Súc sinh là gì? Chúng ta thường khi nghe đến hai chữ “súc sinh” thì nghĩ ngay đến động vật mang lông đội sừng, chớ thực không biết “súc sinh” nghĩa rất rộng. Súc sinh còn gọi là Bàng Sinh, chúng hiện diện đầy đủ trong lục đạo luân hồi, không cõi nào không có.
Như trong địa ngục có loại không chân, như các loài trùng Nương củ tra. Có loại hai chân, như các loài chim mỏ cứng như sắt. Có loại bốn chân, như các loài chó đen lớn xác. Có loại nhiều chân, như các loài trăm chân.
Trong đường quỷ có loại không chân, như các loài rắn độc. Có loại hai chân như loài quạ, cú. Có loại bốn chân, như các loài chồn cáo, voi, ngựa. Có loại nhiều chân, như các loài sáu chân, trăm chân.
Trong các Trời Tứ thiên vương và Tam thập tam, có loại hai chân, như các loài chim tuyệt đẹp. Có loại bốn chân, như các loài voi, ngựa. Các loại khác đều không có nữa, như trên đã giải thích. Nên trong cõi Từ Thiền, chỉ có loại hai chân, như các loài chim tuyệt đẹp. Các loại khác đều không có nữa. Vì cõi Trời Không cư càng tốt đẹp hơn”.
- Sáu nẻo luân hồi là gì.
- Chư Thiên là gì.
- A Tu La là gì.
- Ngạ quỷ là gì.
- Địa ngục là gì.
- Đế Thích Thiên là ai.
- Kiếp trong Phật pháp là gì.
*
Theo kinh Lâu Thán nói: “Súc sinh không giống nhau. Có ba loại: một là cá, hai là chim, ba là thú. Trong cả ba loài này, mỗi loài đều nhiều vô số. Cá có sáu ngàn bốn trăm giống. Chim có bốn ngàn năm trăm giống. Thú có hai ngàn bốn trăm giống. Trong kinh ấy cũng chỉ nói tổng số, không phân biệt rõ tên các loài”. Trong kinh Chánh Pháp Niệm thì chủng loại cũng giống nhau. Có 40 ức, nhưng cũng không liệt kê rõ tên các giống loài.
Kinh Địa Trì dạy: “Tạo đủ mười nghiệp ác. Mỗi một nghiệp đều có thể khiến chúng sinh đọa vào trong các đường địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ. Sau đó mới được làm người, nhưng vẫn còn chịu báo ứng của tiền kiếp”.
Súc Sinh Là Gì
Súc sinh là gì? Theo luận Bà-sa giải thích thì: “Sinh” nghĩa là chúng sinh, “Súc” có nghĩa nuôi dưỡng. Súc Sinh nghĩa là những chúng sinh ngang ngược, bẩm tính ngu si, không thể tự lập, được người khác nuôi dưỡng, nên gọi là súc sinh.
Hỏi: Nếu vì được nuôi dưỡng mà gọi là súc sinh, thì các loài Rồng ở nước, ở cạn, ở trên không, không được người ta nuôi dưỡng, có nên gọi là súc sinh chăng?
Đáp: Dưỡng có nghĩa rất rộng, khắp nhân gian cho đến các cõi Trời Lục dục. Không nuôi dưỡng, ở đấy hiểu theo nghĩa hẹp, chỉ trong các chỗ núi non, đồng nội, đầm lầy của nhân gian mà thôi. Hơn nữa, loài Rồng ngày xưa cũng từng được người ta nuôi dưỡng, có nói rõ tại kinh văn. Nay được nuôi dưỡng cũng rất nhiều, nên mới gọi là súc sinh.
Vả lại, luận Lập Thế nói: “Súc sinh, Phạm ngữ gọi là Để lật xa. Do gây nghiệp ton hót quanh co, nên phải sinh vào đường ấy”. Vì thế, luận ấy còn nói: “Chúng sinh trong đường này, phần nhiều đi sấp mình xuống nên mới gọi là Để lật xa”.
Theo luận Tân Bà-sa thì Súc Sinh còn gọi là Bàng Sinh, nên có câu hỏi: “Sao gọi là đường Bàng sinh?”. Đáp: “Thân hình của chúng nằm ngang, nên cũng đi ngang. Vì thân hình đã nằm ngang, nên cũng phải đi ngang như thế, mới gọi là bàng sinh”.
*
Có người nói: “Do các chúng sinh ở đấy đã tạo thêm lên các hành vi xấu về thân ngữ ý, phải sinh vào đường ngu tối ấy, nên gọi là bàng sinh. Nghĩa là loại súc sinh ấy đều hiện hữu khắp năm đường khác. Như trong địa ngục có loại không chân, như các loài trùng Nương củ tra. Có loại hai chân, như các loài chim mỏ cứng như sắt. Có loại bốn chân, như các loài chó đen lớn xác. Có loại nhiều chân, như các loài trăm chân. Trong đường quỷ có loại không chân, như các loài rắn độc. Có loại hai chân như loài quạ, cú. Có loại bốn chân, như các loài chồn cáo, voi, ngựa. Có loại nhiều chân, như các loài sáu chân, trăm chân.
Trong ba châu lớn của đường người, có loại không chân, như tất cả các loài côn trùng bò sát. Có loại hai chân như các loài le, nhạn. Có loại bốn chân, như các loài voi, ngựa. Có loại nhiều chân, như các loài trăm chân. Trong châu Câu Lô, có loại hai chân, như các loài le, nhạn. Có loại bốn chân, như các loài voi, ngựa. Không có các loại không chân và có nhiều chân. Vì ở đấy là nơi hưởng quả báo không muộn phiền.
Trong các Trời Tứ thiên vương và Tam thập tam, có loại hai chân, như các loài chim tuyệt đẹp. Có loại bốn chân, như các loài voi, ngựa. Các loại khác đều không có nữa, như trên đã giải thích. Nên trong cõi Từ Thiền, chỉ có loại hai chân, như các loài chim tuyệt đẹp. Các loại khác đều không có nữa. Vì cõi Trời Không cư càng tốt đẹp hơn”.
*
Hỏi: Trong bốn cõi Tứ Thiền ấy, nếu không có các loài voi, ngựa, lấy gì để cưỡi? Cũng nghe nói chư Thiên ở đấy cưỡi các loài voi ngựa. Tại sao lại nói là không?.
Đáp: Do phước lực của chư Thiên ở đấy, nên đã tạo ra các loài voi, ngựa vô tri để cưỡi đi chơi cho vui thích.
Theo kinh Lâu Thán nói: “Súc sinh không giống nhau. Có ba loại: một là cá, hai là chim, ba là thú. Trong cả ba loài này, mỗi loài đều nhiều vô số. Cá có sáu ngàn bốn trăm giống. Chim có bốn ngàn năm trăm giống. Thú có hai ngàn bốn trăm giống. Trong kinh ấy cũng chỉ nói tổng số, không phân biệt rõ tên các loài”. Trong kinh Chánh Pháp Niệm thì chủng loại cũng giống nhau. Có 40 ức, nhưng cũng không liệt kê rõ tên các giống loài.
Súc Sinh Là Gì: 1. Về Nơi Cư Ngụ
Luận Tân Bà-sa có câu hỏi: Bàng sinh vốn cư trú chỗ nào?
Đáp: Chỗ cư trú vốn tại trong biển lớn. Về sau, di trú khắp các đường khác.
Hỏi: Hình dáng thế nào?.
Đáp: Phần nhiều nằm ngang, cũng có loài đứng thẳng, như các loài Khẩn nại lạc xá già hê lô sách ca.
Hỏi: Tiếng nói ra sao?.
Đáp: “Khi kiếp mới thành, đều nói tiếng Thánh. Về sau, do lúc thọ dụng ăn uống, nên phân chia thành các loại chúng sinh không giống nhau. Vì ton hót, dối trá tăng lên, nên có các loại tiếng nói khác nhau. Thậm chí, còn có loài không biết nói”.
Lại nữa, luận Cựu Bà-sa nói: “Chỗ cư trú của súc sinh có chính và phụ khác nhau.
Thứ nhất: chỗ ở chính. Có người bảo, tại chỗ tối tăm trong khoảng giữa hai ngọn núi Thiết Vi, hoặc tại đáy biển lớn, hoặc tại trên các châu, bãi.
Thứ hai: chỗ ở phụ thì bảo tại trong năm đường. Như trong địa ngục, hoặc có loại súc sinh không chân, như các loài rắn ở đấy. Hoặc có loại hai chân, như các loài quạ cú ở đấy. Hoặc có loại bốn chân như các loài chó ở đấy. (Trong đó, hoặc có loài có báo thân thật, hoặc có loài có hóa thân, không nhất định). Trong đường quỷ, cũng có loài súc sinh không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân. Nghĩa là các quỷ có uy đức trong đường ấy cũng có các loài voi, ngựa, lạc đà, lừa. Trong loại quỷ không có uy đức, chỉ có các loài chó. Trong đường A-tu la thì cũng giống như đã nói trong đường quỷ”.
Súc Sinh Là Gì: 2. Về Thân Lượng
Như kinh Bồ tát Xử Thai nói: “Thứ nhất: chim lớn, không gì hơn chim Kim sí điểu, đầu và chân dài cách nhau tám ngàn do tuần, chiều cao cũng như thế. Như khi chim ấy bay đi, từ một ngọn núi Tu-di này đến một ngọn núi Tu-di khác, không hề nghỉ chân giữa khoảng đường bay. Kinh văn đã nói rộng rãi điều này.
Thứ hai: thú lớn, không gì hơn rồng. Như kinh A-hàm nói: “Hai con rồng Nan Đà và Bạt Nan Đà cực lớn, quấn bảy vòng quanh núi Tu-di. Đầu như đỉnh núi, đuôi nằm trong biển”.
Thứ ba: thân cá lớn, không gì hơn các Ma kiệt lớn. Như luật Tứ phần nói: “Thân cá Ma kiệt lớn thì dài, hoặc ba trăm do tuần, bốn trăm do tuần. Thậm chí, thân cá lớn nhất dài đến bảy trăm do tuần”.
Thế nên, kinh A-hàm nói: “Mắt như mặt trời mặt trăng. Mũi như núi lớn. Miệng như núi lửa”.
*
Nếu theo các sách thế gian, Trang Châu có nói: “Có chim đại bàng, thân hình rất lớn. Lưng chim đại bàng ấy, không biết mấy nghìn dặm. Khi sắp bay, quẫy nước tung lên ba ngàn dặm, cánh vươn rộng như che kín mây trời, nương cơn lốc mà lên cao, cách mặt đất chín vạn dặm, rồi mới bay đi. Muốn từ biển Bắc sang biển Nam, một chuyến phải mất sáu tháng, chẳng hề đậu nghỉ giữa đường”. (Theo nội điển, chim này xem như chim Kim sí nhỏ. Thế gian không lường được, nên mới nói khác, thành ra chim đại bàng).
Sách thế gian còn nói: “Thú ở nước lớn, chẳng có gì hơn con ba ba Cự linh. Thân hình của nó rất lớn, đầu đội núi Bồng Lai, đi vào biển lớn để rong chơi mà cũng chẳng nói mình cao thấp lớn bé”. Nhưng ba ba so với cá Ma kiệt thì quá nhỏ.
Trang Châu nói: “Chim nhỏ không gì hơn chim Tiêu minh. Nuôi con trên vòi muỗi. Đẻ trứng, ấp con, cho bú trên vòi muỗi ấy mà trứng cũng chẳng rơi xuống”. Chim này cũng chưa đạt kỷ lục nhỏ. Chúng sinh trong nội điển có hóa thân nhỏ nhất thì thân hình chỉ bằng hạt vi trần, phải dùng thiên nhãn mới thấy được.
*
Thế nên, trong luật Phật nói rằng Phật dạy các Tỳ-kheo phải lọc nước để uống. Xá Lợi Phất đã lọc nhiều lần, nhưng vẫn còn vi trùng. Vì thế, bảy ngày không dám uống nước, thân hình trở thành khô xọp. Phật biết rõ nhưng vẫn hỏi: “Tại sao ông tiều tụy đến thế?”.
Xá Lợi Phất thưa rằng: “Phật dạy, phải lọc nước để uống. Tôi dù đã lọc nhiều lần, đến khi dùng thiên nhãn xem lại, vi trùng vẫn còn lọt qua được, giống như bình bát có cát trôi trong nước. Để bảo vệ sinh mạng, tôi không dám uống nước, nên thân thể tiều tụy thế này”.
Phật bảo Xá Lợi Phất: “Nếu lấy thiên nhãn ra xem, thì tất cả chúng sinh chẳng còn ai sống được. Từ nay về sau, ta cho phép chỉ dùng nhục nhãn xem nước trong sạch, trong đó không có vi trùng, thì có thể uống được”.
Thế nên, báo thân nhỏ bé của chúng sinh, khắp nơi đều có. Liệu vi trùng nhỏ bé, há bằng con Tiêu minh to lớn kia chăng?
Súc Sinh Là Gì: 3. Về Thọ Mạng
Luận Tỳ-đàm nói: “Chúng sinh thọ nhất trong đường súc sinh không hơn một kiếp, như các loài Rồng chúa Trì địa và rồng Y la bát. Chúng sinh yểu nhất không hơn loài phù du, sáng sinh chiều mất, không đầy một ngày. Chúng sinh thọ trung bình thì không thể nói hết”.
Còn luận Trí Độ nói: “Phật dạy Xá Lợi Phất quán từ kiếp quá khứ đến vị lai của chim bồ câu. Trước sau đều tám vạn kiếp, nhưng vẫn chưa bỏ được xác chim ấy”. Thế nên, thọ mạng ngắn dài của súc sinh, người phàm không thể ức đoán nổi.
Súc Sinh Là Gì: 4. Gieo Nhân Gì Phải Đọa Làm Súc Sinh
Theo kinh Nghiệp Báo Sai Biệt: “Tạo đủ mười nghiệp sau đây thì phải chịu quả báo súc sinh:
- Một là thân làm ác.
- Hai là miệng làm ác.
- Ba là ý làm ác.
- Bốn là từ phiền não tham lam nổi lên các nghiệp ác.
- Năm là từ phiền não sân hận nổi lên các nghiệp ác.
- Sáu là từ phiền não si mê nổi lên các nghiệp ác.
- Bảy là phỉ báng chúng sinh.
- Tám là hành hạ chúng sinh.
- Chín là đem cho đồ dơ uế.
- Mười là làm chuyện tà dâm”.
Nếu theo kinh Chánh Pháp Niệm nói: “Chủng loại chúng sinh, mỗi loài đều khác, tạo nhân chịu quả báo cũng chẳng giống nhau. Kinh văn đã nói rõ ràng, không thể thuật hết ra được”. Còn theo kinh Địa Trì thì: “Tạo đủ mười nghiệp ác. Mỗi một nghiệp đều có thể khiến chúng sinh đọa vào trong các đường địa ngục, súc sinh và ngạ quỷ. Sau đó mới được làm người, nhưng vẫn còn chịu báo ứng của tiền kiếp”.
Súc Sinh Là Gì: 5. Về Thọ Báo
Theo kinh Hiền Ngu: “Bấy giờ, có đoàn lái buôn muốn đi sang nước khác, đoàn này có mang theo một con chó. Đến nữa đường, bọn họ dừng lại nghỉ ngơi. Rình lúc không có người để ý, chó liền ăn trộm thịt mang theo. Bọn họ nổi giận, đánh chó gãy chân, liệng bỏ giữa đồng rồi lên đường. Lúc ấy, Xá Lợi Phất dùng thiên nhãn thấy chó lê lết đói khát, đau đớn sắp chết đói, liền mặc áo mang bát vào thành khất thực. Xong xuôi, cầm ra khỏi thành, bay đến chỗ chó nằm. Lòng từ bi thương xót, lấy đồ ăn ra cho.
Chó được ăn, vui mừng tỉnh lại. Xá Lợi Phất thuyết pháp vi diệu cho nghe, chó liền chết đi, đầu thai vào nhà Bà-la-môn ở nước Xá Vệ. Về sau, Xá Lợi Phất đi khất thực một mình. Bà-la-môn trông thấy, hỏi rằng: “Tại sao tôn giả đi một mình, không có sa di?”.
Xá Lợi Phất trả lời: “Ta không có sa di. Nghe ông có con trai, nên đem cho ta”.
Bà-la-môn nói: “Tôi có được một đức con trai, tự là Quân Đề, tuổi còn nhỏ dại, chưa sai sử được. Sau này khôn lớn, tôi sẽ cho ngài”.
Sau đó, khi đứa bé lên bảy tuổi, Bà-la-môn đem giao cho Xá Lợi Phất, xin được xuất gia. Xá Lợi Phất nhận được đứa bé, đem về Kỳ Hoàn, cho làm sa di, dần dà thuyết pháp cho nghe. Đứa bé tâm ý thông suốt, chứng được quả A-la-hán, công đức đầy đủ.
*
Khi sa di Quân Đề vừa đắc đạo xong, tự dùng trí lực quán lại tiền thân, đã tạo hạnh nghiệp nào, gặp được Thánh tăng, chứng được Đạo quả. Quán thấy tiền thân làm con chó đói, nhờ Hòa thượng ban ơn, nay được làm người và chứng được chánh quả. Lòng sinh hoan hỷ và tự nghĩ rằng: “Ta nhờ ơn thầy, thoát khỏi đau khổ. Nay phải đem trọn đời phục thị cho thầy. Chỉ cầu làm sa di, không thọ đại giới”.
Phật bảo A Nan: “Do đời quá khứ, vào thời Phật Ca Diếp, Quân Đề xuất gia. Tuổi trẻ tiếng tốt, rất giỏi tán tụng, được mọi người đều thích nghe. Có một lão tăng, tiếng nói khàn đục, không thể tán tụng, nhưng đã chứng được quả A-la-hán, công đức đầy đủ. Tỳ-kheo trẻ tuổi, ỷ mình có tiếng tốt, vào gặp lão tăng mắng rằng: “Tiếng như chó sủa!”.
Lão tăng liền la lên: “Thầy tăng trẻ tuổi, ông có biết ta chăng? Tuy ta như thế này, nhưng đã chứng được quả A la-hán, công đức đầy đủ!”.
Tỳ-kheo trẻ tuổi ấy nghe xong, trong lòng hoảng sợ, lông tóc dựng đứng cả lên. Lập tức đến trước mặt lão tăng, sám hối lỗi lầm mạo phạm. Do lời mắng nhiếc, suốt trong năm trăm kiếp, thường làm thân chó. Do đã xuất gia, giữ giới thanh tịnh, nay được gặp ta, mới được giải thoát”.
*
Lại nữa, luận Trí Độ nói: “Do ngu si nhiều, nên phải làm các côn trùng, chim chóc đần độn như giun trùn, bọ hung, kiến hôi, vịt trời, cú vọ, cú mèo. Bồ tát Long Thọ đôi lần nói: “Vì lòng dâm dục nhiều, nên phải chịu quả báo dâm dục làm vịt trời”.
Có người nói: “Vì ngu si nhiều, nên cũng phải làm vịt trời”. Hai con vịt trời ấy giống nhau hay khác nhau?
Đáp: “Loại do túc nghiệp dâm dục sinh ra thì làm loại le vịt ở dưới nước. Loại do túc nghiệp ngu si sinh ra thì làm loài cú dữ trên cạn, hoặc thấy ban ngày, ban đêm không thấy. Loại do dâm dục sinh ra thường bay liền bầy và lội nổi mình trên nước, hoặc thấy ban đêm, ban ngày không thấy. Loại do ngu si sinh ra thường bay đi rình bắt chuột ban đêm. Cú cũng có hai loại: do túc nghiệp dâm dục sinh ra thì làm cú già, ban ngày thấy, ban đêm không thấy. Do túc nghiệp ngu si sinh ra thì làm cú mèo, ban đêm thấy, ban ngày không thấy”.
*
Lại nữa, các kinh Trường A-hàm và Tăng-nhất- nói:
“Chim Kim sí có bốn loại: một là do trứng sinh ra, hai là do bào thai sinh ra, ba là do ẩm ướt sinh ra, bốn là do biến hóa sinh ra.
Vào kiếp trước, tất cả đều đã bố thí rất nhiều, nhưng vì kiêu căng, ngã mạn, sân hận, hành hạ chúng sinh, nên phải sinh làm loài chim này. Có ngọc như ý để làm tràng hạt, có thần thông biến hóa, có đầy đủ mọi nhu cầu. Thân cao bốn mươi dặm, áo rộng tám mươi dặm, dài bốn mươi dặm, nặng 2 lượng rưỡi. Ăn các loài rùa, kỳ đà, ba ba theo lối đoạn thực. Biết tắm rửa, mặc y phục và ăn sống theo lối hoạt thực, cũng có sinh hoạt vợ chồng, hai hân cùng giao nhau để thành âm dương phối hợp. Sống thọ một kiếp, cũng có loại ít hơn”.
“Có một cây ở phía Bắc bờ biển lớn, tên Cứu la sân ma, cao một trăm do tuần, bóng mát năm mươi do tuần. Phía Đông của cây, có cung điện của loài Rồng do trứng sinh ra và cung điện của loài chim Kim sí do trứng sinh ra. Phía Nam của cây, có cung điện của loài Rồng do bào thai sinh ra và cung điện của loài chim Kim sí do bào thai sinh ra.
*
Phía Tây của cây, có cung điện của loài Rồng do ẩm ướt sinh ra và cung điện của loài chim Kim sí do ẩm ướt sinh ra. Phía Bắc của cây, có cung điện của loài Rồng do biến hóa sinh ra và cung điện của loài chim Kim sí do biến hóa sinh ra. Mỗi cung điện dọc ngang rộng sáu ngàn do tuần, trang sức như trên đã nói. Nếu chim Kim sí do trứng sinh ra, bay xuống mặt biển, lấy cánh quẫy nước, nước liền rẽ đôi, sâu đến hai trăm do tuần, bắt lấy loài Rồng do trứng sinh ra để ăn thịt tùy thích
(kinh Hoa Nghiêm nói, chim này ăn gió do rồng quạt mà thành. Nếu gió thổi vào mắt của người thì sẽ bị mù, nên gió này không thổi đến nhân gian, sợ làm tổn thương mắt của người).
Các loài chim Kim sí do bào thai sinh ra, ẩm ướt sinh ra, biến hóa sinh ra, cũng đều như thế (kinh Niết Bàn nói, chim Kim sí này chỉ không ăn thịt người đã thọ Tam quy). Có con rồng con do biến hóa sinh ra, thường giữ phép Bát quan trai trong 6 ngày ăn chay hằng tháng. Bấy giờ, chim Kim sí muốn bắt lấy nó để ăn. Ngậm nó, bay lên ngọn cây phía Bắc đỉnh núi Tu-di cao mười sáu ngàn sáu vạn dặm, tìm kiếm đuôi rồng, tuyệt nhiên không thấy. Chim nghe ra được nguyên nhân, cũng thọ ngũ giới”.
*
Lại nữa, kinh Quán Phật Tam Muội nói: “Chim Kim sí chúa tên là Tiếng chính âm, sung sướng thảnh thơi bậc nhất trong các loài chim, mỗi ngày ăn thịt một con rồng chúa và năm trăm con rồng con ở cõi Diêm Phù-đề. Lần lượt ăn thịt khắp bốn châu, số lượng cũng như trên, giáp vòng rồi lại bắt đầu.
Trải qua tám ngàn năm, tướng chết bắt đầu xuất hiện. Các loài Rồng phun độc, nên chim không thể bắt ăn thịt được, đói khát kinh hoàng, dù muốn cũng không thể ngồi yên, liền bay đến núi Kim Cương. Từ đây hạ cánh thẳng xuống, từ đầu tầng nước lớn xuống đến đầu tầng gió. Bị gió thổi tung lên lại trên đỉnh núi Kim Cương đến bảy lần như thế, cuối cùng mới chết.
Vì chất độc của nó, khiến cho núi Thập Bảo đều bốc cháy. Rồng chúa Nan đà sợ cháy mất núi này, liền làm mưa lớn, giọt nước bằng đầu trục xe. Thịt chim bị cháy tiêu tan hết, chỉ còn sót lại trái tim. Trái tim lại rơi xuống, rồi bị hất tung lên bảy lần như trước. Xong xuôi, mới nằm yên trên đỉnh núi Kim Cương. Rồng chúa Nan đà đem về làm hạt minh châu. Chuyển luân vương thâu lấy làm châu Như ý. Nếu người biết niệm Phật, khi chết đi, trái tim cũng sẽ trở nên như thế”.
Súc Sinh Là Gì: 6. Về Tu Phúc
Theo Kinh Bồ Tát Xử Thai: “Phật bảo Bồ tát Trí Tích, có một thuở nọ, vào vô lượng kiếp xa xưa, ta làm chim Kim sí chúa, có cung điện bằng thất bảo, có hậu viên, ao hồ đều bằng thất bảo. Lòng rất thanh thản, như Chuyển luân vương, bèn đi xuống biển, tìm rồng ăn thịt.
Bấy giờ trong biển, có con rồng con hóa sinh, đang giữ giới Bát quan trai trong ngày trai nhật. Bấy giờ, chim Kim sí chúa, thân cao tám ngàn do tuần, hai cánh phải trái đều dài bốn ngàn do tuần, dùng cánh rẽ nước, bắt con rồng con. Nước chưa kịp khép, đã ngậm con rồng con bay lên.
Khi chim muốn ăn rồng, trước hết phải nuốt từ phần đuôi. Chim bay đến phía Bắc núi Tu-di, ở đó có một cây lớn bằng sắt, thân cao sáu vạn dặm. Chim ngậm con rồng con đến đó, sửa soạn ăn thịt. Tìm kiếm đuôi rồng, chẳng biết chỗ nào, tìm kiếm mãi, suốt một ngày đêm. Đợi đến sáng mai, rồng mới ló đuôi, nói với chim rằng, thân ta vốn là loài Rồng hóa sinh, nếu ta không giữ giới Bát quan trai, nhà ngươi đã hóa thành tro.
Bấy giờ, chim Kim sí nghe xong, ăn năn hối lỗi nói rằng, Phật pháp uy lực, cao siêu khó lường. Ta có cung điện, cách đây không xa, theo ta đến đó, cùng nhau vui chơi. Rồng bèn theo chim, đến xem cung điện. Gia quyến của ta, đến nay vẫn chưa được nghe đến giới Bát quan trai của Phật. Xin nhờ chỉ dạy giùm cho giới luật uy nghi này. Một mai, nếu có mệnh chung, may mắn được sinh làm người.
*
Lúc ấy, con rồng con liền đem giới cấm đọc tụng cho nghe ngay tại cung điện của chim và nói kệ rằng:
Là con của rồng chúa
Ta tu bảy vạn năm.
Vì lấy kim châm lá
Phạm giới, bị làm rồng.
Cung ta ở đáy biển,
Cũng do thất bảo thành:
Châu ma ni, pha lê,
Châu minh nguyệt, bạc vàng.
Hãy theo ta đến đó,
Tham quan chuyện tu hành.
Thiện căn càng tăng trưởng,
Từ bi thêm chứa chan.
Bấy giờ, chim nghe lời rồng con, thọ trì giới Bát quan trai xong, tự phát nguyện rằng, từ nay trở về sau, cho đến lúc lâm chung, xin thề không sát sinh nữa và xin thực hành đúng theo lời Phật dạy. Gia quyến của chim Kim sí cũng thọ trì giới Bát quan trai xong, liền đi theo rồng con đến cung rồng dưới biển. Ở đấy có tháp thất bảo chứa lời Phật dạy, chánh pháp cao siêu, chứa đầy trong kinh sách, đựng trong hòm bằng thất bảo.
Thấy các vật phẩm cúng dường quý báu như ở trên trời. Rồng con nói với chim rằng, ta mang báo thân này, thọ mạng tuy còn dài, nhưng chưa từng sát sinh và chưa từng đụng chạm đến nước. Bấy giờ, con trai, con gái nhà rồng tâm ý đều thông suốt, sau khi mệnh chung, đều được sinh vào quốc độ của Phật A Di Đà”.
Súc Sinh Là Gì: 7. Về Phần Vui Khổ và Thương Ghét
Theo kinh nói: “Như những loài Rồng, kỳ lân, công, phụng, anh vũ, gà rừng, trĩ gấm, đều được người quý chuộng, ao ước, mến yêu. Còn những loài khỉ đột, sói chồn, tê giác, cọp, rắn, cú vọ, cú mèo, đều bị người ghét bỏ, không thích nghe đến tiếng kêu. Đẹp xấu là thế, trình bày khó hết. Sang hèn dễ biết, nói sao cho cùng!”.
Kinh cũng dạy: “Như loài Rồng có phước thì có y báo, chánh báo sung sướng đầy đủ. Thê thiếp, kỹ nữ, áo quần, ăn uống, ngựa voi, thất bảo đều không thiếu thứ gì, thanh nhàn tự tại còn hơn cả người. Thậm chí trong cõi Lục dục đều có chim thú sung sướng thanh nhàn. Cũng có các loài Rồng bạc phước, hằng ngày bị cát nóng thiêu đốt thân mình, và bị các loài côn trùng gặm nhấm thể xác.
Còn như súc sinh ở thế gian thì bị sử sai đánh đập thồ chở nặng nề, ruổi giong theo lệnh, không được tự do. Cho đến những loài lội ở dưới nước, đi ở trên bộ, bay giữa không trung, thiếu thốn cỏ ăn, nước uống, tàn hại lẫn nhau. Lại có những loài súc sinh ở giữa hai ngọn núi Thiết Vi, thường sống trong chỗ tối tăm, chịu khổ không ngừng, không chút thanh thản. Những nỗi khổ này, không thể tả hết”.
(Súc Sinh là gì – Theo Pháp Uyển Châu Lâm)
Tuệ Tâm 2022.
Hiến Đinh viết
Dạ thưa sư Tuệ Tâm, bản thân con khi nghe tiếng niệm Phật hay nghe trì chú, đặc biệt là Phạn âm con thấy rất hay và thoải mái, còn một số người như bạn con khi nghe nó bảo mệt mỏi, sư cho con hỏi nguyên nhân là vì sao ạ?
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Bạn ưa thích nghe kinh chú là bởi duyên sâu với Phật, kiếp trước có gieo nhân lành nơi Tam Bảo nên kiếp này gặp lại Phật pháp thì thân tâm hoan hỉ, xúc động. Còn những người bạn của bạn nghe thấy mệt mỏi là vì nghiệp chướng của họ quá sâu nặng, bị nó ngăn che nên sanh ra mệt mỏi đó thôi. Người chẳng có thiện căn, có khi cả đời không nghe được một tiếng Phật lọt vào tai, hoặc nghe người niệm Phật thì sanh tâm sợ hãi, chẳng dám nghe. Chúng sanh thời mạt ngày nay bạc phước, phần lớn đều như thế cả đó!
Lê viết
Dạ.Thưa ngài,trong số các loài súc sinh thì loài phù du có thọ mạng yểu nhất,sáng sinh tối diệt,thọ mạng chưa đến 1 ngày.Vì nhân duyên gì đọa làm loài phù du(thiêu thân).Xin ngài hãy giải đáp giúp con.Con kính chúc ngài thân tâm luôn an lạc.Nam mô A Di Đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Bạn tìm trên web bài “Tánh Hóa Linh Tàn” mà đọc nhé!
Lê viết
Dạ.Thưa ngài,cho con hỏi các loài khủng long,tê giác cổ đại,cá mập Megalodon,hổ răng kiếm,voi Mamut,chim Moa,chim ăn thịt khổng lồ không biết bay,dã nhân cổ đại,loài sói cổ đại,lợn khổng lồ Dimetodon,cá sấu khổng lồ,trăn titanoboa,chó sói Tasmania,chuột khổng lồ,Ta tu khổng lồ, ,…Những loài động vật này có thật không ạ,ngày nay các nhà khoa học bảo rằng những loài động vật ấy đã tuyệt chủng cách đây rất lâu và các nhà khoa học cho chứng cứ các loài động vật này từng tồn tại thông qua các bộ xương khai quật được đã hóa thạch.Cho con hỏi thêm 1 điều nữa là các loài động vật bị con người săn bắn đến tuyệt chủng thì sẽ vĩnh viễn bị tuyệt chủng hay sau 1 thời gian dài khoảng chừng nhiều triệu tiểu kiếp sau sẽ tái sinh laị ạ.Xin ngài hãy giải đáp giúp con.Con kính chúc ngài thân tâm luôn an lạc
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Anh bạn trẻ, những thứ ấy biết thì có lợi ích gì đâu, để thời gian mà niệm Phật có phải tốt hơn không?
Lê viết
Dạ.Con cảm ơn ngài rất nhiều.Con sẽ luôn tinh tấn niệm Phật để sau khi chết đi được vãng sanh Cực Lạc
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.