú nói:
Ngọn núi cao đứng vững giữa cơn giông tố.
Người chân chánh an nhiên giữa tiếng thị phi.”
Tất cả tiếng khen chê bên ngoài không làm cho ta tốt hoặc xấu, siêu hay đọa, mà tốt xấu siêu đọa đều do nơi ta. Nếu ta gây nhân lành dù người có khinh là xấu xa tội ác, ta vẫn được siêu thăng. Trái lại, ta gây nhân ác, tuy người quý trọng ngợi khen, ta vẫn phải chịu đọa lạc. Do hiểu lẽ này, một thiền sư Việt Nam đã viết ra những lời thi ý tứ rất thanh tân siêu thoát:
Thị phi ngôn trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn!
Hoa lạc, vũ tinh, sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn.
Tạm dịch:
Thị phi tiếng rụng theo hoa sớm
Danh lợi lòng băng với bão đêm!
Mưa tạnh, hoa rơi, non vắng vẻ
Chim kêu xuân lại quá bên thềm.
Đừng quan tâm đến danh lợi thị phi, hãy để cho nó rơi theo hoa sớm, lạnh với mưa đêm, rồi tan biến lần lần. Kìa một tiếng chim kêu, một mùa xuân đã qua, sao ta không lo tu tập?” ( Niệm Phật Thập Yếu)
Tuệ Tâm 2021.
Lê viết
Nam mô A Di Đà Phật.Cảm ơn thầy đã chia sẻ bài viết này.Bài viết rất hay và hữu ích
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Hung Nguyen viết
“Đừng quan tâm đến danh lợi thị phi, hãy để cho nó rơi theo hoa sớm, lạnh với mưa đêm, rồi tan biến lần lần. Kìa một tiếng chim kêu, một mùa xuân đã qua, sao ta không lo tu tập?”
Nam mô A Di Đà Phật!