Sự cứu độ của đức Phật A Di Đà hoàn toàn vô điều kiện. Chỉ cần ta tin chắc rằng: “Mình niệm Phật nhất định được vãng sanh” là được vãng sanh. Người niệm Phật cầu vãng sanh nếu chẳng tin sâu nguyện thiết, ắt thường tự chướng ngại vãng sanh Cực lạc của mình.
Từ Chiếu đại sư nói: “Người tu Tịnh Độ khi lâm chung thường có ba điều nghi, bốn cửa ải, hay làm chướng ngại vãng sanh cực lạc, phải dự bị suy nghĩ trước để phá trừ. Bảy chướng ngại vãng sanh cực lạc gồm:
Ba điều nghi:
- Nghi mình túc nghiệp sâu nặng, thời gian công phu tu hành ít, e không được vãng sanh.
- Nghi mình bản nguyện chưa trả xong, tham sân si chưa dứt, e không được vãng sanh.
- Nghi mình niệm Phật, Phật không đến rước, e không được vãng sanh.
Bốn cửa ải:
- Hoặc nhân bị bịnh khổ mà trở lại hủy báng Phật không linh.
- Hoặc nhân tham sống mà giết vật mạng cúng tế.
- Hoặc nhân uống thuốc mà dùng rượu cùng chất máu tanh hôi.
- Hoặc nhân ái luyến mà tự ràng buộc với gia đình.”
Bảy điều chướng ngại vãng sanh cực lạc trên đây gọi là thuyết Tam Nghi Tứ Quan, bậc trí huệ có thể suy nghĩ tìm phương pháp giải quyết. Nay bút giả xin mạn phép nói lược qua cách phá trừ để góp ý; trên cơ sở đó các bạn đồng tu với sự hiểu biết của mình, có thể suy diễn hiểu rộng thêm ra.
- Sự hiểu lầm tai hại về niệm Phật nhất tâm bất loạn.
- A La Hán và 18 A La Hán là ai
- Từ Bi là gì.
- Cách niệm Phật tại nhà.
- Nên niệm Phật 4 chữ hay 6 chữ.
- Ấn Quang Đại Sư là hóa thân của Đại Thế Chí Bồ Tát.
- Niệm Phật như thế nào để chắc chắn được vãng sanh.
Cách phá trừ chướng ngại vãng sanh Cực lạc
1. Phá mối nghi túc nghiệp nặng, công tu ít:
Phật A Di Đà từng có lời thệ nguyện: “Chúng sanh nào chí tâm muốn về Cực Lạc, niệm danh hiệu Ngài cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, Ngài thề không thành Phật.” Phật không khi nào nói dối, vậy hành giả phải tin nơi đức Từ Tôn.
Mười niệm là thời gian công phu tu hành rất ít mà còn được vãng sanh, huống chi ta niệm nhiều hơn số đó. Lại dù kẻ nghiệp nặng đến đâu, như phạm trai phá giới, tạo đủ nghiệp ác, nếu chí tâm sám hối nương về Phật A Di Đà, Ngài đều tiếp dẫn.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã chẳng nói kẻ tạo tội nặng ngũ nghịch thập ác, khi lâm chung chí tâm niệm mười niệm đều được vãng sanh đó ư? Trong truyện Vãng Sanh, như Trương Thiện Hòa, Hùng Tuấn, Duy Cung, trọn đời giết trâu bò, phá giới, làm ác, khi lâm chung tướng địa ngục hiện, sợ hãi niệm Phật, liền thấy Phật đến rước. Cho đến loài chim sáo, két niệm Phật , còn được vãng sanh, huống chi ta chưa phải là tệ đến mức đó?
2. Phá mối nghi bản nguyện chưa trả, tham sân si chưa dứt:
Bản nguyện của hành giả đại khái có hai: đạo và đời.
Về đạo, có người nguyện cất chùa bố thí hay nguyện tụng số kinh chú bao nhiêu, làm chưa tròn đã đến giờ chết. Phải nghĩ rằng: chỉ tín tâm niệm Phật, khi được vãng sanh sẽ làm vô lượng vô biên công đức, còn bản nguyện chỉ là việc nhỏ, làm xong hay chưa không mấy quan hệ, và chẳng có hại chi cả.
Về đời, hoặc có người vì nhiệm vụ gia đình chưa tròn, như cha mẹ suy già không ai săn sóc, vợ con thơ dại thiếu chỗ tựa nương, hoặc có kẻ thiếu nợ người chưa kịp trả, tâm nguyện chưa vẹn nên lòng chẳng yên. Phải nghĩ rằng: lúc ta sắp chết, dù có lo hay không cũng chẳng làm sao được. Chi bằng chuyên tâm niệm Phật, khi đã được vãng sanh Tây Phương chứng đạo quả, thì tất cả bản nguyện trái duyên đều có thể trả xong, tất cả kẻ oán người thân đều có thể cứu độ.
*
Lại Kinh Na Tiên nói: “Ví như hột cát nhẹ, bỏ xuống nước liền chìm. Trái lại tảng đá dù nặng to, nếu được thuyền chở, có thể đem từ chỗ này sang chỗ khác. Người niệm Phật cũng thế, nghiệp tuy nhẹ nếu không được Phật cứu độ, tất bị luân hồi, tội chướng dù nặng bao nhiêu, được Phật tiếp dẫn sẽ sanh về Cực Lạc.”
Theo đoạn kinh đây, ta thấy môn Niệm Phật là pháp có thể đới nghiệp vãng sanh, vì nhờ tha lực. Tảng đá lớn ví cho sức nghiệp nặng to, thuyền chở ví cho nguyện lực của Phật. Vậy người tu đừng nghĩ rằng mình còn tham, sân, si, e không được vãng sanh. Thí dụ trên có thể phá luôn điểm nghi về nghiệp nặng ở điều thứ nhứt.
3. Phá mối nghi niệm Phật, e Phật không đến rước:
Người niệm Phật tùy theo công đức mình, khi lâm chung thấy Phật, hoặc Bồ Tát, hay Thánh chúng đến rước. Có khi không thấy chi, mà nhờ sức nguyện của mình và Phật lực thầm nhiếp thọ, thần thức tự bay về Tây Phương.
Đây là bởi công hạnh của mình có cao thấp, sâu cạn. Chỉ cần yếu lúc ấy ta phải chí tâm niệm Phật, đừng nghĩ chi sai khác. Nếu nghi ngờ sẽ tự sanh ra chướng ngại.
Tóm lại, khi lâm chung dù thấy tướng tốt hay không cũng đừng quản đến, chỉ hết lòng niệm Phật cho đến giây phút cuối cùng mà thôi.
Chướng Ngại vãng sanh Cực Lạc: Cách phá bốn ải
Phá chung bốn cửa ải: – nhân bịnh khổ hủy báng Phật – tham sống sát sanh cúng tế – cầu lành bịnh uống ruợu, hoặc dùng thuốc có chất huyết tanh – vì ái luyến nên tâm niệm ràng buộc với gia đình.
Người niệm Phật mà bị tai nạn bịnh khổ, đó là do nhờ công đức tu hành, nên chuyển quả nặng thành quả nhẹ, chuyển hậu báo thành hiện báo, trả cho hết để được sanh về Tây Phương. Nếu trở lại nghi ngờ hủy báng, là người kém tin hiểu, phụ ơn Phật, tự gây tội chướng cho mình. Trong sự tích Tịnh Độ có thuật chuyện ông Ngô Mao cùng rất nhiều Phật tử khác, nhờ dồn nghiệp mà sớm được vãng sanh. Vậy khi gặp cảnh này, người niệm Phật nên ý thức để hiểu rõ.
*
Lại thân này giả tạm, tùy theo tội nghiệp mà kiếp sống có vui khổ lâu mau. Nếu giết sanh mạng để nuôi dưỡng sanh mạng, hoặc cúng tế, thì tội khổ càng thêm nặng; phải triệt để nương theo Phật và tin chắc lý nhân quả.
Khi đau yếu chỉ cầu Phật, không nên cầu phù phép tà sư; hoặc nghe lời kẻ chưa hiểu đạo, trở lại ăn mặn, uống rượu; hay dùng thuốc bằng chất máu huyết tanh hôi. Thân này nhơ nhớp, được về cõi Phật sớm chừng nào hay chừng ấy; như bỏ chiếc áo hôi rách mặc sắc phục đẹp thơm, đáng chi phải bận lòng?
Đến như mối hại về ái luyến khi lâm chung, thì như đoạn trên đã nói. Phải nghĩ: trong gia đình từ cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái…Hết thảy đều do đời trước có nợ nần ân oán, nên mới tạm hội ngộ nhau. Khi nhân duyên đã hết thì mỗi người đi mỗi ngả. Nếu có lòng thương, tốt hơn ta nên gác bỏ tình trần cầu sanh Tây Phương, để độ tất cả kẻ oan thân.
Khi cái chết sắp đến, dù có quyến luyến cũng không thể đem theo, không làm chi được. Bởi chính sắc thân của ta còn phải tan về cát bụi. Nếu ái luyến thì đã không được vãng sanh, lại bị khổ luân hồi vô cùng vô tận.
Những điểm về Tam Nghi Tứ Quan trên đây, hành giả phải suy nghiệm ghi nhớ kỹ, để dự bị trước cho tinh thần được yên ổn trong lúc lâm chung.
Chướng Ngại vãng sanh Cực Lạc: Phải gắng dứt trừ gốc Ái
Trên đường tu, hành giả phải có tinh thần giải thoát. Phải xem từ tiền của ruộng vườn cho đến thân tình quyến thuộc đều là duyên giả tạm. Sống tùy cảnh huyễn, chết rũ sạch không. Nếu chẳng hiểu lẽ này, tất nó sẽ ngăn trở sự giải thoát; có khi phải đọa làm loài bàng sanh như chó hoặc rắn để giữ nhà giữ cửa. Đã có nhiều người vì nắm níu tiền của hoặc thân nhơn, mà khi sắp chết phải khó khăn, không yên tâm nhắm mắt được.
Hồi bút giả còn làm đạo hầu, trong lúc dâng trà khuya, có nghe một vị Giáo thọ thuật lại câu chuyện, bao hàm ý nghĩa giác tỉnh.
Cốt truyện đại khái như sau: Khi xưa có hai bạn đồng tu. Một ông thích ở cảnh non cao, một vị cất am dựa khu rừng bên bờ suối. Thời gian sau, tăng sĩ ở cạnh suối tịch trước, vị sư trên núi hay được xuống viếng thăm. Sau khi tụng kinh cầu nguyện, sư liền ngồi yên nhập định coi bạn mình sanh về cõi nào? Nhưng tìm kiếm quan sát khắp các nơi, từ cõi trời đến địa ngục, ông không thấy người bạn ở đâu cả.
Xuất định ra, sư hỏi thị giả của ông bạn: “Hằng ngày thầy mi làm những việc chi?” Đạo đồng đáp: “Bạch, mấy lúc sau này vì thấy bụi mía trước am mập tốt, thầy con thường ra vun phân tỉa lá, săm soi mãi, ra chiều thích thú lắm!”
*
Vị sư nghe nói nhập định lại, quán thấy ông bạn hóa ra làm con sâu trong thân cây mía. Sư liền đốn cây mía ấy, chẻ bắt lấy con sâu ra, thuyết pháp chú nguyện cho nó siêu thoát.
Câu chuyện trên chỉ là truyền khẩu, bút giả chưa tìm thấy trong kinh sách. Nhưng cứ theo lý mà đoán, thì sự kiện ấy vẫn chẳng phải hư huyền. Nơi điển tích nhà Phật cũng có mấy việc tương tợ. Chẳng hạn như:
– Chuyện ông sa di vì tham ăn sữa tô lạc, nên khi chết đọa làm con vòi trong bình sữa.
– Chuyện vị ưu bà tắc tuy có công giữ giới tu hành; nhưng bởi quá quyến luyến vợ, nên khi chết thần thức hóa sanh làm con vòi trong mũi vợ. Lúc cô vợ thương khóc sì mũi con vòi văng ra, cô cả thẹn đưa chân muốn chà đạp. May nhờ một vị A La Hán can ngăn, nói rõ nguyên do, thuyết pháp siêu độ cho con vòi ấy.
– Chuyện vợ một khách thương đường biển, bởi luyến tiếc nhan sắc xinh đẹp của mình, nên lúc chết liền hóa thành con vòi từ trong mũi bò ra đi quanh trên mặt, như Kinh Hiền Ngu đã nói.
Cho nên người tu Tịnh Độ hằng ngày phải tỉnh tâm quán xét; dứt trừ lòng tham gốc ái, quyết chí hướng về cõi Phật; để khi lâm chung không bị sức nghiệp ngăn trở cuốn lôi.
( Bảy chướng Ngại vãng sanh Cực lạc – Theo Niệm Phật Thập Yếu)
Tuệ Tâm 2021.
LH viết
Nam mô A Di Đà Phật
“Khi lâm chung dù thấy tướng tốt hay không cũng đừng quản đến, chỉ hết lòng niệm Phật cho đến giây phút cuối cùng mà thôi”
Thưa thầy, tướng không tốt là những tướng như nào ạ, liệu có khiến người sắp chết hoảng loạn mà không thể niệm Phật được không ạ ? Nếu sợ hãi không niệm Phật được thì có vãng sanh không ạ ?
“Người niệm Phật tùy theo công đức mình, khi lâm chung thấy Phật, hoặc Bồ Tát, hay Thánh chúng đến rước. Có khi không thấy chi, mà nhờ sức nguyện của mình và Phật lực thầm nhiếp thọ, thần thức tự bay về Tây Phương.”
Những người không thấy gì nếu lúc đó nản lòng thì có vãng sanh không ạ ?
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Bài viết này trích từ “Niệm Phật Thập Yếu” của Đại Ninh Bồ Tát. Tuệ Tâm thấy nó lợi lạc cho những ai dùng Tự Lực Niệm Phật nên trích đăng lên để cảnh báo, cho hành giả biết cách phá chấp mà tránh được các chướng nạn lúc lâm chung. Người dùng Tự Lực để niệm Phật cầu vãng sanh không ai không gặp những chướng này, bởi vậy chư Tổ bảo “Dùng tự lực thì trong ngàn người tu may mắn lắm được 1-2 người vãng sanh” là như thế!
Người tu thiên về tự lực, lúc lâm chung tâm hay bị khởi nghi nan, do đó mà tự mình chướng ngại mình vãng sanh, chớ chẳng phải Phật A Di Đà chẳng từ bi không tiếp dẫn. Tướng không tốt biểu hiện rất nhiều, mỗi người mỗi cảnh, đại khái như: Thấy bị người truy đuổi, thấy gà vịt, trâu bò, ma quỷ hiện ra làm cho kinh sợ bất an…Hết thảy đều là do tin không sâu vào bản nguyện tiếp dẫn của Phật A Di Đà nên rất khó vãng sanh. Những việc như: “Sợ hãi không niệm Phật hay nản lòng” cũng là bởi chẳng tin sâu, nguyện thiết. Mà như thế thì chẳng thể vãng sanh được!
Trên web đang đăng loạt video của Pháp sư Huệ Tịnh, bạn nên siêng nghe để nắm chắc được đường về, không còn phải lo lắng hay bận tâm về những chướng ngại này nữa vậy!
LH viết
Nam mô A Di Đà Phật
Con cảm ơn thầy đã giải thích ạ.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.