Chuyện tượng Phật phóng hào quang khi xưa nhiều vô kể, ấy là bởi người xưa dùng tịnh tài thập phương và dụng tâm chí thành khởi tạo. Cho nên tượng Phật dù to hay nhỏ, dù bằng gỗ, bằng đá hay bằng sắt, bằng đồng… cũng đều tướng hảo trang nghiêm, ngôn ngăn linh dị. Thập phương tín chúng có mong cầu chi, hễ chí thành lễ bái không ai không được toại nguyện.
Ngày nay, nơi nơi chùa to Phật lớn, mà chuyện cảm ứng Tam Bảo phóng quang thật hiếm hoi, thật khiến người chân chánh học Phật không khỏi cảm thán thở dài.
Tôi đọc Pháp Uyển Châu Lâm, thấy trong ấy chuyện cảm ứng Tam Bảo rất nhiều, nay chép vào đây ít chuyện hiển linh của Tôn Tượng. Mong hàng Phật tử sơ cơ như mình có kẻ đọc được mà tăng trưởng tín tâm, vững bước trên con đường giải thoát!
- Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni.
- Kinh Pháp Diệt Tận.
- Kinh Nhân quả ba đời.
- Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm.
- Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo.
- 10 Điều quan trọng Phật tử tại gia cần biết.
Tượng Phật phóng hào quang linh nghiệm ký: 1. Tượng đổ mồ hôi
Đời Tống, thứ sử Từ châu là Vương Trọng Đức đúc pho kim tượng cao một trượng tám thước ở chùa Tống vương tại Bành thành. Sắc tướng đẹp đẽ trang nghiêm. Đây là một tuyệt tác về đúc chế ở vùng Giang Tây. Mỗi lần phương Bắc nổi binh hay đày đọa Tăng đồ, tượng liền đổ mồ hôi, nhiều ít tùy theo họa hoạn lớn nhỏ. Có thể đoán biết trước được. Người trong quận thường theo đó dự đoán thời cuộc.
Đầu niên hiệu Kiên Sơ, tượng lại đổ mồ hôi. Mùa Đông năm ấy, quân Bắc Ngụy đánh phá vùng Hoài thượng. Đương thời, mấy quận ở Duyên châu nổi lên theo phe phương Nam, tụ tập rất đông, đồng thời cũng ép buộc các Sa-môn phải tham gia chiến dịch.
Khi quân Ngụy thắng, san bằng đồn lũy, có ý muốn tiêu diệt tất cả, bèn làm biểu tâu lên, vu cáo Tăng đồ hùa theo loạn đảng, sửa soạn đem ra xử chém. Bấy giờ, tượng đổ mồ hôi đầm đìa, ướt cả nền điện.
*
Thứ sử Từ châu là Ngụy Lương vương giữ gìn phép nước rất nghiêm, thân hành đến chùa, sai người lấy khăn vải lau khô. Vừa lau xong lại đổ ra không dứt. Đến nổi mấy chục người cùng liền tay lau cũng không hết nổi.
Vương phải thắp nhang lễ bái, cầm khăn khấn rằng: “Chư Tăng vô tội, đệ tử xin thề sẽ đem thân ra bảo vệ khỏi vòng tai họa. Nếu linh thiêng chứng giám cho tấm lòng thành, đệ tử lau xong, sẽ không đổ ra nữa!”
Khấn xong, vương tự tay lau lấy. Quả thật, vương vừa lau xong, tượng lập tức khô ráo. Vương thảo biểu dâng lên, bẩm báo đầy đủ mọi chuyện. Vua Ngụy hạ chiếu tha tội cho tất cả chư Tăng.
Tượng Phật phóng hào quang linh nghiệm ký: 2. Quán Thế Âm hiển linh
Đầu niên hiệu Kiến nguyên đời Nam Tề, Vương Diễm, người Thái nguyên, từ nhỏ đã thọ ngũ giới với Thiền sư Pháp Hiền tại Giao chỉ. Được Tăng cho tượng Quán Âm đem về thờ phụng, liền mang đến Dương đô, gửi vào chùa Nam giản. Diễm ngủ trưa, mơ thấy tượng đứng bên cạnh chỗ ngồi, lòng rất lấy làm lạ, liền rước tượng về. Đêm ấy, chùa Nam giản mất hơn mười pho tượng, bị đánh cắp đem đúc tiền.
Vào đêm Thu năm Đại minh thứ bảy đời Tống (463), tượng phóng hào quang chiếu diệu khoảng ba thước, sắc vàng óng ánh lóa mắt. Cả nhà đều chứng kiến. Sau lại đem tượng gửi vào chùa Đa bảo. Diễm sang vùng Kinh Sở gần mười năm, không nhớ nơi để tượng. Đến khi về lại Dương đô, mơ thấy tượng ở giữa các pho tượng nhỏ tại phía Đông đại điện. Sáng mai lên chùa, tìm theo giấc mơ thì gặp lại tượng. Bấy giờ, nhằm ngày mười ba tháng bảy năm Kiến nguyên thứ` nhất (479).
*
Vì thế, Diễm làm bài tự sách Minh-tường-ký, nói rằng: “Ta thường thờ phụng pho tượng này, nguyện xin mãi mãi làm người cứu độ. Nhắc lại câu chuyện về pho tượng, lòng nôn nao xúc động dạt dào. Bèn nương theo tình tiết, viết nên bộ ký này. Than ôi! Xem lại tình cảnh gần đây, chẳng có gì hơn hình tượng. Điềm linh ứng hiện, đa số từ đó phát sinh. Kinh nói: “Nếu đúc tạc vẽ tô thật giống sắc tướng, sẽ biến hóa và phóng hào quang.”
Hai pho tượng Thích-ca và Di-lặc kiểu Tây vức nay sáng láng như thật, vì đúng với chân tướng đó chăng? Các Thánh tượng to lớn ở Trung Quốc hiện nay linh nghiệm rất nhiều, cũng do chúng sinh thời ấy gom hết thành tâm gửi vào gỗ đá nên mới hiển dị. Chẳng phải do tướng hảo quang minh mà trở nên như thế. Bởi vậy, tượng đá nặng nổi phều, cốt để giáo hóa đất Mân Ngô thêm rộng rãi; kim thân xưa đẫm lệ, cốt để nhà Lưu Tông chậm chịu tai ương. Các pho tượng khác, thị hiện nhiều cách, tuy khó nói cùng, nhưng xét đại khái, cũng đều đưa về chỗ kính tín. Còn như kinh tháp linh thiêng, ý chỉ cùng giống, tình tiết chẳng khác, nên được xếp vào cuối sách.”
Tượng Phật phóng quang linh nghiệm ký: Vua Lương Vũ Đế thỉnh tượng
Ngày mồng tám tháng giêng năm Thiên giám nguyên niên, Lương Vũ Đế mơ thấy tượng Phật bằng chiên-đàn giáng hạ trong nước, liền ban chiếu mộ người đi nghinh đón.
Theo Phật-du-Thiên-Trúc-ký và kinh Song-quyển-Ưu-điền-vương nói rằng: “Đức Phật lên Thiên Cung Đao-lợi thuyết pháp cho mẫu hậu suốt mùa hạ. Phụ hoàng và quần thần thương nhớ, mong được gặp mặt. Quốc vương Ưu-điền bèn sai ba mươi hai họa sư mang gỗ chiên-đàn, nhờ Đại Mục-kiền-liên dùng thần lực đưa lên vẽ tượng đức Phật mỹ mãn như nguyện rồi mang về. Tượng ngồi, cao năm thước, hiện còn thờ phụng tại Tinh xá Kỳ-hoàn.”
Vũ đế muốn thỉnh tượng này. Bấy giờ, Quyết thắng tướng quân Hách Khiên, Tạ văn Hoa và tùy tùng tám mươi người vâng mệnh đi thỉnh, dâng tờ trạng cầu xin. Vua Xá-vệ phán rằng: “tượng chỉ ngự ở nước trung ương, không thể ở nước bên cạnh.” Rồi sai ba mươi hai họa sư khắc lại trên gỗ tử đàn. Mỗi người một bức, bình minh ra tay, đến trưa thì hoàn thành. Tướng hảo viên mãn, đỉnh đầu phóng hào quang. Trời đổ mưa hoa và hương thơm thoang thoảng. Vì thế, kinh Ưu-điền-vương có nói: “Chân thân đã khuất, đến lượt tượng thứ hai xuất hiện, làm nhiều lợi ích cho tất cả chúng sinh.” Chính là tượng này vậy.
*
Đoàn của Hách Khiên mang pho tượng đi mấy vạn dặm, trải đủ gian lao không thể tả nổi. Lại vượt biển cả, xong pha sóng gió, trôi nổi đến chỗ núi non, lương thực hết sạch. Đám thuộc hạ và liên lạc chết chóc rất nhiều. Bỗng đâu gặp bầy thú dữ, chỉ còn biết chuyên tâm niệm Phật. Nghe có tiếng áo giáp mũ trụ lẻng kẻng khua vang sau tượng, lại có tiếng chuông động liên hồi. Một vị Sa-môn ngồi uy nghiêm dưới bóng cây bên động. Hách Khiên đỡ pho tượng xuống, đặt trước mặt ngài. Vị Sa-môn đứng lên chiêm bái tượng. Đoàn Hách Khiên phủ phục hành lễ. Ngài trao cho bình nước, bảo uống đi. Lập tức tiêu tan đói khát. Ngài dạy:
“Tượng này tên là Tam-miệu-Tam-Phật-đà. Có Kim-tỳ-la-vương hộ vệ sang bên ấy làm nhiều Phật sự lớn lao.” Nói xong, liền biến mất. Đêm ấy, cả đoàn đều mơ thấy vị thần hộ pháp. Sáng mai, cùng xúm nhau vẽ lại hình tượng. Ngày mồng năm tháng Tư năm Thiên giám thứ mười (511), đoàn về đến Dương đô. Nhà vua và quần thần thân hành đi bộ ra ngoài kinh thành bốn mươi dặm, cung nghinh linh tượng về điện Thái cực. Lập trai đàn cứu độ, đại xá, không sát sinh. Tất cả cung đao giáo mác đều đem nấu làm nóc tháp Liên hoa. Từ đó, nhà vua ăn chay, diệt dục. Đến tháng năm năm Thái thanh thứ ba (549) thì băng hà.
Tượng Phật phóng quang linh nghiệm ký: Quỷ Thần cúng đồng đúc tượng
Đầu niên hiệu Thiên giám, Lương Vũ đế xây chùa Quang trạch trên phủ cũ và đúc pho kim tượng cao một trượng tám. Làm khuôn xong, hoàn hảo từng ly tấc. Khi sắp đúc, sợ đồng không đủ số, sửa soạn dâng sớ xin thêm. Bỗng sứ giả chở đến mười lăm xe đồng, bảo rằng: “Phụng sắc đem giao cho nhà chùa.”
Lập tức nấu đồng đổ vào khuôn thì thành kiệt tác đứng đầu cả nước. Thấy tượng hơi cao lớn, thử đo lại, đến hai trượng hai thước. Bèn làm tờ tâu lên rằng tượng đã đúc xong, đúng với mô hình. Lượng đồng ban thêm cũng đều dùng hết. Đo lại kích cỡ, Tăng thêm bốn thước.
Nhà vua ban sắc: “Nếu không đưa đồng thêm, sao được như thế. Phải chăng nhờ chân thân cảm cách, nên mới thị hiện thần uy? Hãy khắc rõ vào tòa sen để ghi lại linh tích.” Nhà chùa dâng sớ xin vâng mệnh và đem khắc dưới đế tượng. Đến nay hãy còn.
Tượng Phật phóng quang linh nghiệm ký: Hủy tượng bị quả báo nát thân
Sau khi lên ngôi, Lương Vũ đế sùng mộ Phật giáo, phế bỏ Lão giáo. Thường rước cao Tăng vào cung bàn luận diệu lý, đúc hai pho tượng bằng vàng và bạc lớn bằng người thật tôn trí ở điện Trùng vân. Sớm chiều thân hành lễ bái, đêm ngày công phu tinh tiến suốt năm mươi năm. Nhà vua đi lại, không kể nắng mưa, dấu mười ngón chân in rõ lên đá trên nền điện.
Khi Hầu Cảnh đoạt ngôi, cũng tiếp tục thờ phụng. Thái úy Vương Tăng Biện giết Hầu Cảnh. Nguyên đế bị vây ở Giang lăng. Đất Giang nam trở thành vô chủ. Rồi Tăng Biện ngoại giao với Tề, rước Trinh Dương hầu Tiêu Uyên Minh lên ngôi.
Bấy giờ, đất Giang đông chưa yên mấy, Tăng Biện sai rể là Đỗ Khám cai quản cấm cung. Khám bản tính tham tàn, muốn nấu hai pho linh tượng thành thoi. Trước tiên, sai mấy chục tay chân lên gác Tam hưu toan đục cổ tượng. Dùi đục vừa giơ, bất ngờ hai pho tượng quay đầu lại trừng mắt nhìn. Bọn thuộc hạ kinh hoảng, rụng rời tay chân, đứng không vững chỗ, ấm ớ như ngây!
Đỗ Khám cũng thế. Một hồi lâu mới tỉnh lại, bị roi đánh sưng vù, mình mẩy xanh tím. Chỉ thấy lực sĩ Kim Cương uy nghi đáng sợ, cùng xông lên đánh. Bọn chúng đau đớn kêu la, thân thể nát tan, máu me chảy đầy, lủng da lòi xương mà chết. Chuyện này xảy ra gần đây, trong Đạo ngoài đời đều biết.
Tượng Phật phóng quang linh nghiệm ký: Tượng Quán Âm cứu mạng
Giữa niên hiệu Thiên bình đời Bắc Ngụy, tráng sĩ Tôn Kính Đức, người Định châu, đi trấn thủ biên thùy miền Bắc, có đúc một kim tượng Quán Âm. Mãn hạn, mang theo về nhà, hằng ngày kính lễ. Sau đó, bọn cướp vu oan là đồng đảng, bị bỏ vào ngục ở kinh đô. Không chịu nổi tra khảo, đành nhận tội bừa và bị kết án xử trảm, sáng mai sẽ thi hành.
Đêm ấy, Kính Đức lễ bái sám hối, nước mắt như mưa bạch rằng: “Kiếp này chịu tội oan, do kiếp trước đã ép người oan ức. Nguyện trả nợ xong, thề không tái phạm nữa!” Rồi phát thêm nhiều lời đại nguyện. Giây lát, mơ màng như mộng, thấy một vị Sa-môn bảo tụng kinh Quán-Thế-Âm-cứu-sinh và niệm một nghìn biến danh hiệu đức Phật trong kinh ấy thì sẽ được cứu thoát.
Kính Đức tỉnh dậy ngồi tụng, không hề sai vấp. Đến bình minh, chỉ được một trăm biến. Đội thi hành án đến trói giải ra chợ, Kính Đức vừa đi vừa tụng. Kịp khi sắp hành hình, vừa đủ một ngàn biến. Đao vừa hạ xuống, chưa chạm đến da thịt, liền gãy làm ba đoạn. Thay đao khác, chém cũng gãy. Đến lượt thứ ba, cũng y như thế.
Quan giám trảm vô cùng kinh dị, làm tờ tâu lên. Thừa tướng Cao Hoan dâng biểu xin giúp, được nhà vua tha tội chết và ban sắc sao lại kinh ấy đem lưu hành. Ấy là kinh Cao-vương-Quán-Thế-Âm. Kính Đức được thả về, lập trai đàn cảm tạ. Đem tượng ra xem, thấy trên cổ có 3 vết chém. Cả làng cùng kéo đến chiêm bái và ca tụng uy linh.
Tượng Phật phóng quang linh nghiệm ký: Tượng chảy nước mũi
Tượng đổ nước mũi ở chùa Hoa nghiêm tại Hiện sơn thuộc Tương châu. Pho tượng này bằng gỗ, xưa nay chẳng ai rõ gốc gác, nhưng đầu và mặt tuyệt đẹp, cứ thích chiêm ngưỡng hoài không thôi. Cao chừng năm trượng, linh hiển đã lâu. Khi nhà Bắc châu tiêu diệt Phật giáo, người ta lấy đầu tượng lén đem cất giấu. Đến niên hiệu Khai hoàng nhà Tùy (581), lại lấy ra trang hoàng thành pho tượng ngồi, gọi là đức Phật Lô-xá-na. Hằng năm dân chúng đến cầu phúc, xem như biểu tượng kính tín của mọi người.
Tùy Văn đế sắp băng hà, mũi tượng chảy nước, thấm ướt khắp ngực, làm bong lớp vàng thếp. Nước mũi óng ánh có hào quang. Lau xem trong veo không bợn. Tháng Tư năm Trinh quán thứ hai mươi ba (649), nước mũi chảy không ngừng, thấm ướt khắp ngực, vuông vức một thước. Thoạt tiên, chẳng ai hiểu chuyện gì. Đến lúc vua Thái tông băng hà, mới biết là tượng báo điềm.
Vào tháng sáu năm ấy, tượng lại đổ nước mũi. Toàn châu đều lo sợ, không biết sẽ xảy ra tai họa gì. Qua tháng bảy, sông Hán dâng nước lớn, tràn ngập thành quách, sâu hơn một trượng, người chết rất nhiều. Tượng hiện vẫn ở chùa cũ. Tín đồ đến cầu đảo rất đông. Đất Tương dương có kẻ hiếm muộn con cái thường đến vái xin, trai gái đều được linh nghiệm.
Tượng Phật phóng quang linh nghiệm ký: Chuyện tượng biết đi.
Giữa niên hiệu Khai hoàng đời Tùy, điện Phật chùa Hưng hoàng ở Tưởng châu bị cháy. Pho tượng bằng đồng vàng lớn và hai tượng Bồ-tát cao một trượng sáu thước do Đái Ngung đúc, đang ở dưới nóc điện. Bấy giờ, thế lửa quá mạnh, đại chúng đành bó tay than vãn, sợ tượng sẽ cháy tiêu. Bỗng tượng đứng lên, bước tới một bước về phía Nam, vừa lúc nóc điện đổ ập xuống. Nhờ thế, tượng được toàn vẹn. Bốn bề gạch gỗ tro than đều cách tượng một khoảng chừng năm, sáu thước. Tuy bị lửa hun, nhưng sắc vàng không đổi. Đại chúng đều sững sờ kinh hãi, reo hò ca tụng đầy đường.
Nay tượng dời về chùa Bạch mã. Chim chóc không bay đến đậu lên. Nam Vĩnh huy thứ hai (651), bọn trộm muốn kiếm đồng, đã cưa đứt song cửa, mưu toan kéo tượng đi, liền bị kẹp cứng tay, không thể rút ra được. Đến sáng, chư Tăng cật vấn, trả lời rằng: “Có một người mặc áo trắng đứng trong điện nắm chặt tay lại, nên không thể rút ra được!”
Tượng Phật phóng quang linh nghiệm ký: Tượng có hình ảnh hiện ra
Tượng có hình ảnh hiện ra trong đá tại chùa Nhật nghiêm ở kinh đô đời nhà Tùy.
Tượng ấy có hình bát giác, bằng đá thạch anh, cao tám tấc, lớn năm tấc, trong suốt, nhìn thấu hai bên. Ngày xưa, giữa niên hiệu Thái thanh đời Lương Vũ đế (547-548), có nhà sư mang từ Tây Vức sang, gặp loạn Hầu Cảnh, bèn cất trên đầu pho tượng ở chùa Tây lâm tại Lô sơn thuộc Giang châu. Năm Khai hoàng thứ mười đời Tùy (590), Dạng đế trấn thủ vùng Dương Việt, ra tay sưu tầm báu vật. Phàm các văn ký vùng Giang nam đều bị thâu tóm.
Trong tạp ký, tình cờ thấy bút lục ghi chép về tượng có ảnh này, bèn sai kẻ thân tín Vương Diên Thọ đến chùa sưu tầm về. Từ khi trở thành trọng thần của nhà Tấn, mỗi lần đi xa, Dạng đế thường đựng tượng vào hộp sơn đen, sai người cưỡi ngựa bưng đi phía trước. Sau khi lên ngôi thái tử, bèn tôn trí vào chùa Nhật nghiêm, dặn dò giám tự xem xong, khóa kỹ, không cho người khác thấy. Chùa do nhà vua dựng nên.
*
Cuối niên hiệu Đại nghiệp, thiên hạ náo động. Tăng chúng ở kinh đô thường đến chiêm bái. Cũng có vị ở trong chùa, nhưng chưa kính tín, cho rằng vì thấy ánh sáng lấp lánh trong đá, ngỡ là hình tượng đức Phật, nên đồn đãi thanh danh! Lời chư Tăng kể lại tuy chẳng giống nhau, nhưng đều bảo rằng đã thấy diện mục sắc tướng hiển hiện rành rành, không chút tăm tối. Nếu nhìn không thấy, lại trai giới sám hối bảy ngày, sau đó nhìn vào, sẽ thấy bảo tháp bằng bạc. Nhìn nữa, thấy có tượng Phật bằng bạc.
Đạo đời cùng nhìn, sẽ thấy khác nhau. Hoặc thấy tháp Phật, Bồ-tát, hoặc thấy Tăng chúng ngồi đầy. Hoặc thấy tràng phan bảo cái, hoặc thấy bát bộ Thiên long. Hoặc thấy cảnh khổ ở ba Đường, hoặc thấy bảy 7 kiếp sinh diệt. Cảnh tượng nhìn thấy, hoặc cố định hoặc biến hóa vô thường. Tuy thiện ác cùng hiện nhưng thiện tướng chiếm nhiều.
Thế nên, những kẻ đến cầu xem, đều có phát nguyện từ trước. Đầu thai loài nào, vãng sinh chỗ nào, y nguyện đều thấy hiện rõ. Thật là kính báu soi rọi nghiệp quả ở chốn u minh vậy. Tháng bảy năm Trinh quan thứ sáu (632), nhà vua ban sắc rước vào đại nội để thờ phụng.
Tượng Phật phóng quang linh nghiệm ký: Tượng Phật bốn mặt
Tượng Phật bốn mặt ở chùa tại huyện Sa-hà thuộc Hình châu. Đời Tùy Văn đế, có người lên núi gặp vị Tăng giữ tượng Phật bằng đồng, cao hơn ba thước, bèn xin thỉnh về. Vị Tăng bằng lòng rồi biến mất. Các nơi nghe đồn, tranh nhau đến lôi kéo nhưng tượng không chút nhúc nhích giở lên. Chỉ vị Tăng ở chùa Sa-hà đưa tay ra dắt, liền theo về chùa!
Người đời sau nhặt được một thỏi vàng bên cạnh chùa, trên có hình hai con quạ, khắc rằng: “Dùng để mạ tượng Phật bốn mặt.” Bèn đem mạ tượng. Trên thân tượng toàn là hình quạ. Sau đó, bỗng dưng tượng biến mất. Trong khúc suối quanh co bên chùa thường phát hào quang. Dò theo tìm thì gặp lại tượng! Tùy Hậu chủ nghe tiếng, sai thợ đúc mô phỏng chế tạo pho khác, nhưng vội quá không thành. Phải mất ròng rã hơn hai trăm ngày mới xong, tuy nhiên vẫn chưa hoàn mỹ, bèn ra lệnh đình chỉ.
Tượng Phật phóng quang linh nghiệm ký: Đúc tượng công đức lớn
Năm Khai hoàng thứ ba đời Tùy, Sa-môn Pháp Khánh đúc pho tượng đức Phật Thích-ca mặc áo gai dày, cao một trượng sáu thước, ở chùa Ngưng quán. Phật sự chưa thành, Sa-môn đã viên tịch. Hôm ấy, ở chùa Bảo xương, Sa-môn Đại Trí cũng viên tịch.
Ba ngày sau bỗng sống lại, kể với Tăng chúng trong chùa rằng: “Ta thấy Sa-môn Pháp Khánh đứng trước mặt vua Diêm La, đầy vẻ âu sầu. Một lát, thấy tượng đi đến, nhà vua vội rời ngai, chắp tay hành lễ.
Tượng bảo: “Pháp Khánh tạo ta đến nay vẫn chưa xong, tại sao lại bắt chết?”
Nhà vua quay lại gọi một người, hỏi rằng: “Pháp Khánh đúng số chết chưa?”
Người ấy bẩm: “Số chưa đáng chế, nhưng lương thực đã hết.”
Nhà vua phán: “Nên cho ăn lá sen để hưởng hết phước báo.” Thấp thoáng, ta không thấy Sa-môn Pháp Khánh nữa.”
Kể xong, Sa-môn cho người sang chùa Ngưng quán dò la. Một lúc, liền thấy Sa-môn Pháp Khánh sống lại và thuật chuyện y như Sa-môn Đại Trí vừa kể. Từ đó, Sa-môn Pháp Khánh thường ăn lá sen, cho là ngon lắm. An phải thứ khác thì nuốt không trôi. Tượng hoàn thành, Sa-môn sống thêm mấy năm mới viên tịch. Nghi dung tượng ấy thật đầy đặn và hay phóng hào quang. Chùa cũ tuy đã đổ nát, nhưng tượng vẫn còn đến nay.
Tượng Phật phóng hào quang
Chuyện mười ba Phật tích trên đá, lớn từ năm thước trở lại ở phía Bắc chùa Linh khám tại huyện Hưng ninh thuộc Đông bắc Tuần châu vào đời Đường. Tuần châu nằm ở lưu vực sông Tuần. Đông Tây rộng hai trăm dặm, Nam Bắc rộng một trăm dặm. Phong quang chùa rất hưng thịnh. Gần đây phát hiện được một kho đồng có một lò và hơn một trăm cái mâm. Trên đó khắc rằng: “Tăng sĩ bắt gặp, sẽ được phước đức; người đời bắt gặp, sẽ bị tai ương.”
Xưa đồn rằng: “Vào đời Tấn, có nhà sư người phương Bắc ẩn tu ở núi này. Một lần, vân du núi Đại hồng, đến chỗ Phật tích, gặp một động lớn đầy hoa quả xanh tươi, liền ở lại. Sơn thần hiện ra hăm dọa. Nhà sư giữ vững Chánh niệm bất động. Sơn thần bảo: “Chỗ này không thể ở yên, quỷ thần thường hay quấy phá.”
*
Nhà sư nhìn núi đá phía trước, mây bay che kín mặt Trời, liền leo lên tham quan. Nhìn xuống dưới chân, bờ đá cheo leo, vực sâu thăm thẳm. Biết không thể vượt qua, đành trở về huyện Hưng ninh kể lại mọi chuyện.
Đến đời Tống, có hai vị Tăng tiếp tục hành hương, không thành công, liền quyết chí tìm phương cách. Một vị chuyên tụng kinh Pháp-hoa, giữ gìn giới hạnh tinh tiến, hàng phục được quỷ thần, bắt phải hiện hình thọ giới cùng với gia quyến. Vị Tăng nhìn lên sườn núi trước mặt, có ánh sáng lạ thường. Phía dưới là vực sâu hun hút. Chỉ cách một trượng, vị Tăng bắt cây làm cầu bước sang, liền bắt gặp mười Phật tích trên đá, có màu sắc sống động như thịt người.
Năm Trinh quán thứ ba, lại xuất hiện thêm một Phật tích. Tất cả đều phóng hào quang và có vòng tròn đầy đủ. Nay có ít nhiều người chiêm bái nên phải thiết lập khám thờ để giữ lấy niềm linh dị. Dò hỏi nguồn gốc của chùa, vốn do một vương gia đời Tống hiến vườn cây để lập nên. Hiện tại vẫn còn dấu tích ngôi chùa cổ ấy.
Tượng Phật phóng hào quang linh nghiệm ký: Vợ tạo tượng Phật cứu mạng chồng
Lý Đại An, người Lũng tây đời Đường, là anh của thượng thư bộ công Đại Lượng. Giữa niên hiệu Vũ Đức, Đại Lượng làm tổng quản Việt châu. Từ kinh đô, Đại An đến thăm em. Đại Lượng sai mấy nô tỳ theo hầu. Về đến cầu Lộc ở Cốc châu, vào nghỉ tại nhà trọ. Trong đám nô tì có kẻ muốn giết Đại An, chờ đêm khuya ngủ say, lấy kiếm ngắn đâm xuyên cổ Đại An, cắm ngập xuống giường rồi bỏ trốn.
Đại An hoảng hồn thức giấc kêu cứu. Mấy nô tì còn lại muốn rút kiếm lên. Đại An bảo: “Nếu rút ra, ta sẽ chết mất! Trước tiên, hãy đưa giấy bút đến đây.” Vừa viết thư xong, quan huyện chạy đến, rút kiếm ra và băng bó vết thương. Đại An bèn tắt thở. Bỗng đâu như mộng, thấy một vật dài hơn thước, dày bốn, năm tấc, giống cục thịt heo, cách mặt đất chừng hai thước, xông đến trước giường bảo: “Mau trả thịt heo cho ta!”
Đại An đáp: “Ta không ăn thịt heo, làm sao mắc nợ nhà ngươi?”
Liền nghe ngoài cửa có tiếng nói: “Lầm rồi!” Vật ấy lập tức bỏ đi.
*
Đại An lại thấy trước sân có hồ nước trong trẻo đáng thích, bên bờ có tượng Phật cao chừng năm tấc. Giây lát lớn dần, biến thành vị Tăng mặc áo cà-sa rất trang nghiêm, bảo Đại An: “Bị thương chăng? Ta sẽ lấy ra dùm mọi đau đớn. Nhà ngươi sẽ được bình phục trở về nhà tu hiền niệm Phật.”
Rồi đưa tay xoa lên vết thương trên cổ của Đại An và bỏ đi. Đại An nhớ được hình dung, thấy rõ ràng sau lưng của vị Tăng có vuông lụa hồng chừng 1 tấc đắp lên cà-sa. Liền đó, Đại An hồi tỉnh và sống lại. Vết thương cũng hết đau, có thể ngồi dậy ăn uống. Mười mấy hôm sau, con cháu đến rước về. Thân thích bạn bè kéo đến thăm hỏi. Đại An kể lại mọi chuyện.
Có một nô tì đứng bên cạnh nghe xong, bèn nói: “Ngày ngài mới lên đường, phu nhân nhờ thợ tạo một pho tượng Phật. Xong xuôi, lấy thuốc màu vẽ áo. Có một chấm son giọt ố vai tương.Phu nhân sai thợ tẩy đi, nhưng hắn chẳng chịu làm. Nay vẫn còn in trên tượng, đúng như lời ngài vừa kể. Đại An liền cùng phu nhân, thân thích đi chiêm bái tượng. Thật giống hệt trong mộng chẳng sai. Vết son đỏ rành rành là chỗ vá. Bèn vô cùng lấy làm lạ, biết rằng Chánh pháp có thật, nên càng Tăng thêm lòng tín mộ, thành kính phụng thờ và sống được trường thọ.
Tượng Phật phóng hào quang linh nghiệm ký
Đời Đường, chùa Đồng tử ở phía Tây thành Kinh châu có pho tượng Phật ngồi to lớn, cao hơn một trăm bảy mươi thước. Nhà vua vốn sùng Đạo, cuối niên hiệu Hiển Khánh, ngự giá đến Tinh châu, cùng hoàng hậu lên chùa rồi đến tham quan pho tượng lớn hai trăm thước tại chùa Khai hóa ở hang Bắc. Nhà vua thành kính hành lễ, tán thán linh tích hy hữu, cúng dường châu báu, tiền của, pháp phục. Các phi tần tháp tùng cũng đều quyên góp. Lại ban sắc cho trưởng quan ở đó là Đậu Qũy gấp rút trang hoàng các Thánh tượng và mở rộng mặt trước khám thờ.
Tháng bảy mùa thu năm Long sóc thứ hai, thị thần giao cho trung sứ hai bộ cà-sa mang lên cúng dường hai Thánh tượng. Ngày chùa Đồng tử làm lễ mặc áo cà-sa, tượng phóng hào quang ngũ sắc từ sáng đến chiều, chiếu diệu cả núi non, soi sáng khắp đất nước, chan hòa các tượng Phật nhỏ ở khám thờ phía Nam và làm rạng rỡ mọi điện đường. Đại chúng đi xem, đông đảo đến nghìn vạn. Dân chúng trong thành chứng kiến chuyện ấy, phát thành tâm hướng thiện, mười nhà hết bảy, tám nhà. Tất cả đều hay, chẳng cần phải nói rõ.
Tượng Phật phóng hào quang linh nghiệm ký: Phá tượng gặp họa nát thân
Đời Đường, chùa Thanh Thiền tại Trường An trước đây có một pho tượng phật bằng vàng ròng cao một thước bốn tấc, nặng tám mươi lượng, do Tùy Văn đế đúc nên. Năm Trinh quán thứ mười bốn, tên cướp Tôn Đức Tín làm tờ sắc giả, giao cho một tên thái giám mang đến chùa tuyên đọc, gạt lấy tượng. Tăng chúng nghe có mệnh vua, không dám trái lệnh, đành phải giao ra. Hôm sau, sự việc đổ bể, thân tượng đã bị nấu chảy, chỉ còn lại phần đầu. Vua Đường Thái tông giận dữ, xử bằng cực hình.
Khi Đức Tín chưa bị hành hình, thân thể đã bị thối nát, mình đầy nhọt độc vỡ loét. Nhà chùa bỏ thêm vàng đúc lại tượng theo kiểu như xưa.
Tượng Phật phóng hào quang linh nghiệm ký: Thỉnh tượng cầu mưa
Niên hiệu Hiển Khánh thứ tư đời Đường Cao tông (659), vì bị hạn hán, thứ sử họ Tổ ở Phủ châu đã làm lễ cầu mưa nhưng không linh nghiệm. Có người thấy một pho tượng đi trên núi phía Đông. Không biết nguyên nhân, cùng rủ nhau kéo lên dời tượng. Tượng vẫn ù ù đứng yên không nhúc nhích. Tiếng đồn như gió, xa gần đều đổ lên xem.
Có người ở Đàm châu bảo rằng: “Chùa ở đấy mất tượng, ai ngờ lại đến đây!” Xem lại hành trình, thấy có hai vết tích đều dài ba thước, cách nhau khoảng năm trăm dặm. Thứ sử thấy hạn hán đã lâu, liền đến khấn cầu. Quan dân toàn châu đi bộ, mang hương hoa cúng dường dài suốt hai mươi dặm, khóc lóc kể lể sự tình rất chân thành rồi cử ba người đến bưng tượng. Tượng nhẹ nhàng theo tay về chùa. Dọc đường, mây giăng mờ mịt, đến chiều liền đổ mưa ào ào. Nhờ thế, mùa màng được sung túc. Tượng hiện tôn trí tại Phủ châu.
Tượng Phật phóng hào quang linh nghiệm ký
Đời Đường, tại khúc eo của sông Lễ ở huyện Hộ thuộc Ung châu có một pho tượng Phật bằng kim khí cao ba thước sáu tấc, kể luôn vòng hào quang cao đến bốn thước, để lộ tay phải, nghi dung hết sức uy nghiêm và thường phóng hào quang. Bần Tăng nghe tiếng, thường đến chiêm bái. Trên tòa sen có khắc rằng: “Đúc tại chùa trong thành Trường An ngày mồng tám tháng tám năm Kiến nguyên thứ hai mươi đời Tần (384 vua Tần Phù Kiên). Nữ tín chủ Tuệ Thiều khấn rằng: “May mắn gặp được Thánh tượng còn sót lại, bèn xuất tiền của đúc nên. Như tấm lòng thành được cảm ứng, nguyện cầu mười phương đều hưởng phước lành.”
Trước đây, khi hai Đạo bị tiêu diệt, tượng được chôn giấu trong vực nước xoáy La nhân tại sông Lễ. Có người đi ngang trên bờ nghe tiếng nói vọng lên từ vực xoáy và thấy hào quang phóng lên, liền bảo cho các bô lão trong làng cho người xuống sông đào lớp cát dưới vực, ngay chỗ phát hào quang, liền gặp tượng. Bấy giờ đang thời nhà Châu phá Đạo, phải đem giấu kỷ trong nhà, cùng nhau thờ phụng tại phòng riêng. Tượng thường phóng hào quang soi sáng. Hiện vẫn còn tại làng ấy.
*
Tháng hai mùa Xuân năm Long sóc thứ ba đời Đường, có tượng Phật bằng đá trên núi tại Thấm châu phóng hào quang. Trên lưng chừng sườn hang Trường cốc thuộc địa phận huyện Miên thượng nằm cách Thấm châu sáu mươi dặm về phía Bắc có khám thờ chư Phật đời quá khứ. Trong đó có ba pho tượng bằng đá: pho ở giữa thường phóng hào quang chiếu sáng khắp hang và núi rừng. Dân chúng lấy làm lạ, đem trình báo lên châu. Châu bèn tâu lên. Nhà vua sai Sa-môn chùa Từ Ân là Huyền Trí cùng sứ giả đến thẩm tra, thấy hào quang như lửa chớp không ngừng.
Bấy giờ có đám mây bay đến hang, hào quang tạm thời vụt tắt. Khi đám mây bay đi, hào quang lại xuất hiện. Chứng kiến xong, liền phi báo về triều, nhà vua ra lệnh vẽ lại cảnh tượng ấy rồi tiếp tục kiểm tra. Hào quang lại chiếu diệu như trước suốt ba đêm. Tương truyền đến nay, hào quang vẫn còn. Cảnh sắc núi rừng ở đây thật xanh tươi. Phật tích trong các khám đá rất nhiều. Chẳng ai biết được gốc gác, chỉ thấy điềm linh xuất hiện dập dồn.
*
Chuyện chùa Pháp tụ ở huyện Quách hạ thuộc Ích châu đời Đường vẽ tượng Bồ-tát Địa Tạng. Tượng gốc do Trương Tăng Diêu vẽ Bồ-tát ngồi buông chân trên Thiền sàng, cao chừng 8, chín tấc. Tháng bảy năm Lân đức thứ hai, Tăng đồ trong chùa vẽ lại một bức, liền phóng hào quang, khi ẩn khi hiện, giống như vòng vàng nhưng lớn bằng hào quang của tượng gốc. Lần lượt sao lại ba bức nữa, cũng đều phóng hào quang. Tháng tám năm ấy, nhà vua ban sắc tìm một bức đưa về cung thờ phụng.
Hiện nay, khắp trong triều ngoài nội, những bức vẽ lại đem thờ cũng đều phóng hào quang như thế. Mới hay, Phật lực huyền diệu vô biên, không thể ngờ nổi (Tại nhà của bần Tăng cũng có một bức, không kể ra trên đây).
Tượng Phật phóng hào quang linh nghiệm ký: Tượng vẽ phóng quang
Năm Lân đức thứ hai đời Đường Cao tông (665) Sa-môn Tuệ Dục ở núi Tam học thuộc huyện Kim thủy tại Giản châu, nay được tạm thời trụ trì chùa Không tuệ thuộc huyện Quách hạ tại Ích châu. Năm trước, Sa-môn sang chùa Trường sa ở Kinh châu, thành tâm khấn nguyện trước kim tượng thép vàng, xin vẽ lại đem về thờ phụng. Tìm được họa sư tài hoa Trương Tịnh Nhãn, yêu cầu trai giới thanh tịnh xong, nhờ vẽ luôn 6 bức vẫn chưa thấy linh hiển. Đến bức thứ bảy, liền phóng hào quang ngũ sắc chiếu diệu khắp trong ngoài suốt 7 hôm mới tắt. Xa gần đều chứng kiến. Đại chúng kinh ngạc hoan hỷ không thể tả nổi.
Sa-môn vội vàng mang các họa phẩm chưa kịp trau chuốt này đến Trường an, ý muốn nhờ vẽ thêm các Thánh Tăng đệ tử hầu cận và các phẩm vật cúng dường. Bấy giờ, tuân theo sắc lệnh của nhà vua, các họa sư tuyệt giỏi ở kinh thành đều tụ họp ở tòa trung thư, dưới sự giám sát của các quan học sĩ, cùng vẽ bốn mươi quyển tranh minh họa trong bộ Tây-quốc-chí gồm có sáu mươi quyển.
*
Sa -môn Tuệ Dục cho rằng ở ngoài không có họa sư tài giỏi, nên vào đó nhờ họa sư Phạm Trường Thọ trang trí thêm tại nhà Đô đường. Đến canh ba đêm mồng bảy tháng sáu, họa phẩm đầu tiên phóng hào quang ngũ sắc chiếu sáng tận phía ngoài nhà Đô đường. Người bảo vệ nhân đi ra ngoài, thấy trên nhà sáng rực, cho là lửa cháy, hốt hoảng la vang. Trong nhà, mười vị quan trực và hơn ba mươi binh sĩ đang ở trần nằm ngủ vì Trời quá nóng. Ánh hào quang chiếu sáng, ai nấy nhìn nhau, đều thấy rõ thân thể đỏ hồng, phải vội vàng mặc lấy y phục.
Có một vị quan tên Thạch Hoài Tàng, vốn không tin Phật, chẳng thấy được hào quang, chỉ thấy thân thể toàn một màu đen đúa. Cứ thế, hào quang chiếu rực đến sáng mai mới tắt. Sau khi hiểu rõ, Hoài Tàng ăn năn sám hối, nhưng cũng không thấy được hào quang chiếu sáng thân thể. Những quan viên binh sĩ thấy được hào quang đều phát nguyện trai giới. Riêng các quan viên, mỗi người đều vẽ một bức đem về nhà thờ phụng.
Tượng Phật phóng hào quang linh nghiệm ký: Cảm ứng nơi Ngũ Đài Sơn
Năm Long sóc nguyên niên đời Đường (661), nhà vua ban sắc sai Sa-môn Hội Trách ở chùa Hội Xương lên tu bổ chùa chiền bảo tháp trên núi Ngũ đài tại huyện Ngũ đài thuộc Đại châu. Núi ấy gồm 5 ngọn, trong đó ngọn Trung đài cao nhất. Từ đỉnh của ngọn núi này, có thể nhìn xa nghìn dặm, nước non trong nhỏ bé như bàn tay. Đó đây la liệt mấy nghìn bảo tháp có tường lũy bằng gạch đá, do vua Cao tổ nhà Bắc Ngụy là Hiến Văn đế (471-475) dựng nên.
Trên đá của ngọn Bắc đài, dấu chân người ngựa như núi mới in lên. Đỉnh núi là hồ lớn Thái hoa tuyền. Lại có thêm một dòng suối nhỏ uốn éo ngoằn ngoèo, hai bên bờ có hai ngôi chùa thờ tượng đức Bồ-tát Văn-thù. Xưa nói rằng ngài Văn-thù đến núi Thanh lương thuyết pháp cùng năm trăm vị tiên nhân. Kinh Hoa-nghiêm cũng nói ngài Văn-thù thuyết pháp trên núi Thanh lương. Thế nên núi này khí hậu rất lạnh, không có các loài cây tạp, chỉ có rừng thông chót vót phủ đầy khe núi.
Phía Nam gọi là ngọn thanh lương, dấu tích xưa nay chưa mất. Từ ngọn này đi lần xuống ba mươi dặm về phía Đông nam chùa Linh thứu. Hai bên có hai Đạo trường hoạt động Phật sự đầy đủ. Các vị bô lão bảo do vua Hán Minh đế xây dựng. Phía Nam có hoa viên rộng chừng hai trăm mẫu, nở loài hoa lạ chiếu sáng một vùng, được cây cối bao quanh bốn phía.
*
Từ đầu Xuân đến cuối Thu, hoa lạ này đua nhau nở rộ. Xưa nay nhiều người rất thích giống hoa này, đã bứng đem về trồng, nhưng không sống nổi. Thậm chí, tròng ở phía ngoài hoa viên cũng không sống nổi. Riêng trong hoa viên, hoa ấy tự nhiên sinh sôi. Phải chăng do thần uy của ngài Văn-thù thị hiện riêng một cảnh trí thần tiên như thế?
Người có thành tâm đến đây sẽ gặp nhiều chùa chiền có các Thánh Tăng cư trụ. Hoặc giữa lừng không, hoặc bên bờ suối, hoặc ở chốn núi non hiểm trở, hoặc trong hang động thâm u. Hoặc bậc xuất trần, hoặc người thế tục. Vừa mới đi qua, nhưng tìm đến không thấy. Chùa chiền và các vị Thánh Tăng ấy biến hiện vô thường, không thể lường được.
*
Đầu năm Long sóc thứ hai, nhà vua lại sai Sa-môn Hội Trách sang Tinh châu tập họp quan viên tiền của đem tu bổ cổ tự. Sa-môn cùng phủ thừa Ngũ đài kéo theo hơn hai mươi người lên thẳng ngọn Trung đài. Xa xa, nhìn thấy pho tượng đá đứng cheo leo bên bờ vực, múa máy chân tay. Vừa đến nơi nhìn lại, chỉ là một tảng đá vuông vắn. Mọi người đâm ra buồn rầu, ân hận không có cơ duyên gặp gở chân thân.
Khi sai thợ tu bổ hai tòa tháp và tượng đức Phổ Hiền, mọi người đang quay quần bên tháp, bỗng nghe đâu có tiếng chuông đổ liên hồi và mùi hương kỳ diệu xong lên ngào ngạt. Toàn thể đều cảm thấy hy hữu lạ lùng. Phái bộ lại lên ngọn Tây đài, thấy từ xa một vị Tăng cưỡi ngựa đi tới. Tăng Trách và mọi người dừng lại đứng đợi bên đường rất lâu, nhưng chẳng thấy đến, bèn kéo nhau đến đón thì đã biến thành chồi cây, khiến lòng mọi người cứ ấm ức mãi.
Thế thì, linh tượng cảm thông, thỉnh thoảng ẩn hiện; tiếng chuông hưởng ứng, liên tục thường nghe. Núi ấy vuông vức khoảng ba trăm dặm. Chân núi Đông nam liền với núi Bắc nhạc, chân núi Tây bắc là hồ Thiên Trì, chính giữa có núi Phật quang, núi Tiên hoa, tháp Vương tử, 6 ngôi cổ tự, động tôn trí chân thân của các Thiền sư Giải Thoát và Tăng Minh. Nhờ định lực hộ trì, trải qua mười năm vẫn không hủy hoại. Thật khó ước lượng uy lực của các thần Tăng!
( Theo Pháp Uyển Châu Lâm )
Để lại một bình luận