Kết tập Kinh Điển được chư Thánh chúng thực hiện tất cả bốn lần, còn gọi là bốn thời kỳ kết tập, bao gồm: Kết tập Đại thừa, Kết tập năm trăm người, Kết tập một ngàn người và Kết tập bảy trăm người.
1. Thời kỳ kết tập thứ nhất: Theo hai bộ luận Trí-độ và Kim-cương-tiên, đức Như Lai cùng Văn-thù-sư-lợi và chư Phật mười phương kết tập Pháp tạng Đại thừa tại phía ngoài núi Thiết vi này.
2. Thời kỳ kết tập thứ hai: Theo kinh Bồ tát-xử-thai và luật Tứ-phần, khi đức Như Lai vừa nhập diệt được bảy ngày, Đại Ca-diếp và năm trăm vị La-hán truyền lệnh đến mười phương thế giới, triệu tập tám ức tám nghìn Thiên chúng cùng đến kết tập Tam tạng.
3. Thời kỳ kết tập thứ ba: Theo luận Trí-độ, sau khi đức Như Lai nhập diệt, vào đầu ngày rằm trong mùa Hạ an cư, Đại Ca-diếp cùng một ngàn vị La-hán kết tập Tam tạng trong thành Vương-xá.
4. Thời kỳ kết tập thứ tư: Theo luật Tứ-phần, trong khoảng một trăm năm sau khi đức Như Lai nhập diệt, vì Bạt-xà-tử lộng hành mười chuyện, Đại Ca-diếp cùng bảy trăm vị La-hán phải kết tập lại Tam tạng trong thành Vương-xá.
- Cuộc đời&đạo nghiệp của HT Tuyên Hóa
- Ma Ha Ca Diếp Tôn giả.
- La Hầu La Tôn giả.
- A Nan Tôn giả.
- Linh hồn người chết là gì.
- Bát Nhã Tâm Kinh giảng giải.
- Thiền sư Chí Công Hòa thần dị truyện.
Bốn lần kết tập Kinh Điển của chư Thánh.
Bốn phần sau đây, dựa theo kinh điển, sẽ lần lượt trình bày, ngõ hầu các bậc minh triết sau này khỏi phải chất chứa nhiều ức đoán.
Kết tập Kinh Điển lần 1: Kết tập Kinh Đại thừa.
Theo hai bộ luận Đại Trí-độ và Kim-cương-Tiên bảo rằng: “Trong cuộc kết tập, Văn-thù-sư-lợi nói rõ đức Như Lai ở ngoài thế giới này, không đến các thế giới ở phương khác. Chư Phật mười phương đều đến thuyết pháp đông đủ. Cũng gọi là Cật kinh (chất vấn kinh điển).
Sau cuộc kết tập, Văn-thù-sư-lợi triệu tập vô lượng vô biên Bồ tát và A-la-hán. Các vị đều nói: “chính tôi nghe kinh ấy từ Đức Phật.” Tu-bồ đề nói: “Tôi nghe kinh Kim-cương-Bát-nhã từ Đức Phật.” Các bộ kinh có nhiều người cùng nghe thì ai nấy đều bảo: “Chính tôi nghe từ Đức Phật.” Do đó, không phải chỉ một mình A-nan nghe kinh, nhưng A-nan được nghe tất cả các kinh. Các đệ tử khác chỉ được nghe một số bộ kinh mà thôi.”
*
Lại nữa, theo kinh Niết-bàn, bậc đại Thánh thuyết pháp vốn có ba Thừa, người truyền pháp cũng có ba vị. Thứ nhất là A-nan-đà, nghĩa là Hoan hỷ. Ngụ ý giữ gìn Pháp tạng Tiểu thừa. Thứ hai là A-nan-đà Bạt đà, nghĩa là Hoan hỷ Hiền. Ngụ ý giữ gìn Pháp tạng Đại thừa. Ba tên tuy khác nhau, nhưng xét bản chất thì chỉ là một.
Thế nên, kinh Duy-ma nói rằng: “Xá-lợi-phất hỏi Thiên nữ: “Đối với Ba thừa, nhà ngươi chú tâm cầu thừa nào?”
Thiên nữ đáp: “Nếu chọn đường lối Tiểu thừa, tôi sẽ làm Thanh văn. Nếu chọn đường lối Trung thừa, tôi sẽ làm Duyên giác. Nếu chọn đường lối Đại thừa, tôi sẽ làm Bồ tát.”
Thế mới biết rằng A-nan là bậc thấu hiểu thông suốt cả Đại Tiểu thừa. Trong ba vị trên đây, hai vị đầu, có vị tự mình trực tiếp nghe kinh, có vị được nghe nói lại. Thế nên, theo luận Trí-độ, đến cuối cuộc kết tập, A-nan bước lên giảng tòa nói kệ rằng:
Khi Phật mới thuyết pháp,
Bấy giờ, không nghe, thấy,
Lần lượt chuyển đến nghe,
Phật đến Ba-la-nại,
Thuyết pháp Tứ diệu đế,
Cho năm vị Tỳ kheo.
Kết tập Kinh Điển lần 2: Kết tập có năm trăm người( 500 A La Hán).
Theo kinh Bồ tát-xử-thai nói: “Bấy giờ, Đức Phật nhập diệt đã được bảy ngày đêm. Đại Ca-diếp bảo năm trăm vị La-hán đánh kẻng tập họp đại chúng, nói rằng: “Năm trăm người các ông đều đến các thế giới của chư Phật khắp mười phương, các vị La-hán có sáu phép thần thông, mời tất cả về tụ họp ở chỗ hai cây Sa-la tại cõi Diêm-phù-đề này. Đức Phật Thích-ca-mâu-ni đã nhập diệt, đã xây nên tháp thất bảo. Lần kết tập này cốt để diễn dương chân tính của Pháp thân. Chư vị hãy kết tập để thâu thập pháp ngôn vi diệu.”
Khi ấy, năm trăm vị La-hán vâng lời của Đại Ca-diếp, trong khoảnh khắc ngắn ngủi như co duỗi tay, liền đến hà sa thế giới khắp mười phương, triệu tập được 8 ức 8 nghìn vị La-hán cùng về tụ họp ở thế giới Ta-bà để nghe nhận pháp chỉ.”
Lại nữa, luật Tăng-chi nói: “Bấy giờ, đại Ca-diếp bảo: “Các Tỳ kheo phải kết tập Pháp tạng, đừng để hủy diệt.” Mọi người muốn đến chỗ khác kết tập. Ca-diếp bảo: “Nên ở tại thành Vương-xá. Ở đó có đủ năm trăm đồ ngủ.” Mọi người đều đồng ý. Bèn sai A-na-luật giữ gìn xá-lợi của Đức Phật, không cho chư Thiên lấy đi.
Vào thời quá khứ, khi Đức Phật Ca-diếp nhập diệt, các đệ tử chỉ biết âu sầu, không hay chư Thiên mang xá lợi đi mất, khiến cho tất cả thế gian không được thờ phụng.
*
Bấy giờ, A-nan không đi theo. Ca-diếp bèn cùng một ngàn người đến núi Sát-đế, trưng bày xá-lợi của Đức Phật. Mục-liên an vị xong, Ca-diếp bắt đầu kết tập suốt 4 tháng. Cắt dứt mọi nhân duyên với bên ngoài. Còn thiếu hai người, chưa đủ số năm trăm. A-na-luật lại đến. Vẫn còn thiếu một người Ca-diếp liền bảo Mục-liên cùng đi.
Ca-diếp dặn đệ tử là trưởng lão la-hán Lê-bà-đề: “Ông hãy lên Trời Tam thập tam gọi La-hán Đề-na xuống đây!” La-hán Lề-bà-đề nghe tin Đức Phật nhập diệt, không nỡ nhìn thấy cảnh ngài ra đi, nên đã nhập nước rồi. Sau đó, lại sai đến Thiên cung Thi-lợi-sa-sí, gọi La-hán Kiêu-phạm-ba-đề và đến Thiên cung Tỳ-sa-môn triệu La-hán Tu-mật đa, nhưng cả hai vị này đều đã nhập diệt.”
Lại nữa, kinh Bồ tát-xử-thai nói: “Bấy giờ, Ca-diếp thấy đại chúng đã tụ tập xong, liền bảo Ưu-bà-ly: “Ông hãy làm Duy-na, gọi A-nan xuống đây.”
Ưu-bà-ly nhận lệnh, lập tức gọi A-nan xuống. Phạt A-nan về tội không cầu xin Đức Phật trụ thế thêm nữa. A-nan hoang mang, trong lòng tự nghĩ: “Đức Phật nhập diệt chưa được bao lâu, đã làm nhục ta thế này! Bèn tư duy về Tứ đế, lập tức chứng được quả A-la-hán ngay trước đại chúng. Mọi bụi trần đều tiêu tan, rỡ ràng đại Ngộ. Các Thánh khen ngợi, chư Thiên ca tụng.
*
Bấy giờ, mặt đất chấn động liên tục sáu lượt. Ca-diếp khiến A-nan bước lên bảo tọa thất bảo trên cao, bảo rằng: “Những gì Đức Phật thuyết pháp, dù một lời một chữ, ông chớ để thiếu sót! Bồ tát tạng kết tập một chỗ. Thanh văn tạng kết tập một chỗ. Giới luật tạng kết tập một chỗ. Bấy giờ, A-nan bắt đầu đề xuất kinh điển.
- Thứ nhất là Thai hóa tạng.
- Thứ hai là Trung âm tạng.
- Thứ ba là Ma-ha diễn phương đẳng tạng.
- Thứ tư là Giới luật tạng.
- Thứ năm là Thập trụ Bồ tát tạng.
- Thứ sáu là Tạp tạng.
- Thứ bảy là Kim cương tạng.
- Thứ tám là Phật tạng.
Đấy là đầy đủ toàn thể kinh điển của Đức Phật Thích-ca văn. Bấy giờ, A-nan cất tiếng nói rằng: “Ta nghe như thế này”, đồng thời nói ra chỗ Đức Phật thị hiện thuyết pháp. Ca-diếp và tất cả Thánh chúng đều rơi lệ khóc lóc bi ai, không dằn lòng được. Thấm thoát già chết đến nơi, như huyễn hóa. Mới đây, vừa thấy Đức Phật, vậy mà đã nói: “Ta nghe!”
*
Lại nữa, luật Tứ phần nói: “Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn trong rừng Sa-la tại thành Câu-thi nước Mạt-la. Các đệ tử Mạt-la tắm rửa xá lợi của ngài rồi cử hành nghi thức hỏa thiêu.
Khi đã xong xuôi, Đại Ca-diếp nhân đó, tập họp các Tỳ kheo, tuyên bố rằng: “Hôm nay chúng ta nên cùng nhau giảng luận pháp tỳ-ni, đừng để những kẻ ngoại đạo có lời đàm tiếu phép tắc của Sa-môn Cù-đàm mỏng manh như mây khói. Khi Đức Thế Tôn của họ còn trụ thế thì cùng nhau học tập giới luật. Sau khi ngài nhập diệt đến nay, chẳng còn ai học tập nữa. Các vị trưởng lão nên lựa chọn những Tỳ kheo thông thái, sáng suốt, xứng đáng là những A-la-hán.”
Lựa chọn được bốn trăm chín mươi chín vị đều là những A-la-hán có đầy đủ phẩm chất.
Các Tỳ kheo bảo rằng: “Nên lựa chọn A-nan vào trong số này.”
Đại Ca-diếp bảo: “Không được chọn A-nan vào. Tại sao? Vì A-nan còn yêu, ghét, sợ sệt, sân si nên không được chọn vào.”
Các Tỳ kheo lại bảo rằng: “A-nan là thị giả của Đức Phật, thường đi theo bên cạnh ngài. Chính mình được thọ lãnh pháp ngữ của ngài. Chắc hẳn những chỗ hoài nghi đều đem hỏi lại nơi ngài. Vì thế, nên cho tham dự vào số ấy.”
Đại Ca-diếp bèn cho tham dự vào hàng ngũ ấy.
*
Các vị Tỳ kheo đều suy nghĩ: “Chúng ta sẽ kết tập ở đâu có nhiều thức ăn, không thiếu đồ ngủ để giảng luận giới luật?” Tất cả đều phát biểu: “Duy thành Vương-xá có nhiều phòng ốc thực phẩm và đồ ngủ. Nay chúng ta nên cùng nhau kết tập ở đó để giảng luận giới luật. Đại Ca-diếp bèn công bố lệnh kết tập tại thành Vương-xá.
Khi ấy, A-nan đang tĩnh tư trên đường đi, trong tâm suy nghĩ: “Giống như con nghé mới sinh, còn phải bú sữa và chạy theo năm trăm con trâu lớn. Ta nay cũng thế. Đã là trí giả có chủ trương còn phải đi theo năm trăm A La-hán!”
Các vị trưởng lão đến Tỳ-xá-ly. A-nan cũng ở đó. Khi ấy, các vị trong đạo ngoài đời đều đến thăm hỏi A-nan, tụ họp rất đông. Bấy giờ, có Tỳ kheo Bạt-xà-tử chứng được thần thông quảng đại, có Thiên nhã biết rõ tâm trí kẻ khác. Vị này muốn biết A-nan còn dục chăng, liền quan sát và biết A-nan chưa đạt mức vô dục. Cần phải giúp cho A-nan sinh tâm chán nản xa lìa dục vọng, liền nói kệ rằng:
Tĩnh tọa dưới gốc cây,
Tâm niệm đến Niết-bàn,
Tọa Thiền đừng phóng dật,
Nói nhiều được gì đây?
A-nan nghe nói kệ xong, liền ở riêng, tinh tiến không phóng túng, tịch lặng vô dục. Lúc ở ngoài trời, đang đi tản bộ giữa đêm khuya, bình minh sắp ló dạng, thân thể hết sức mỏi mệt. Vừa mới dựa mình nằm xuống, đầu chưa đụng gối, ngay lúc ấy, liền chứng được quả giải thoát vô lậu. Đó là pháp A-nan chưa đắc.
*
A-nan chứng được quả A-la-hán xong, bèn nói kệ rằng:
Nghe đủ các Pháp bảo,
Thường hầu cận Thế tôn,
Đoạn tuyệt xong sinh tử,
Cù-đàm nay muốn ngủ.
Khi đại Ca-diếp tập họp các Tỳ kheo tăng đông đủ, liền tuyên bố kết tập giảng luận giới luật. Bấy giờ, A-nan từ chỗ ngồi đứng lên, bày vai bên phải, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay bạch Đại Ca-diếp rằng: “Chính tôi nghe từ Đức Phật và ghi nhớ gìn giữ lời ngài.”
Rồi bắt đầu từ thiên thứ nhất cho đến tất cả mọi phẩm thứ của các bộ luật Tăng nhất đều kết tập thành Luật tạng. A-nan kết tập tất cả những kinh dài thành Trường-A-hàm. Tất cả những kinh trung bình thành Trung-a-hàm. Từ một sự kiện đến mười sự kiện, từ 10 sự kiện đến mười một sự kiện thành Tăng-nhất-A-hàm. Kết tập những sự kiện loạn tạp loại thành Tạp-A Hàm. Như kinh mới, kinh gốc cho đến kinh kệ đều kết tập thành Tạp Tạng. Có vấn nạn, không vấn nạn, kèm theo những loại làm được tương đương như thế, kết thành Luận tạng.
Lúc ấy bèn kết tập thành Tam tạng tại thành Vương-xá. Vì có năm trăm vị A-la-hán cùng kết tập Luật tạng, nên mới gọi là Kết tập Luật tạng có năm trăm người.
Kết tập Kinh Điển lần 3: Kết tập một ngàn người.
Theo luận Trí-độ nói: “Bấy giờ, Đức Phật đã nhập Niết-bàn, đại Ca-diếp suy nghĩ thế này: “Ta phải làm sao cho thời kỳ thứ ba dài vô số này, vốn khó gặp được Phật pháp, trụ thế lâu bền. Ngõ hầu chúng sinh mai sau có thể phụng trì? Suy nghĩ xong xuôi, liền đứng trên đỉnh núi Tu-di, đánh kiền chùy đồng lên và nói kệ rằng:
Đệ tử của Đức Phật,
Nên nhớ đến Đức Phật,
Phải báo ơn Đức Phật,
Đừng vội nhập Niết-bàn.
Tiếng kiền chùy đồng ấy đưa âm thanh của Đại Ca-diếp vang dội khắp Đại thiên thế giới. Tất cả đều nghe biết. Các đệ tử có thần thông cùng đến tụ họp. Đại Ca-diếp lựa chọn được một ngàn người. Trừ A nan, tất cả đều là A-la-hán thông thạo nội điển, ngoại điển, mười tám loại kinh lớn của hàng ngũ ngoại đạo và có khả năng biện luận, hàng phục tà giáo.
Đại Ca-diếp bảo: “Trước đây, ta thường đi khất thực, hay gặp kẻ ngoại đạo cố ý đến vấn nạn, khiến phải bỏ dơ pháp sự. Nay thành Vương-xá đã thường xuyên cúng dường đủ cho một ngàn người ăn. Không nên lấy nhiều hơn. Hãy báo cho vua A-xà-thế cung cấp thức ăn cho chúng ta. Hằng ngày mang đến đều dặn, không để sai khác.”
Đại chúng an cư suốt trong ba tháng mùa Hạ này. Mười lăm ngày đầu kết tập giảng luận giới luật. Đại Ca-diếp nhập Định xong, dùng Thiên nhãn quán sát đại chúng, xem ai còn phiền não chưa trừ, cần phải trục xuất. Chỉ có một mình A-nan chưa sạch phiền não. bốn trăm chín mươi chín vị còn lại, mọi phiền não đã hết, thanh tịnh vô cấu.
*
Đại Ca-diếp liền xuất Định lấy tay kéo A-nan ra khỏi đại chúng bảo rằng: “Hôm nay, đại chúng thanh tịnh kết tập kinh tạng. Phiền não của ông chưa hết không được ở đây.”
Bấy giờ, A-nan quá xấu hổ, buồn rầu khóc lóc và suy nghĩ rằng: “Suốt hai mươi lăm năm, ta theo hầu cận bên Đức Thế Tôn, chưa từng nghe những lời gây nên khổ não đến thé. Đức Phật thật là một bậc đại nhân, đại từ, đại nhẫn!” Rồi bạch Đại Ca-diếp rằng: “Tôi có khả năng đắc Đạo đã lâu, chẳng qua giới luật không cho phép La Hán hầu hạ cung phụng nên mới lưu lại kết tập phiền não, không đoạn trừ sạch mà thôi.”
Đại Ca-diếp bảo: “Ông cũng có tội. Đức Phật không muốn cho nữ giới xuất gia. Ông cứ năn nỉ cầu xin. Đức Phật phải xiêu lòng chấp thuận. Vì thế, Chánh pháp của ngài lưu truyền năm trăm rồi sẽ suy vi. Ông phải đi sám hối tội nhỏ này!”
A-nan bạch rằng: “Vì tôi thương xót Cù-đàm-di. Vả lại, Chư Phật ba đời đều có đủ Tứ chúng. Tại sao Đức Phật Thích-ca của chúng ta lại không thể có được?
Đại Ca-diếp lại bảo: “Khi Đức Phật sắp nhập Niết-bàn gần thành Câu-di-na-kiệt, ngài bị đau lưng, gấp áo giữa kê lên nằm nghỉ. Ngài bảo ông: “Ta muốn uống nước.” Ông không chịu đi lấy. Đấy là một tội nhỏ.
A-nan trả lời: “Bấy giờ, có năm trăm chiếc xe chạy qua sông làm cho nước đục bẩn lên. Vì thế, tôi mới không đi lấy nước cho ngài.”
*
Đại Ca-diếp lại bảo: “Dù cho nước đục bẩn, nhưng Đức Phật có thần thông quảng đại, có thể biến nước biển lớn từ đục hóa thành trong kia mà! Tại sao ông không chịu đi lấy cho ngài? Đấy là tội của ông. Ông phải sám hối tội nhỏ này.”
Đại Ca-diếp lại bảo: “Đức Phật hỏi ông rằng, nếu có người được bốn phép thần thông, khéo tu, có thể thọ một kiếp hay gần một kiếp. Như Lai có bốn phép thần thông, khéo tu, có thể thọ một kiếp hay gần một kiếp chăng? Ông im lặng, không trả lời. Ngài hỏi ông đến ba lần, ông cố ý im lặng. Nếu ông trả lời, ngài có thể thọ một kiếp hay gần một kiếp. Vì ông, nên ngài đã sớm nhập Niết-bàn. Ông phải đi sám hối tội nhỏ này.”
A-nan bạch rằng: “Do ma chướng che lấp tâm trí, nên tôi đã im lặng. Chẳng phải tôi có ác tâm không trả lời ngài.”
Đại Ca-diếp lại bảo: “Ông xếp giúp áo cà sa cho Đức Phật, lấy chân dẫm lên. Đấy là tội của ông. Ông phải đi sám hối tội nhỏ này.”
A nan bạch rằng: “Bấy giờ, có cơn gió lớn nổi lên. Không ai giữ dùm cho tôi. Khi gió thổi đến, áo rơi xuống chân tôi. Không phải tôi bất kính, cố ý dẫm chân lên áo của ngài.”
Đại Ca-diếp lại bảo: “Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn, ông đem tướng tốt âm vật giấu kín của ngài cho các người nữ xem. Thật đáng sỉ nhục vô cùng! Ông phải sám hối tội nhỏ này.”
*
A-nan bạch rằng: “Bấy giờ, tôi có suy nghĩ, nếu các người nữ thấy được tướng tốt âm vật giấu kín của ngài, họ sẽ tự hổ thẹn thân phận người nữ của họ và mong có thân tướng của người nam, tu hành đủ loại căn lành như ngài. Vì thế, tôi đã đem cho các người nữ xem, chứ không làm điều vô sỉ phá giới.”
Đại Ca-diếp bảo: “Ông có sáu loại tội nhỏ này, cần phải đi sám hối tất cả giữa đại chúng.”
A-nan bạch rằng: “Vâng! Xin theo lời chỉ dạy của Trưởng lão Đại Ca-diếp và tăng chúng.”
Ca-diếp bèn quỳ dài, chắp tay, bày vai bên phải, lột dép da, thực hiện sáu phép sám hối tội nhỏ. Đại Ca-diếp lấy tay kéo A-nan ra khỏi tăng chúng, miệng bảo A nan rằng: “Khi nào trừ sạch phiền não, mới được đến gia nhập. Kết tập chưa hết, ông đừng đến đây!”
Nói xong, liền tự tay đóng cửa lại. Bấy giờ, các vị La-hán bàn luận rằng: “Ai là người có khả năng kết tập được Luật tạng?”
Trưởng lão A-nê-lô-đậu nói: “Xá-lợi-phất là Đức Phật thứ hai, có đệ tử tên Kiêu-phạm-ba-đề (Ngưu-si) ôn hòa nho nhã, sinh hoạt thanh nhàn, giữ tâm tịch lặng, hiểu rành Luật tạng. Hiện đang ở trên trời, trong vườn cây Thi-lợi-sa. Hãy sai sứ giả lên mời về đây.”
Đại Ca diếp bảo Tỳ kheo bậc dưới: “Phẩm bậc của ông thích hợp làm sứ giả cho tăng chúng.”
Vui mừng hớn hở nhận lãnh sứ mệnh của tăng chúng, Tỳ kheo bậc dưới ấy bạch Đại Ca-diếp rằng: “Tôi đến đó trình bày chuyện gì?”
*
Đại Ca-diếp bảo: “Ông đến đó xong, hãy bạch với Kiêu-phạm ba-đề rằng, các La-hán vô lậu Đại Ca-diếp cùng kết tập tăng chúng tại Diêm-phù-đề vì có Phật sự. Ngài nên mau mau đến cho.”
Tỳ kheo cấp thấp dập đầu đảnh lễ tăng chúng, từ bên phải đi quanh ba vòng, rồi như chim kim-sí bay vút lên hư không, đến ngay chỗ Kiêu-phạm-ba-đề. Dập đầu đảnh lễ dưới chân, bạch lại cùng Kiêu-phạm-ba-đề lời Đại Ca-diếp đã dạy. Kiêu-phạm-ba-đề lòng chợt sinh nghi, hỏi Tỳ kheo ấy: “Tăng chúng hòa thuận, sao đến gọi ta? Chẳng có tăng phá giới chăng?”
Tỳ kheo ấy trả lời: “Đức Phật đã nhập diệt rồi!”
Kiêu-phạm-ba-đề bảo: “Đức Phật nhập diệt quá nhanh! Hai mắt thế gian đã mất! Vị thống tướng kế tiếp Đức Phật để chuyển pháp luân, Hòa thượng Xá Lợi Phất của ta hiện nay ở đâu?”
Đáp rằng: “Đã nhập Niết-bàn trước rồi.”
Kiêu phạm-ba-đề bảo: “Các vị thống tướng đại sư đều đã ra đi. Biết làm sao đây! Ma-ha-mục-liên hiện nay ở đâu?”
Đáp rằng: “Vị này cũng đã nhập diệt.”
Kiêu-phạm-ba-đề bảo: “Phật pháp sắp tiêu tan. Chúng sinh thật đáng thương! Các vị đại sư đều đã ra đi.”
Cứ thế, lần lượt hỏi thăm các vị La-hán xong, Kiêu-phạm-ba-đề bảo: “Ta đã mất các vị đại sư lìa dục. Các ngài đã cùng nhập diệt hết rồi. Ta không trở lại Diêm-phù-đề. Ở đây để nhập Niết-bàn.
*
Nói xong, thi triển đủ 18 phép thần thông biến hóa, từ nội tâm phát lửa tự thiêu, thành 4 dòng nước đổ xuống bên đại Ca-diếp. Trong đó phát ra tiếng kệ nói rằng:
Kiều-phạm-ba-đề dập đầu lễ,
Đệ nhất cao tăng của đại chúng,
Nghe Phật nhập diệt, tôi đi theo,
Giống voi chúa đi, voi con theo.
Bấy giờ, Tỳ kheo bậc dưới mang y bát trở về, đem mọi chuyện cáo bạch cùng chúng tăng.
Khi ấy, A-nan đang tư duy các pháp, mong sao trừ sạch kết tập. Đêm ấy, ngồi Thiền xong, đi tản bộ, tinh thành cầu Đạo. Chỉ hiềm trí tuệ của A-nan nhiều mà Định lực ít, nên không thể lập tức thành Đạo. Đêm sau sắp tàn, A-nan mệt mỏi quá, muốn nghỉ ngơi, bèn nằm xuống. Đầu chưa chạm gối, bỗng nhiên đại ngộ, như luồn điện chớp, khiến người trong tối thấy đường. Liền nhập Định kim cương, phá tan mọi núi phiền não. Vừa chứng được Lục thông, đang đêm A-nan đến tăng đường lên tiếng gõ cửa.
Đại Ca-diếp hỏi ra: “Ai gõ cửa đấy?”
Đáp: “là A-nan tôi đây.”
Đại Ca-diếp bảo: “Ông đến làm gì?”
A-nan đáp: “Đêm nay, tôi đã trừ sạch mọi phiền não.”
Đại Ca-diếp bảo: “Không mở cửa cho ông đâu! Hãy theo lỗ khóa mà vào.”
A-nan đáp: “Cũng được.”
Rồi lập tức dùng thần lực luồn theo lỗ khóa vào phòng, lễ bái dưới chân Đại Ca-diếp xin sám hối.
*
Đại Ca-diếp chẳng trách móc gì nữa, lấy tay xoa lên đầu A-nan bảo rằng: “Ta cố ý giúp cho ông được đắc Đạo. Xin ông chớ giận hờn. Ta cũng thế, dùng ông để tự chứng Đạo. Như lấy tay vẽ giữa không trung, chẳng thể đụng chạm vào đâu. Tâm của A-la-hán cũng thế, trong tất cả các pháp, phải đạt được cảnh giới không chấp trước vào pháp nào cả. Ta phục hồi cho ông lại phẩm bậc như cũ.”
Bấy giờ, tăng chúng lại bàn bạc rằng: “Kiêu-phạm ba-đề đã nhập diệt. Liệu ai có thể kết tập kinh tạng?”
Trưởng lão A nê-lô-đậu bảo: “Trưởng lão A-nan này, trong hàng ngũ đệ tử của Đức Phật, thường hầu hạ cận kề. Nghe kinh nhớ giỏi. Đức Phật hay khen ngợi. Trưởng lão A-nan nầy có thể kết tập kinh tạng.”
Trưởng lão Đại Ca-diếp xoa đầu A-nan bảo rằng: “Đức Phật trăn trối với ông, khiến giữ gìn Pháp tạng. Ông nên báo đền công ơn của ngài. Ngài thuyết pháp lần đầu tiên ở đâu, các đệ tử có khả năng giử gìn Pháp tạng đều nhập diệt hết, chỉ còn lại một mình ông. Nay ông nên vâng theo tâm nguyện của ngài và thương xót chúng sinh, cố gắng kết tập Pháp tạng.”
Liền đó, Đại Ca-diếp nói kệ rằng:
Phật là sư tử chúa,
A-nan là đệ tử,
Ngồi trên ngai sư tử,
Đại chúng không có Phật,
Đại chúng đức lớn lao,
Không Phật giảng thần uy,
Như đêm không có trăng,
Bầu trời chẳng trong sáng,
Các trưởng lão đều nói:
Ông, con Phật, nên giảng,
Phật thuyết pháp ở đâu,
Nên đem ra bố thí.
*
Bấy giờ, trưởng lão A-nan dốc lòng, chắp tay, nhìn về chỗ Đức Phật nhập Niết-bàn, vừa nói kệ rằng:
Khi Phật mới thuyết pháp,
Bấy giờ, ta chưa thấy,
Dần dần chuyển đến nghe.
Phật tại Ba-la-nại,
Giúp cho năm Tỳ kheo,
Lần đầu ban sữa pháp,
Diễn giảng Tứ diệu đế,
Là Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
A-nhược, Kiều-trần-như,
Trước tiên được thấy Đạo,
Và tám vạn Thiên chúng,
Nghe xong, được thấy Đạo.
Tất cả một ngàn vị La-hán ấy nghe xong lời kệ này, liền bay vút lên giữa hư không, cao ngang bảy ngọn cây Đa-la, cùng cất tiếng nói rằng: “Hỡi ôi! Sức mạnh của Vô thường lớn lao đến thế! Chúng ta vừa tận mắt chứng kiến Đức Phật thuyết pháp, vậy mà nay đã nói” Ta nghe! Rồi nói kệ rằng:
Ta thấy sắc tướng Phật,
Giống như núi vàng tía,
Sắc tướng trang nghiêm mất,
Duy chỉ danh hiệu còn,
Thế nên cần cố gắng,
Thoát ly khỏi tam giới.
Siêng năng gom công đức,
Niết-bàn rất an vui.
Bấy giờ, trưởng lão A-nê-lô-đậu nói bài kệ này:
Thế gian thật quá vô thường,
Như tàu chuối héo, như gương trăng tà,
Tam giới công đức chứa chan,
Vô thường nối gió, tiêu tan chẳng còn.
Bấy giờ, Đại Ca-diếp lại nói kệ rằng:
Sức vô thường rất lớn,
Hiền ngu, giàu nghèo, sang,
Đạt Đạo và chưa đạt,
Tất cả đều chẳng thoát,
Không mồm mép, châu báu,
Không lừa dối, cãi vả,
Lửa thiêu vật hữu,
Vô thường, chết, cũng thế!
Kết tập Kinh Điển lần 4: Kết tập có bảy trăm người.
Luật Tứ-phần nói: “Sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt khoảng một trăm năm, Tỳ kheo Bạt-xà-tử ở thành Tỳ-xá-ly tự ý làm mười điều, bảo rằng: “Các pháp thanh tịnh này đều được Đức Thế Tôn cho phép:
- Được phép thọ trai khi mặt trời đã xế khoảng hai ngón tay.
- Sau khi ăn ở làng xóm này xong, được phép sang làng xóm khác tiếp tục ăn uống.
- Được phép Bố-tát ở một chùa khác không thuộc giáo phận của mình.
- Khi họp bàn quyết định tăng sự, dù tăng số tham dự chưa đủ, vẫn được phép cử hành yết-ma rồi sẽ xin thừa nhận sau.
- Được phép tùy tiện theo các điều lệ.
- Sau khi ăn no, được phép dùng sữa bò chưa gạt bỏ chất béo.
- Được phép để dành muối trong đồ đựng bằng sừng cho hôm sau.
- Được phép uống nước dừa lên men rượu.
- Được phép may tọa cụ không có đường viền, lớn nhỏ tùy tiện.
- Được phép thọ nhận vàng bạc. Vào dịp Bố-tát, thí chủ cúng dường vàng bạc xong, được phép chia đều cho nhau.”
Vì chuyện này, đã có một Kết tập chọn lọc, đối chiếu, khảo xét từng điều, thậm chí tất cả mười điều, đều sai trái, không đúng giới luật, không phải là lời của Đức Phật dạy. Đã được bỏ thăm biểu quyết tại thành Tỳ-xá-ly. Vì kết tập này có bảy trăm vị A-la-hán cùng giảng giới luật, nên gọi là Kết tập giới luật có bảy trăm người.
Các Kỳ Kết Tập Kinh Điển: Khảo cứu thêm của Đạo Tuyên Luận Sư
Theo sách Cảm-thông-ký của luật sư Đạo Tuyên nói rằng: “Luật sư hỏi Thiên nhân: “Sau khi Đức Thế Tôn nhập diệt, nghi thức kết tập Pháp tạng được cử hành như thế nào?”
Thiên nhân đáp: “Chỉ có bậc đại Thánh năng biến, năng hiện, theo cơ duyên giáng sinh, nhập diệt. Khi kết tập Tam tạng Thánh tích, do số lượng Tỳ kheo tham dự nhiều ít, nên kết tập Luật tạng, Luận tạng cũng chẳng giống nhau. Như trong hai Kết tập Luật tạng năm trăm người và bảy trăm người, đều suy tôn Đại Ca Diếp làm bậc Thượng thủ. Trong Đại kết tập Luận tạng, tuyển chọn một ngàn người cao cấp, đều là những bậc Vô học thượng thừa. Đến khi kết tập xong xuôi, liền triệu tập đại chúng để trình bày lại thành quả kết tập. Vì có những kẻ bất đồng ý kiến, nên mới chia ra hai Bộ: những vị tuân theo đại Ca-diếp gọi là Thượng tọa bộ. Số còn lại đông hơn gọi là Đại chúng bộ.”
Theo kinh Văn-thù-vấn, bắt đầu chia ra hai Bộ, chính là từ sự kiện ấy. Kết tập Tam tạng lớn nhỏ, đều do A-nan đề xuất ra. Chỗ cùng nhau kết tập là thành Vương-xá. Nhưng căn cứ theo sự kiện Văn-thù tụ tập đại chúng kết tập sơ lược Đại thừa, thì tại chính giữa phía ngoài hai ngọn núi Đại Thiết vi. Nay nói rõ phần nghi thức kết tập. Khi Đức Phật nhập diệt, quàn lại một tháng để thờ cúng xá-lợi rồi mới làm lễ hỏa thiêu (theo luật, chỉ quàn lại bảy ngày, nhưng vì còn chờ đại Ca-diếp về). Hỏa thiêu xong trong ngày rồi tôn trí vào bảo tháp.
*
Tất cả đại chúng đều đến tinh xá Kỳ-hoàn ở thành Xá-vệ. Tôn giả Ca-diếp sai Tiểu Mục-liên (có sáu vị cùng tên và đều có thần thông quảng đại) đánh chuông tập họp tại giới đàn. Bấy giờ, tăng chúng Thánh phàm của hằng trăm ức vạn quốc độ đều tề tựu đông đủ. Tôn giả Ca-diếp bèn cáo bạch 4 phép Yết-ma, phạt Tân-đầu-lô và A-nan xong. A-nan bước lên tòa cao, mặc áo ca sa bằng sợi gai của Đức Phật. Trước tiên, tuyên đọc kinh Di-giáo, pháp ngôn giáo hóa ân cần, như Đức Phật hãy còn tại thế. Các vị Đại Bồ tát, A-la-hán, tất cả Tỳ kheo, Thiên long bát bộ nghe xong, đều đau buồn khóc lóc, không dằn lòng được.
Bấy giờ, Đại Ca-diếp đứng lên khỏi chỗ, mặc áo cà sa bằng sợi gai, tay cầm tọa cụ, đến trước tòa cao trải xuống. Đảnh lễ A-nan xong, từ bên phải đi quanh ba vòng rồi đứng lại. Thiên vương Đại Phạm tay cầm tràng phan thất bảo che cho A-nan. Đế-thích mang bàn thất bảo đặt trước A-nan. A-tu-la chúa La-hầu-la bưng lò hương thất bảo đứng trước A-nan. A-nan nhận lấy, đặt lên trên bàn. Thiên vương Tha Hóa đưa ghế thất bảo đến đặt sau bàn thất bảo. Ma vương Ba-tuần cầm phất trần thất bảo trao cho A-nan, rồi cùng Đế-thích đứng hầu hai bên. Bốn Thiên vương đều đứng đầu bốn góc tòa cao. 32 vị sứ giả sắp hàng phía sau Đại Ca-diếp. Tất cả đều nghiêm cẩn quỳ xuống kính nghe.
*
Khi ấy, Đại Ca-diếp đảnh lễ A-nan xong, lại theo bên phải đi quanh ba vòng, đến trước mặt thỉnh an, giống như đối với Đức Phật không khác. Sau đó mới đặt câu hỏi như các như các kinh có nói. Mỗi một nghi thức đều theo đúng trong kinh. Bắt đầu như thế, cho đến phần cuối, đại chúng hoan hỷ tuân hành.
Bấy giờ, Đại Ca-diếp lại hỏi rằng: “Trong giáo pháp của chư Phật thời quá khứ đều được chia thành từng Bộ để diễn giảng. Ông thường đến bên cạnh Đức Phật, hẳn phải nhận lời chỉ giáo?”
A-nan đáp rằng: “Tôi vâng lời dạy của Đức Phật: “Chúng sinh vào thời mạt pháp, kết tập phiền não nặng nề, không hiểu được giáo lý của ta, nên không thể chia thành từng bộ để diễn giảng. Ông phải chia thành chương để thuyết pháp. Hoặc mười chương, năm chương, tùy tiện xếp đặt, sao cho những kẻ độn căn hiểu được dễ dàng giáo lý của ta.”
Đại Ca-diếp lại hỏi: “Khi Đức Phật còn tại thế, có bảo Ưu-ba-ly và Ca-diếp ấy vào trong tòa bảo lâu phía Đông tinh xá Kỳ-hoàn, xem xét Luật tạng của chư Phật thời quá khứ và các bản khác nhau. Nay ta muốn kết tập, nên theo lời chư Phật thời xưa hay theo lời chư Phật thời hiện tại?”
*
A-nan đáp rằng: “Ta nghe Đức Phật nói: “Hãy bảo lại với Ca-diếp rằng, nếu muốn kết tập Luật tạng, phải chia thành năm bộ. Luật tạng của chư Phật ngày xưa nói ra, chỉ có một bộ, chứ không phải là hai. Chúng sinh hiện tại phúc mỏng, nên phải nói thành năm bộ. Sau khi ta nhập diệt, vô luận kẻ trí người ngu, phải chia giới luật của ta thành năm bộ, 10 bộ thậm chí năm trăm bộ. Dù ý vị đạm bạc, nhưng vẫn còn là Chánh pháp của ta.”
Bấy giờ, Đức Phật bảo Bốn Thiên vương: “Ông cúng dường mã não cho ta.”
Lại bảo Đế-thích: “Ông cúng dường vàng bạc cho ta.”
Lại bảo Ma vương Phạm vương: “Ông cúng dường thợ Trời cho ta.”
Lại bảo các Long vương Tu-cát và A-tu-la chúa La-hầu: “Các ông cúng dường những loại ngọc quý Minh nguyệt và Ma-ni cho ta để làm đèn thắp sáng bảo tháp.”
Các Thiên vương Long vương vâng lời, đều dâng tặng đủ. Đức Phật thọ nhận xong, vận dụng thần lực của ngài, chỉ trong khoảnh khắc một niệm, các bảo tháp đều được hoàn thành. Mặt đất chấn động sáu lần. Bảo tháp phóng hào quang lớn, từ núi Hương chiếu thẳng đến giới đàn, hóa thành đền đài vàng bạc. Trên đài là đỉnh, trong đó có hằng trăm ức Đức Phật thuyết pháp vi diệu cao xa, ca tụng công đức trì giới và chê bai những kẻ phá giới.
*
Đức Phật bảo A-nan: “bảo tháp ở trên hiện đang ở tại núi Hương, nên khi ta nhập Niết-bàn, có dặn dò Đế-thích và Bốn Thiên vương rằng, khi ta đã nhập Niết-bàn xong, hãy mang bảo tháp đến ngoài rừng phía Nam giới đàn, tôn trí chín mươi ngày, đợi đến khi Ca-diếp kết tập xong xuôi. Trước tiên, sai Ca-diếp chép thành bản gốc Tam tạng giáo pháp. Sau đó, sai vua A-xà-thế sao lại thành năm bản. Lấy ấn vàng ròng và ấn bạc trắng của ta đóng lên bản gốc của Ca-diếp.
Kế đó, đóng lên bản của Ma vương sao lại. Phạm vương sao lại ba bản, nên lấy ấn bạc trắng đóng lên. Đế-thích sao lại bảy bản, nên lấy ấn vàng ròng đóng lên. Long vương Ta-kiệt chép tám vạn bản kinh, đều nên lấy ấn tam sắc đóng lên rồi sau đem lưu hành ở cọi Diêm-phù-đề và ba Châu kia. Nhớ đóng ấn vào. Sau khi đã đóng ấn xong, đem ấn cất vào bình vàng, tôn trí tại phía Nam giới đàn, cốt giúp Ca-diếp tập văn nghĩa Tam tạng giáo pháp sao cho thành tựu viên mãn và mong A-nan nói kinh theo nhân duyên vấn nạn đừng bị quên sót. Vì hai sự kiện này, nên ta mới sai đem trấn giữ tại phía Nam giới đàn.
*
Sau khi Ca-diếp nhập định, Bốn Thiên vương và Đế-thích mang bảo tháp và bình vàng tôn trí trên đỉnh núi Hương. Trải qua một trăm năm, Bốn Thiên vương và Đế-thích hằng ngày nhớ đem Thiên nhạc đến cúng dường pháp bảo, để giúp những thần tiên có ngũ thông ở trong núi ấy, số lượng đông đến tám vạn, sẽ lần lượt làm tiểu vương tại cõi Diêm-phù-đề này, khiến cho những người không tín Chánh pháp trở thành có lòng tin, nên mới sai đem trấn giữ tại núi Hương. Hơn nữa, cũng để giúp vua A-dục, buổi đầu không tin Chánh pháp của ta, sẽ xoay chuyển lại tà kiến ấy, sinh ra chánh kiến, xây nên tám vạn bảo tháp.
Đức Phật lại bảo Mục-liên: “Ông lên đỉnh núi Tu-di đánh chuông triệu tập các hóa Phật khắp mười phương của ta và các Bồ tát, Thanh văn khắp Đại thiên thế giới.” Đức Phật phóng hào quang, mặt đất chấn động. Chư Phật tề tựu đông đủ.
Bấy giờ, Đức Phật đứng lên khỏi bảo tọa, cùng các vị hóa Phật chắp tay kính lễ cửa đền của bảo tháp. Cửa đền của bảo tháp liền mở ra. Trong bảo tháp bằng vàng ròng có tám vạn lầu đều bằng trân châu và bạc trắng đựng Kinh và Luật tạng của chư Phật. Trên nóc đền gắn châu ma-ni lớn làm đèn chiếu sáng. Có sáu vị Tỳ kheo nhập Định tận diệt. Trong đền bạc trắng có nhiều bảo tọa sư tử bằng hoa sen thất bảo, số lượng nhiều đến 8 trăm vạn. Mỗi một bảo tọa đều có chữ Phật, các Thanh văn và Bát bộ Thiên long hộ pháp. Lại có năm mươi vị Tỳ kheo nhập Định tận diệt.
*
Đức Phật bảo Phổ Hiền: “Ông cầm lấy tù-và bằng vàng ròng đến bên các Tỳ kheo thổi lên khúc ta xuất thế và báo tin ta nhập Niết-bàn.”
Phổ Hiền vâng lời thổi xong, Tỳ kheo ấy xuất Định tận diệt, hỏi Phổ Hiền: “Hiện nay, có Đức Phật nào xuất thế?”
Đáp rằng: “Đức Phật Thích-ca-mâu-ni hiện nay sắp nhập Niết-bàn.”
Tỳ kheo ấy liền cùng Phổ Hiền đến bên Đức Phật kính lễ, thỉnh an và đứng hầu một bên. Trong tháp có sáu Tỳ kheo bước lên bạch Đức Phật rằng:
“Khi Đức Phật câu-lưu-tôn nhập Niết-bàn, có dặn tôi ở trong tháp này chờ đợi Đức Phật Thích-ca cho đến Đức Phật Lâu-chí ra đời. Đức Phật ấy dạy tôi rằng, khi Đức Phật sau này ra đời, nhập diệt và kết tập Tam tạng, hãy mở đền, lấy ra một bản kinh và luật của ta. Trong hằng trăm ức quốc độ tại Đại thiên thế giới này của ta, thư pháp có sáu mươi bốn thể. Mỗi thể lấy một bản đem giáo cho Đức Phật ấy, dặn sau khi nhập diệt, kết tập Tam tạng xong, phải theo y bản kinh của ta, sao chép lại thật trang nghiêm.
Lại nữa, tùy theo thứ thể của các nước sử dụng khác nhau, nhưng văn tự được lưu truyền đều có thể dùng được. Chỉ trừ các thứ da, xương và đất, không được ghi chép. Ngoài ra, các loại lá, giấy lụa, quý kim, sắt đá đều có thể dùng đến. Đức Phật ấy khiến tôi nhập định, giữ gìn kim tượng và sai tôi giao phó lại cho Đức Thế Tôn sau khi nhập Niết-bàn, Ca-diếp kết tập Tam tạng xong xuôi, đem lưu hành khắp mọi quốc độ.”
*
Đức Phật bảo Long vương Ta-kiệt và Bốn Thiên vương: “Các ông cúng dường cho ta các loại trân châu, ma-ni và vàng bạc. Ta sắp tạo nên đền đài dựng kinh tượng của chư Phật đời trước.”
Bấy giờ, Thiên long bát bộ lập tức dâng tặng. Đức Phật thọ lãnh xong, liền vận dụng thần lực, chỉ trong khoảnh khắc một bữa ăn, đã hoàn thành tất cả điện đài trân châu và lầu đền vàng bạc trong bảo tháp. Mỗi thứ có tám vạn tòa đựng kinh tượng đời trước.
Đức Phật lại bảo các vị hóa Phật: “Mỗi vị các ông đều cúng dường cho ta một bảo tháp và một đền vàng bạc để trấn giữ di giáo của ta trong Đại thiên thế giới đừng bị phá hủy.”
Chư Phật nghe xong, đều hoan hỷ dâng tặng. Lại được hằng trăm ức vạn Đức Phật cùng phóng hào quang từ miệng, tất cả đều rất hoan hỷ.
Đức Phật lại bảo các Bồ tát: “Khéo léo duy trì bảo vệ đền đài bảo tháp của ta. Phiên dịch kinh điển, phải y theo bản văn trong đền tháp để lưu hành.”
Tất cả đền đài bảo tháp ấy đều ở tại đỉnh núi Hương. Khi Đức Phật nhập Niết-bàn, có dạy ta và La-vân ở đó trụ trì, sau này, nhằm đời hung ác, đem ra giáo hóa chúng sinh, khiến đều được thoát khổ. Xong xuôi, đem lên tôn trí trong vườn Hoan hỷ ở Thiên cung Đế-thích, đến khi Ma vương đến bảo tháp cúng dường suốt năm trăm năm. Sau đó, Chánh pháp sẽ lưu hành khắp các nước cho đến khi bị hủy diệt.
*
Bảo tháp cũng bay lên Thiên cung Đâu-suất Di-lặc thấy bảo tháp bay đến, biết rằng Chánh pháp của ta đã bị hủy diệt, liền phóng hào quang to lớn chiếu diệu khắp địa ngục. Về sau, gặp Phật Lâu-chí ra đời, tất cả tội nhân ở đấy đều được giải thoát. Qua khỏi thời kỳ ấy, bảo tháp sẽ từ Thiên cung Đâu-suất bay xuống long cung của Ta-kiệt. Còn các bảo tháp và điện đền do Đức Phật tạo nên, được giao phó cho Văn-thù, Phổ Hiền và Quán âm mang đi khắp Đại thiên thế giới. Mỗi nước tôn trí một bảo tháp vàng ròng và một đền bạc trắng giống như ở bên Trung Quốc vậy.
Bấy giờ, Văn-thù mang bảo tháp và đền sang tôn trí bên động Kim cương tại núi Thanh lương và được lưu hành đến hiện tại. Sai các Bồ tát nói trên đưa kinh tượng cho các vị ấy giữ gìn dễ dàng lưu hành cho đến khi Chánh pháp của ta bị hủy diệt, sẽ nhờ Long vương Ta-kiệt thâu thập bảo tháp, đền đài mang về Long cung ở dưới biển lớn.
*
Lại hỏi: “Tất cả Kinh Tạng đã kết tập, nên tôn trí ở nơi nào? Nay ta muốn kết tập, nên kết tập sâu rộng hay kết tập sơ lược? Xin ông lần lượt giải thích dùm cho.”
Đáp: “Ta nghe Đức Phật bảo rằng, dặn lại Ca-diếp kết tập sâu rộng. Ngài lại bảo, dặn Văn-thù đến chỗ các Bồ tát cư trụ tại núi Thiết vi, chín cõi ấy chỉ có tám vạn người, nên kết tập sơ lược. Dặn lại A-xà-thế sao thành năm bản và Đế-thích cùng Thiên vương Đại Phạm nên hổ trợ cho A-xà-thế chép lại kinh Di-giáo của ta. Bản kết tập của Ca-diếp, nên đem tôn trí trong động Tu-la.”
Lại hỏi: “Khi Đức Phật còn tại thế, ta có nghe từ ngài rằng, nếu kết tập xong, đem Tam tạng giáo pháp của ta giao phó cho Long vương Ta-kiệt. Nay nghe ông nói, tại sao khác với ta nghe trước đây?”
Đáp: “Ta nghe Đức Phật bảo, kết tập Tam tạng trong động Tu-la. Trải qua hai mươi năm, đợi Văn-thù kết tập xong xuôi, mới đem giao phó cho Long vương Ta kiệt.”
Lại hỏi: “Tại tinh xá Kỳ-hoàn có hình tượng các vị Phật thời xưa, Tam tạng giáo pháp viết hai mặt và các pháp khí thờ tự, phải đem giao phó cho ai?”
Đáp: “Nhân duyên của chuyện này, kinh Kỳ-hoàn-tinh xá-đồ đều có nói đủ. Mỗi thứ đều có chỗ để giao phó, không cần nói ra đây thêm phiền phức.”
*
Lại hỏi: “Ta nghe từ Đức Phật: “Sau khi nhập diệt, tất cả Luật tạng đem ra truyền bá ở Diêm-phù-đề và ba Châu kia. Chúng sinh vì tham dục, nên kiến giải không đều. Tại hơn trăm ức quốc độ khác, cũng cho truyền bá.” Ta sắp kết tập. Nay ở trước Trời người, ông nên giải đáp dùm ta.”
Đáp: “Ta vâng lời Đức Phật dạy: “Sau khi ta nhập diệt, ông bảo Ca-diếp và Văn-thù truyền bá Luật tạng khắp ba mươi hai nước thuộc cõi Diêm-phù-đề này. Chúng sinh ở đây đều có căn cơ to lớn, có thể thực hành được di giáo của Ca-diếp. Hai trăm sáu mươi nước thuộc cõi Đông Phất-bà-đề và một trăm ba mươi nước thuộc cõi Tây Cù-da-ni đều thực hành được di giáo của Ca-diếp. Quốc độ còn lại, chúng sinh mỏng manh phước, không hiểu được Chánh pháp, đừng truyền bá Luật tạng này. Sau khi Như Lai nhập diệt, trong khoảng bốn mươi năm, hãy đem lưu hành Nhị bộ khắp quốc độ này.”
Lại hỏi: “Thế nào là giáo pháp Nhị bộ?”
Đáp: “Ấy là luật Tứ-phần và luật Thập-tụng. bốn mươi năm sau, kéo dài ở nước này. Các nước như Trung Quốc, đáng gọi là nước quân tử, có căn cơ lanh lợi, có thể thực hành giáo pháp Tam bộ. Khắp bốn trăm lẻ ba quốc độ cùng chung một loại văn tự này, đều thực hành được giáo pháp Tam bộ.”
*
Lại hỏi: “Thế nào là giáo pháp Tam bộ?”
Đáp: “Thực hành giáo pháp Nhị bộ nói trên và thêm vào bộ Đại Tăng-chi. Các nước như Cầu-lưu-ly và hai quốc độ kia, chỉ thực hành pháp Nhất bộ, ấy là bộ Tát-bà-đa.” Dưới mái trong đại điện tại tinh xá Kỳ-hoàn có bốn đền bạc. Trong hai đền có kinh tạng bằng vàng ròng, giấy bằng bạch ngọc. Còn lại hai đền, trong đó có Luật tạng, giấy bằng vàng ròng, chữ bằng bạch ngọc. Luật tạng do Long vương chép, Kinh tạng do Ma vương chép. Hai tạng này đều là kinh luật của chư Phật thời xưa, từ thời Tinh tú quá khứ. Hai tạng chép tay này đứng hàng đầu ở châu Diêm-phù-đề. Sau khi Đức Phật nhập diệt, Long vương ta-kiệt mới mang về long cung thờ phụng.
Lại nữa, vào thời Phật Ca-diếp, có một người ở Trung Quốc chép Đại luật tạng và Kinh tạng. Kinh tạng ấy bằng giấy bạc chữ vàng và Luật tạng bằng giấy vàng chữ bạc. Đương thời, hai tạng ấy được chép tại chùa Phổ minh ở Kinh châu. Kinh tạng tôn trí trên hoa sen trong phía Đông nam đền. Luật tạng tôn trí trên lá sen trong phía Tây nam đền. Được thờ phụng trang nghiêm, không thể tả hết. Thư pháp trong hằng trăm ức quốc độ, sánh cùng hai tạng này, dù đến bọn họ Chung, Trương, Vương, Vệ, cũng chẳng đủ khả năng bì kịp.
*
Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, Thánh nhân các nước đến thăm, ngày thường lấy kinh luật này cho xem. Sau khi ngài nhập diệt, Văn-thù-sư-lợi thu thập kinh luật này đem về tôn trí tại động Kim cương trong núi Thanh lương.
Lại nữa, trong đền còn có sách chép luật nghi do chư Phật thời xưa nói ra, gồm có ba vạn tám nghìn môn. Nếu đem sánh với thư pháp chân phương trong hằng trăm ức quốc độ, đáng xếp hàng đầu. Hoàng tử thứ ba của Nam Thiên vương là Trương Dư soạn sách Kỳ-hoàn-đồ gồm một trăm quyển. Hoàng tử thứ mười sáu của Bắc Thiên vương viết sách Ngũ-tinh-xá-ký gồm năm trăm quyển. Hiện tại đều giữ trên Trời.
Tụng rằng:
Mừng bậc Đại giác,
Lồng lộng thần công,
Tứ Thiền Vô tướng,
Tam đạt đều Không.
Nghìn Phật kỳ bí,
Cùng trí, chung lòng,
Hiển linh giáng thế,
Diễn thuyết khai thông.
Hiền kiếp có bốn,
Ba vị còn trông,
Nối dõi là bảy,
Thừa kế nghiêm cung.
Thuyết pháp non Thứu,
An lạc Phạm cung,
Tám tướng thành Đạo,
Vạn đức viên dung.
Trời người hưởng phúc,
Ác dẹp, thiện dương,
Chúng sinh nhờ cậy,
Công đức vô cùng!
( Sự tích bốn lần Kết Tập Kinh Điển – Theo Pháp Uyển Châu Lâm )
Tuệ Tâm 2022.
Để lại một bình luận