Niệm Phật có nên cầu phước báo hay không? Tổ Ấn Quang dạy: Người đời vừa gặp chút tai ương, nếu không oán trời thì cũng trách người, trọn chẳng có ý tưởng trả nợ, sanh lòng hối tội. Phải biết: “Trồng dưa được dưa, trông đậu được đậu”. Trồng cỏ dại chẳng thể được hạt thóc ngon, trồng gai góc mong chi thóc nếp.
Chuyện trong thiên hạ đều có nhân duyên, chuyện được thành hay chăng đều do nhân duyên gây ra. Tuy có người làm cho chuyện ấy thành hay bại, nhưng quyền lực thực tế là do cái nhân trước của chính ta, chứ không do cái duyên hiện tại. Hiểu điều này sẽ vui theo mạng trời, chẳng oán, chẳng hận, thuận theo địa vị mà hành, không trong hoàn cảnh nào chẳng tự tại vậy.
Trong Khổ đế của đức Thế Tôn thuyết minh, nỗi khổ của kiếp người gói trọn trong tám điều cương lãnh: Sanh, Lão, Bệnh, Tử, Ái biệt ly khổ. Oán tắng hội khổ. Cầu bất đắc khổ, Ngũ ấm xí thạnh khổ. Tám khổ này dù sang hay hèn, ai ai cũng có. Bảy nỗi khổ đầu là do quả đời trước cảm thành. Còn cái thứ tám chính là nhân của cái khổ đời vị lai.
Đã biết cuộc sống hiện tại sang hay hèn, giầu hay nghèo, đều do nhân đã gieo từ kiếp trước thì dẫu cảnh nghịch ta cũng gắng an nhẫn mà đền trả. “Nhẫn được khổ thì khổ mới hết”, thế nhân chẳng biết điều này, nên đã rớt xuống sông lại tự buộc thêm đá vào người.
*
- Những cảnh giới trên bước đường học Phật.
- Cách niệm Phật tại nhà.
- Cách tụng kinh tại nhà.
- Âm đức là gì.
- Cách thay đổi vận mệnh.
- 10 chuyện Tâm linh có thật.
- 10 chuyện nhân quả báo ứng có thật.
- Niệm Phật có nên cầu phước báo hay không
Niệm Phật có nên Cầu phước báo thế gian không
Người niệm Phật không nên cầu phước báo. Tại sao thế? Bởi Tổ Ấn Quang dạy:” Người thật sự niệm Phật chẳng cầu phước báo thế gian, mà tự được phước báo thế gian”.
Vậy nên, cuộc sống dù có gian lao, cơ cực đến thế nào, quý đồng tu xin chớ quên niệm Phật. Nhờ huân tập công đức vô lậu này khổ mới nhanh hết! Chư Phật lấy khổ làm thầy nên thành chánh giác. Chúng ta lấy khổ làm vui nên vô thỉ kiếp đến này vẫn trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi.
Lại nữa, người niệm Phật đối với mỗi sự phải giữ lòng trung hậu, khoan thứ, tâm luôn đề phòng lỗi hại. Biết lỗi liền sửa, thấy điều nghĩa ắt làm, mới hợp với Phật. Người như thế quyết định vãng sanh. Nếu không như thế là trái nghịch Phật, quyết khó cảm thông. Lại phàm lễ bái đọc tụng kinh và làm hết thảy những chuyện có ích cho đời cho người…Tất cả đều nên đem chuyện đó hồi hướng Tây Phương.
Chẳng nên chỉ đem việc niệm Phật hồi hướng Tây Phương, còn những công đức khác hồi hướng cho phước báo thế gian. Làm vậy, niệm chẳng quy nhất sẽ khó vãng sanh. Phải biết người thật sự niệm Phật chẳng cầu phước báo thế gian, mà tự được phước báo thế gian. (Như trường thọ, không bệnh, gia đình yên vui, con cháu phát đạt. Các duyên như ý, vạn sự cát tường v.v…)
Nếu niệm Phật cầu phước báo thế gian, chẳng chịu hồi hướng vãng sanh. Phước báo thế gian đạt được lại thành hèn kém. Do tâm không chuyên nhất, vãng sanh lại càng khó quyết định!
Niệm Phật có nên cầu phước: Chướng ngại tu hành
Trong Niệm Phật Thập Yếu, Ngài Thiền Tâm bảo: “Trên đường đạo, nhiều khi hành giả bị nghịch cảnh làm cho trở ngại. Có người bị cha mẹ anh em, hay vợ chồng con cái ngăn trở, hoặc phá hoại không cho tu. Có vị thân mang cố tật đau yếu mãi không lành. Có kẻ bị oan gia luôn theo đuổi tìm cách mưu hại. Có người bị vu oan giá họa, khiến cho ngồi tù chịu tra khảo hoặc lưu đày. Có vị bị sự tranh đua ganh ghét, hoặc bêu rao nhiều tiếng xấu xa, làm cho khó an khó nhẫn.
Điều sau này lại thường xảy ra nhiều nhứt. Những cảnh ngộ như thế đều do sức nghiệp. Lời xưa từng nói: “Hữu bất ngu chi dự, hữu cầu toàn chi hủy.” Câu trên hàm ý nghĩa: Có những tiếng khen, những vinh dự bất ngờ, không đáng khen mà được khen; và có những sự kiện thật ra không đáng khinh chê, lại diễn thành cảnh khinh hủy chê bai trọn vẹn. Để chứng minh điểm này, bút giả xin thuật một vài việc nhỏ:
Trước đây vào thời Pháp thuộc, có một vị hòa thượng được triều đình Huế ban cho bằng Tăng Cang; và phong tặng hiệu chùa là Sắc Tứ. Do đó đi đâu hòa thượng đều có xe ngựa và bê son tích trượng theo hầu; thậm chí lúc lên xuống đò cũng có người võng. Một tên du đãng thấy thế bất mãn chưởi thề. Y tuyên ngôn để đến ngày rằm tháng bảy sẽ lên chùa mắng hòa thượng một trận trước mặt các tín đồ.
*
Đến ngày ấy, tên du đảng sau khi uống rượu xong, ở trần vắt áo lên chùa; gặp dịp một người Phật tử đem con quy nhờ hòa thượng chú nguyện thả nơi ao sen. Thấy quang cảnh ấy, y bỗng cảm động, trở về kêu đồng bọn lên chùa quy y; rồi từ đó đi đâu cũng khen hòa thượng là bậc hiền lành đạo đức. Cho đến việc hầu hạ võng giá, y cũng nói là do thầy mình có phước.
Lại câu chuyện xảy ra cách đây không lâu: Có hai Phật tử ở xa đến viếng thăm một vị thượng tọa đồng hương đã từng quen thân từ trước. Khi đến chùa thì vị thượng tọa vừa đi khỏi cách đó độ mười lăm phút. Hai người gạn hỏi, ông thị giả nói thầy vừa đi khỏi; hỏi mấy vị khác, họ không biết bảo là mới thấy thầy ở đây. Chỉ một chút đó mà hai Phật tử ấy sanh lòng nghi ngờ vị thượng tọa không muốn tiếp mình, từ biệt luôn không đến chùa, rồi đi đâu cũng chê bai vị thượng tọa nọ gồm những điều không đức hạnh.
Thật ra, cung cách của vị hòa thượng trên không đáng khen mà được khen. Và hành động vô tâm của vị thượng tọa kể sau không có gì đáng chê, lại bị hiểu lầm khinh hủy. Thế gian cho đó là điều may rủi, thuyết nhân quả nhà Phật nhận định là lúc nghiệp duyên tội phước hiện ra…Tất cả các nghịch cảnh khác đều do túc nghiệp, hoặc hiện nghiệp xui khiến. Khi gặp những cảnh này hành giả chỉ nên ẩn nhẫn sám hối, chớ buồn phiền oán trách mà thối thất đạo tâm.
*
Có người không gặp cảnh nghịch mà lại gặp cảnh thuận, như cầu gì được nấy; nhưng sự thành công đều thuộc duyên ràng buộc chớ không phải giải thoát. Có vị khi phát tâm muốn yên tu bỗng cảnh danh lợi sắc thanh chợt đến; hoặc nhiều người thương mến muốn theo phụng sự gần bên. Thí dụ như người xuất gia khi phát tâm tu, bỗng có kẻ đến thỉnh làm tọa chủ một ngôi chùa lớn; hoặc như người tại gia thì có thơ mời làm tổng, bộ trưởng, hay một cuộc làm ăn mau phát tài. Đây là những cảnh thuận theo duyên đời quyến rủ người tu; rồi dẫn lần đến các sự phiền toái khác làm mất đạo niệm.
Người ta chết vì lửa thì ít, mà chết vì nước lại nhiều, nên trên đường tu cảnh thuận thật ra đáng sợ hơn cảnh nghịch. Cảnh nghịch đôi khi làm cho hành giả tỉnh ngộ dễ thoát ly niệm tham nhiễm, hoặc phẫn chí lo tu hành. Còn cảnh thuận làm cho người âm thầm thối đạo lúc nào không hay; khi bừng tỉnh mới thấy mình đã lăn xa xuống dốc. Người xưa nói: “Việc thuận tốt được ba. Mê lụy người đến già.” Lời này đáng gọi là một tiếng chuông cảnh tỉnh. Thế nên duyên thử thách của sự thuận khảo rất vi tế, người tu cần phải lưu ý.
Niệm Phật có nên cầu phước: Các duyên khảo
Người niệm Phật cầu phước dễ bị chướng duyên khảo. Chẳng hạn như một vị tài đức không bao nhiêu; nhưng được người bưng bợ khen là nhiều đức hạnh, tài năng, có phước lớn; rồi sanh ra tự kiêu tự đắc, khinh thường mọi người; làm những điều càn dở, kết cuộc bị thảm bại.
Hoặc một vị có đủ khả năng tiến cao trên đường đạo, nhưng bị kẻ khác gàn trở; như bảo ăn chay sẽ bị bịnh, niệm Phật trì chú nhiều sẽ bị đổ nghiệp; gặp nhiều việc không lành, rồi sanh ra e dè lo sợ, thối thất đạo tâm. Hoặc có những cảnh tự mình biết nếu tiến hành dễ rước lấy sự lỗi lầm thất bại; nhưng vì tham vọng hay tự ái, vẫn đeo đuổi theo. Hoặc đối với các duyên bên ngoài, tuy biết đó là giả huyễn nhưng không buông bỏ được; rồi tự chuốc lấy sự buồn khổ vào tâm.
Như có một vị sư đổ ra nhiều công của mướn thợ chẻ đá, thợ mộc, thợ hồ, xây cất một cảnh chùa to trên núi. Khi ngôi tự viện vừa hoàn thành, thì sư cũng vừa kiệt sức mang bịnh nặng. Lúc sắp chết, ông sai đệ tử võng đi quanh chùa rờ từ viên đá buồn khóc tiếc than!
*
Lại trước đây có một tăng sĩ địa vị trong đạo khá cao, tánh tình chân thật rộng rãi ưa bố thí, nhưng vấp phải một khuyết điểm là hay tự đắc tự kiêu. Vài chánh khách thấy được chỗ đó, đem một nhà tướng sĩ đến giả vờ thăm chơi; nhân đó nhìn qua khen sư nhiều phước tướng, tất được vô số người ủng hộ, danh vọng càng thành đạt tiến cao. Ông ấy lại nói thêm, nếu sư thích hoạt động, sẽ thành một tay lãnh tụ; và như ở ngoài đời có thể làm đến tổng thống.
Sư nghe xong tuy khiêm nhường đôi tiếng, nhưng lộ vẻ cực kỳ hoan hỷ. Nhân đó, các chánh khách than vãn thời thế, thương dân chúng khổ não, vận nước suy đồi; rồi dần dà thuyết phục lôi cuốn sư vào một cuộc vận động chánh trị. Và cũng bởi đó, sư bị tai nạn trong một thời gian khá lâu.
Thế nên kẻ dễ dãi nhẹ dạ thường hay bị phỉnh gạt. Khi chưa diệt được tham vọng dễ bị người khác dùng tiền tài, sắc đẹp hoặc danh vị cuốn lôi. Cho đến nếu còn tánh nóng nảy khí khái, tất dễ bị người khích động, gánh vác lấy những việc phiền phức vào thân. Đây là những cạm bẩy của đời mà cũng là của đạo, xin nêu ra để khuyên nhắc cùng nhau. Nếu không dè dặt những điểm đó, sẽ vương vào vòng chướng nghiệp. Đối với những duyên thử thách như thế, hành giả phải nhận định cho sáng suốt; và sanh lòng quả quyết tiến theo đường lối hợp đạo mới có thể thắng nó được.
*
Có người ban sơ tinh tấn niệm Phật, rồi bởi gia kế lần sa sút, làm điều chi thất bại việc ấy, sanh lòng lo lắng chán nản trễ bỏ sự tu. Có vị công việc lại âm thầm tiến triển thuận tiện rồi ham mê đeo đuổi theo lợi lộc mà quên lãng đường lối tu hành. Có kẻ trước tiên siêng năng tụng niệm, nhưng vì thiếu sự kiểm điểm, phiền não ở nội tâm mỗi ngày tăng thêm một ít, lần lượt sanh ra biếng trễ, có khi đôi ba tháng hay một vài năm không niệm Phật được một câu. Có người tuy sự sống vẫn điều hòa đầy đủ, nhưng vì thời cuộc bên ngoài biến chuyển, thân thế nhà cửa nay đổi mai dời, tâm mãi hoang mang hướng ngoại, bất giác quên bỏ sự trì niệm hồi nào không hay.
Trên đây đều là ảnh hưởng diễn biến của nghiệp thiện ác, nhưng nó có sức thầm lôi cuốn hành giả làm cho bê trễ sự tu trì, nên gọi là “khảo”. Khi mới tu, ai cũng có một điểm hảo tâm, nhưng lần lượt bị những duyên nghiệp trong ngoài, một trăm người đã rớt hết chín mươi chín. Lời xưa nói: “Tu hành nhứt niên Phật tại tiền, nhị niên Phật tại tây thiên, tam niên vấn Phật yếu tiền.” Câu này có ý nghĩa: sự tu hành năm đầu Phật như ở trước mặt, năm thứ hai Phật đã về tây, sang năm thứ ba ai muốn hỏi đến Phật hay bảo niệm Phật, phải trả tiền mới chịu nói tới, hoặc niệm quá ít câu. Lời ngụ ngôn này cũng chỉ vào những điểm ở trên, hành giả cần phải lưu tâm chú ý.”
*
( Niệm Phật có nên cầu phước báo hay không – Theo Niệm Phật Thập Yếu )
Tuệ Tâm 2019.
Hung Nguyen viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Thưa Tuệ Tâm, ở câu sau :
“Lại nữa, người niệm Phật đối với mỗi sự phải giữ lòng trung hậu, khoan thứ, tâm luôn đề phòng lỗi hại. Biết lỗi liền sửa, thấy điều nghĩa ắt làm, mới hợp với Phật. Người như thế quyết định vãng sanh. Nếu không như thế là trái nghịch Phật, quyết khó cảm thông. Lại phàm lễ bái đọc tụng kinh và làm hết thảy những chuyện có ích cho đời cho người…Tất cả đều nên đem chuyện đó hồi hướng Tây Phương.
Chẳng nên chỉ đem việc niệm Phật hồi hướng Tây Phương, còn những công đức khác hồi hướng cho phước báo thế gian. Làm vậy, niệm chẳng quy nhất sẽ khó vãng sanh.”
Theo con hiểu là tất cả các công đức khác ngoài Niệm Phật thì đều nên hồi hướng Tây phương, như vậy thì có phải là đang tạp tu không ạ?
Cả đời chỉ chuyên tâm Niệm Phật cầu Tây Phương còn các công đức khác như phóng sanh, bố thí, Phật sự, việc thiện …thì không cần làm. Đây có phải là suy nghĩ đúng không ạ?
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Đúng là tạp tu. Tuy nhiên vì người ngày xưa căn tánh trong sáng thiện lương, ưa tu Thiền Định, Chư Tổ không khuyên vậy không đời nào họ chịu niệm Phật cầu vãng sanh. Lại vì người ngày ấy thường cầu “Minh Tâm Kiến Tánh” hoặc “Đắc Tam Muội Hiện Tiền”, nếu không dạy họ hồi hướng về Tịnh Độ ắt họ chẳng thể nào vãng sanh. Đây là vì căn tánh chúng sanh nên phải hướng họ tu theo kiểu “Vừa dùng tự lực vừa dùng tha lực”, chớ cả cuộc đời Tổ chỉ khuyên người ta niệm Phật cầu vãng sanh mà thôi.
“Cả đời chỉ chuyên tâm Niệm Phật cầu Tây Phương còn các công đức khác như phóng sanh, bố thí, Phật sự, việc thiện …thì không cần làm. Đây có phải là suy nghĩ đúng không ạ?” Cái này không đúng! Người học Phật lấy tâm từ bi làm nền tảng, tuy niệm Phật cầu vãng sanh nhưng các thiện nghiệp khác vẫn nên tùy duyên tùy phận mà làm thì khế hợp với đạo, còn như phế bỏ hết thì không phù hợp. Ví như ta thấy người đói khổ, trong túi có tiền mà chẳng chịu giúp lấy 1 vài đồng, tu như thế thì Từ ở đâu? Bi ở đâu?
Hung Nguyen viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Con đã hiểu rồi thưa Tuệ Tâm.
Con cầu nguyện đức Từ Phụ từ bi phóng quang gia hộ cho tất cả cùng lìa khổ được vui, đồng vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ.
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Hung Nguyen viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Con cám ơn Tuệ Tâm đã chỉ dạy!
Con cầu nguyện đức Từ Phụ từ bi phóng quang gia hộ cho tất cả cùng lìa khổ được vui, đồng vãng sanh Tây Phương Tịnh Độ.
Nam mô A Di Đà Phật!
Diệu Hoa viết
Nam mô A Di Đà Phật