Người niệm Phật cầu vãng sanh thì khi sáu chữ hồng danh “Nam mô A Di Đà Phật” thoát ra nơi cửa miệng là đã bao gồm cả Tín và Nguyện. Điều lạ lùng này nếu chẳng phải được xuất phát từ tư tưởng của Đại Sư Thiện Đạo, Hóa Thân của đức Phật A Di Đà thì ai có thể tin cho được?
Tại sao thế? Bởi nếu sáu chữ hồng danh không bao gồm tín nguyện thì nó do đâu mà phát khởi? Nếu bạn không tin nhận đức Phật A Di Đà thì niệm danh hiệu Ngài để làm gì? Nếu bạn chẳng nguyện vãng sanh thì niệm Phật để làm gì? Cho nên nếu bạn chỉ niệm Phật cầu vãng sanh thì sáu chữ hồng danh đã thâu gồm Tín và Nguyện, bạn chẳng cần lo lắng về chuyện “Tin sâu Nguyện thiết” làm gì nữa!
*
Tín Tâm vô cùng trọng yếu đối với người niệm Phật và quyết định chuyện vãng sanh. Tuy nhiên lại rất ít người hiểu đúng, hiểu rõ về Tín Tâm. Người niệm Phật nếu tín tâm không vững vàng thì không giải đãi hành trì ắt cũng sẽ bị nghi tâm sanh khởi. Vì thế mà dù niệm Phật vẫn không đúng với Chánh Hạnh nên vô cùng khó được vãng sanh.
Bạn đọc thân mến! Tất cả các bài viết có video, phần nội dung đều là trích dẫn từ những điểm trọng yếu trong video. Vì không có bản mềm, lại cũng không có thời gian nên tôi không thể nào gõ ra thành văn bản hết được. Do đó, các bạn nên nghe trọn vẹn để nắm vững được nội dung.
Nhân vì sự trích dẫn trong bài này ngắn quá nên có bạn đọc không nghe rồi nhắn tin cật vấn. Tôi chẳng đủ trí huệ trả lời nên đành chép lại toàn văn trong video. Tuy mất rất nhiều thời gian, nhưng vì bài này phá nghi nan về Tín nên tôi gắng gượng chép ra. Mong rằng những ai thích đọc được lợi ích, phá được nghi nan mà không sanh tâm hủy báng!
Tín Tâm niệm Phật là như thế nào
Pháp Nhiên Thượng Nhân, một vị cao tăng người Nhật nhưng chỉ Tôn kính Đại Sư Thiện Đạo. Thượng Nhân đem tư tưởng của Đại sư khéo dùng bốn bài kệ ngũ ngôn tứ tuyệt, làm rõ nghĩa một cách trọn vẹn. Bốn bài kệ này bao hàm ý nghĩa ba tầng tuyển chọn, người đời sau gọi là Tam Tuyển Văn. Bốn chữ Cát, Phao, Bàn, Chuyên được nêu lên trong bài Tam Tuyển Văn có nghĩa gọi là khẩu quyết của Tịnh Tông. Bài văn như sau:
“Dục tốc ly sinh tử.
Vì chủng thắng Pháp trung.
Thả cát Thánh Đạo môn.
Tuyển nhập Tịnh Độ môn.
Dục nhập Tịnh Độ môn.
Chánh tạp nhị hạnh trung.
Thả phao chư tạp hạnh.
Tuyển ưng quy Chánh Hạnh.
Dục tu ư Chánh Hạnh.
Chánh trợ nhị nghiệp trung.
Du bàn ư trợ nghiệp.
Tuyến ưng chuyên Chánh Định.
Chánh Định chi nghiệp giả.
Tức thì xưng Phật danh.
Xưng danh tức Đắc sanh.
Y Phật bản nguyện cố.”
Nghĩa là:
*
“Muốn mau lìa sanh tử.
Trong hai Pháp môn Phật.
Tạm tránh Thánh Đạo môn.
Chọn vào Tịnh Độ môn.
Muốn vào Tịnh Độ môn.
Trong hai hạnh chánh tạp.
Tạm bỏ các tạp hạnh.
Trọn quay về chánh hạnh.
Muốn tu nơi Chánh Hạnh.
Trong hai nghiệp Chánh trợ.
Trợ nghiệp để sang bên.
Chọn chuyên Chánh Định Nghiệp.
Người tu Chánh Định nghiệp.
Tức là xưng danh Phật.
Xưng danh ắt vãng sanh.
Vì nương Bản Nguyện Phật.”
Bài văn trên nói rõ ý nghĩa của ba tầng tuyển chọn. Tức là trong hai môn, hai hạnh, hai nghiệp: Gác Thánh Đạo chọn Tịnh Độ, bỏ Tạp Hạnh chọn Chánh Hạnh, bỏ Trợ Nghiệp chọn Chánh Nghiệp. Nói gọn lại là chọn Tịnh Độ, chọn Chánh Hạnh, chọn Chánh nghiệp.
Tam Tâm gồm thâu về Thâm Tâm
Kinh Quán Vô Lượng Thọ có nói đến Tam Tâm, đó là: 1. Chí Thành Tâm. 2. Thâm Tâm. 3. Hồi Hướng phát nguyện Tâm. Đây dường như có Tam Tâm, mỗi tâm mỗi khác. Nhưng tam tâm này thảy đều gồm thâu vào trong Thâm Tâm. Khi nói Thâm Tâm là đã đầy đủ Tam Tâm rồi. (Đại ý Kinh Quán Vô Lượng Thọ, trong “Tịnh Độ Tam Kinh Nhất Luận Đại Ý”, trang 103 đến 104.)
Chí Thành Tâm
Tâm bên trong và bên ngoài phải thống nhất nhau. Đầu tiên nói về Chí Thành Tâm.
Đại Sư Thiện Đạo nói CHÍ là Chân, Thành là Thật. Cho nên Chí Thành Tâm là Tâm Chân Thật. Sao gọi là Tâm Chân Thật? Nghĩa là nói trong tâm của chúng ta chân thật tinh nhận sự cứu độ của Phật A Di Đà. Miệng chúng ta xưng niệm một câu danh hiệu Phật, cũng là xuất phát từ nội tâm chân thật mà xưng danh, chẳng phải thể hiện bên ngoài để cho người khác xem.
Nếu bề ngoài ra vẻ cho người khác biết ta đang niệm Phật, ta đang tin Phật, ta muốn vãng sanh về Thế Giới Cực Lạc, mà trong lòng ta không thực sự tin Phật A Di Đà, không muốn cầu vãng sanh Thế Giới Cực Lạc, vậy thì chẳng phải chân thật.
Vì thế tin Phật niệm Phật, Tin tưởng có Cực Lạc, có Phật A Di Đà. Tất cả niềm tin này đều xuất phát từ nội tâm, nội ngoại nhất trí, như thế thì mới gọi là Chân Thật. ( Đại ý Kinh Quán Vô Lượng Thọ trong Tịnh độ tam kinh nhất luận đại ý, trang 104 đến 105)
Thâm Tâm – Tâm Tin Tưởng Sâu Sắc
Đại Sư Thiện Đạo giải thích: Thâm Tâm là tâm Tin Sâu
1. Thâm Tín về Cơ và Pháp
Thâm Tín Cơ
Thâm Tín là gì? Thứ nhất là Tín Cơ: Tin chắc một điều rằng mình là Phàm phu tội ác sâu nặng, có tâm tu hành nhưng không đủ lực tu hành. Chẳng những đời này kiếp này không đủ sức giải thoát, mà đến tận cùng những đời vị lai cũng không thể nào giải thoát, chẳng có duyên xuất ly sanh tử. Chúng ta là hàng chúng sanh như thế. Mỗi khi nghĩ đến thì quả thật là muốn nằm xuống đất mà gào to khóc lớn. Bởi vì không có duyên xuất ly. Nếu không có duyên xuất ly thì có phải Đời Đời Kiếp Kiếp chúng ta phải chịu luân hồi mãi trong thế giới Ta Bà này.
“Thân người khó được”, há phải một phen mất thân người rồi thì muôn kiếp nghìn đời đều rơi vào ba đường ác sao? Khi nghĩ đến điều này, nỗi sợ hãi khôn tả ấy xâm nhập vào lòng chúng ta. Chắc chắn như thế! Phải tin sâu điều này! Đó là tin sâu chúng ta là Phàm phu tội ác trong sinh tử. Đại sư Thiện Đạo nói đến tin sâu cơ. Chữ “Cơ” trong danh từ tôn giáo tức là chỉ cho căn tánh, căn cơ của chúng ta.
Thâm tín Pháp
Pháp chính là sự cứu độ của Phật A Di Đà. Trong nguyện thứ 18, đức Phật A Di Đà có nói: “Những ai xưng danh hiệu của tôi cho đến 10 niệm, chắc chắn tôi điều khiến họ vãng sanh Thế Giới Cực Lạc. Những ai xưng danh hiệu tôi mà không thể vãng sanh thì tôi sẽ không thành Phật.” Nương tựa vào Bản Nguyện của Phật A Di Đà chắc chắn có thể vãng sanh, đây chính là thâm tín Pháp.
Đoạn nước nói về Thâm Tín Cơ, Cơ là nói Phàm phu tội ác sâu nặng trong sanh tử không có duyên xuất ly. Các chúng sanh này có thể là chúng sanh ngũ nghịch, thập ác, báng pháp, phạm bốn giới Trọng, xiển đề… Nếu không phải hạng chúng sanh này thì có duyên xuất ly, còn những hàng chúng sanh không thể xuất ly như ngũ nghịch, thập ác, báng pháp, phạm bốn giới trọng, xiển đề, thì bất kể họ đối với Bản Nguyện của Phật A Di Đà, hiểu sâu hay là hiểu cạn, chỉ cần họ xưng Niệm Danh Hiệu Phật A Di Đà thì chắc chắn có thể vãng sanh. Đây gọi là Thâm Tín Cơ và Pháp.
2. Hai thứ Thâm Tín gom vào Nhất Hướng Chuyên Niệm
Với những điều vừa nói và việc Phật Thích Ca Mâu Ni phó chúc A Nan Tôn giả lưu thông trì danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ. Cùng với những điều mà Đại Sư Thiện Đạo giải thích về Nhất Hướng Chuyên Xưng Danh Hiệu Phật A Di Đà, tất cả đều không nói đến việc chúng sanh tin hay là không tin, mà chỉ nói nhất hướng chuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, đâu có nói là bạn tin hay nghi? Đã xưng danh rồi thì dù là tin có sâu cạn, nghi có nhiều thứ, nhưng tất cả những điều này đều không màng đến nữa. Bạn chỉ cần xưng danh chắc chắn được vãng sanh, há chẳng phải niềm tin đã bao gồm ở trong đó rồi sao?
Vì thế quy kết của Kinh Quán Vô Lượng Thọ là ở chỗ Nhất Hướng Chuyên Xưng danh hiệu Phật A Di Đà. Đây chính là đại ý của Kinh Quán Vô Lượng Thọ.( Đại ý Kinh Quán Vô Lượng Thọ, trong Tịnh độ Tam Kinh Nhất Luận Đại Ý, trang 105 đến 107)
Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm – Tâm Tự nhiên về Nhà
Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm, nói đơn giản chính là Tâm chán ghét muốn xa lìa cõi Ta Bà, ưa muốn sanh về Cực Lạc. Cũng là nói không còn lưu luyến cõi Ta Bà, thậm chí còn chán ghét nữa. Bởi vì ở đây khiến chúng ta tạo tội tạo nghiệp, chịu khổ chịu nạn, chúng ta còn có thể tích nó hay sao? Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng dạy rằng: Thế giới Ta Bà này chính là nhà lửa Tam giới. Nhà đang bị lửa đốt, chúng ta làm sao có thể thích được? Vì thế mà ngán ngẩm cõi Ta Bà.
*
Thế Giới Cực Lạc Trang Nghiêm Thù Thắng, thanh tịnh, an lạc như thế, chúng ta sao lại không thích về đó chứ? Huống hồ Thế giới Cực Lạc là do Đức Phật A Di Đà vì chúng ta mà kiến lập nên, là nhà của chúng ta, chủ hộ là chúng ta, mỗi người chúng ta đều là chủ hộ của Thế Giới Cực Lạc. Về đến nhà mình rồi thì tự nhiên thoải mái vô cùng. Hôm nay đi làm, hễ đến giờ tan ca thì tự nhiên về nhà mình. Hồi hướng phát nguyện tâm chính là như thế đó!
Ở thế giới Ta bà, chúng ta đã làm những việc bất kể là thiện là ác, hay bất kỳ công đức nào, cũng không cho rằng nó có thể khiến mình tái sinh làm người, hoặc sanh lên thiên đường, mà thảy đều hồi hướng phát nguyện nguyện vãng sanh về Thế giới Cực Lạc. Ba Tâm này đều gồm thâu trong Thâm Tâm. Biết rằng chúng sanh không thể thoát khỏi lục đạo này, nhưng chỉ cần xưng danh niệm Phật, chắc chắn vãng sanh Thế Giới Cực Lạc. Thảy đều nằm ngay trong một niệm Tín Tâm này.
( Đại ý Kinh Quán Vô Lượng Thọ, trong Tịnh độ tam kinh nhất luận đại ý trang 105 đến 107.)
Công năng của danh hiệu phá Nghi mãn nguyện
Trong vãng sanh luận chú còn một chỗ mấu chốt nữa, đó là: Trong quyển hạ, phần mở đầu tán thán môn, có nêu lên hiện tượng tu hành là Như Thật Tu Hành và Không Như Thật Tu Hành.
Danh hiệu vô ngại Quang Như Lai có thể phá trừ tất cả vô minh của chúng sanh, có thể viên mãn tất cả chí nguyện của chúng sanh, nhưng có người xưng danh ức niệm mà vô minh vẫn còn, chưa hề mãn nguyện được. Vì sao? Do vì không Như Thật Tu Hành, không tương ưng với danh nghĩa! Vì sao nói là không Như Thật Tu Hành, không tương ưng với danh nghĩa? Nghĩa là không biết Như Lai là thân thật tướng, là thân vì chúng sanh. Lại có ba điều không tương ưng:
- Một là vì tín tâm không thuần, lúc còn lúc mất.
- Hai là vì tín tâm không chuyên nhất không quyết định
- Ba là vì tín tâm không tương tục bị những niệm khác làm gián đoạn.
*
Khi nói pháp môn Tịnh độ là phi tu bất tu thì chẳng phải đề cập đến việc tu hành, mà nói về việc xưng danh. Xưng danh so với các việc tu hành thông thường vừa dễ dàng lại vừa siêu việt. Tổ Sư Đàm Loan nói một câu danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật có thể phá trừ vô minh của chúng ta, có thể thỏa mãn ý nguyện của chúng ta. Nhưng lại có hạng người đã và đang xưng Niệm Nam Mô A Di Đà Phật, Nam Mô A Di Đà Phật, nhưng vô minh hoàn toàn không thể phá trừ, ý nguyện của họ cũng không thành là do nguyên nhân gì? Sau đây Ngài sẽ giải thích rõ:
Trước hết, chúng ta hãy giải thích về Vô minh và Mãn nguyện. Vô Minh có hai loại, một là Si Vô Minh, hai là Nghi Vô Minh. Si vô minh chính là các loại phiền não tham, sân, si. Tất cả các Vô Minh đều bao gồm trong Si vô minh.
Loại thứ hai là Nghi vô minh, là chỉ cho việc nghi ngờ sự cứu độ của Phật A Di Đà. Nói chung là tất cả vô minh của tham sân si nói riêng chính là nghi vô minh. Thế thì chỉ cần dẹp bỏ cái nghi Vô minh là sự nghi ngờ đối với Phật A Di Đà, chỉ cần chúng ta tin nhận sự cứu độ của đức Phật A Di Đà, thì dầu cho Tham, Sân, Si, Vô Minh vẫn còn tồn tại, cũng không trở ngại gì. Bởi vì khi vãng sanh về Thế giới Cực Lạc, thì ba độc tham sân si phiền não chắc chắn được đoạn trừ.
*
Một câu danh hiệu A Di Đà Phật có thể diệt trừ vô minh của chúng ta. Trước tiên, là dẹp từ Nghi vô minh. Một khi Nghi vô minh được phá trừ, thì lúc đó phiền não tham, sân, si chắc chắn sẽ được phá trừ. Vì thế, trước tiên phải dẹp trừ vô minh, mà chủ yếu chính là dẹp được Nghi vô minh.
Đối với pháp môn Tịnh độ, tính nghiêm trọng của vô minh không phải là ở tham sân si mà là ở sự nghi ngờ. Bởi vì chúng ta nghi ngờ sự cứu độ của đức Phật A Di Đà, nên chúng ta phải ở mãi trong tam giới lục đạo, tạo tội, tạo nghiệp, thọ khổ báo. Bị luân hồi rồi, nếu được làm người thì sẽ lại tạo 10 nghiệp ác, lại phải sống tranh giành cá lớn nuốt cá bé. Như thế, chẳng phải tội nghiệp của Nghi vô minh, tội nghi ngờ Phật A Di Đà còn nặng hơn tội giết người, phóng hỏa, ngũ nghịch, báng Pháp hay sao?
Vì thế, hoài nghi sự cứu độ của Phật A Di Đà, hoài nghi trí Phật, không tin sự cứu độ, tội nghiệp này nặng hơn tội giết người phóng hỏa. Bởi nghi ngờ nên không thể vãng sanh, phải tiếp tục chịu luân hồi. Luân hồi thì có nguy cơ sẽ tạo nghiệp thập ác, ngũ nghịch, báng Pháp. Bất cứ tội gì cũng có thể tạo tác. Nghi nghĩa là nghi ngờ sự cứu độ của Phật A Di Đà. Đó là tội lớn nhất trong tất cả các tội.
Mãn nguyện
Nguyện có nguyện Chung và nguyện riêng. Chung là nói về những nguyện vọng trong đời sống con người, muốn cái này, muốn cái kia, hy vọng thế này, đòi hỏi thế nọ, nguyện vọng rất nhiều. Trên là nói về nguyện vãng sanh về Thế giới Cực Lạc, là nguyện về việc vãng sanh. Con người tuy có nhiều ý nguyện khác nhau, nhưng chỉ cần thỏa mãn được điều nguyện vãng sanh về Thế giới Cực Lạc, thì các huyện khác cũng sẽ thành tựu.
Bởi vì, chỉ sợ không thành Phật. Chẳng lo thành Phật rồi mà không thể mãn nguyện. Nếu thành Phật rồi thì có Trí Huệ, có thần thông, có thể tự tại như ý thiên biến vạn hóa, chúng sanh đáng dùng thân gì để cứu độ thì liền có thể hiện thân đó mà vì họ thuyết pháp. Vì thế muốn được mãn nguyện thì trước hết phải viên mãn nguyện vãng sanh. Nguyện vãng sanh là căn bản của tất cả các nguyện. Chỉ cần nguyện này được viên mãn thì tất cả những nguyện khác đều có thể thành tựu.
Vì sao xưng danh không được mãn nguyện.
Một câu Nam Mô A Di Đà Phật có thể phá trừ vô minh của chúng ta, có thể thỏa mãn ý nguyện của chúng ta, nhưng vẫn có những người xưng danh mà chưa dẹp trừ được vô minh, ý nguyện của họ vẫn chưa thành. Rốt cuộc là nguyên nhân gì?
Một không Như thật Xưng Danh.
Đại sư Đàm Loan giải thích một cách ngắn gọn: “Chúng ta tuy cũng xưng danh, nhưng chưa phải Như Thật Xưng Danh. Nghĩa là nếu còn có một tí tâm nghi ngờ thì không phải là như thật xưng danh. Nếu đầy đủ tín tâm thì đó là như thật xưng danh. Vì Bất Tri, tức là hai điều không biết. Một câu danh hiệu Phật Có thể diệt trừ tâm nghi ngờ của chúng ta, khiến chúng ta phát khởi niềm tin. Một khi niềm tin phát khởi thì việc mong muốn vãng sanh sẽ đạt được.
Nhưng tại sao lại khó có thể dẹp trừ được sự nghi ngờ này, khiến chúng ta có phát khởi niềm tin? Do vì chúng ta không biết thân của phật A Di Đà là thân thật tướng, thân vì chúng sinh. Vì chúng ta không biết nguyên lý đầu đuôi ngọn ngành và nguồn gốc sanh khởi của câu danh hiệu này. Nếu như chúng ta biết được thì cái Nghi này sẽ được giải trừ, chúng ta sẽ có được niềm tin.
Thân thật tướng là gì? Thân vì chúng sanh là gì? Thân thực tướng là báo thân của phật A Di Đà, là thân thành Phật. Trong nguyện thứ 18, Phật A Di Đà có nói: “Giả sử tôi thành Phật, chúng sanh trong mười phương xưng danh hiệu tôi mà không vãng sanh, thì tôi sẽ không thành chánh giác.” Thân thật tướng là thân tự lợi, đã thành Phật của Phật A Di Đà. Tự thân Ngài đã thành Phật rồi gọi là thân thật tướng.
*
Nếu như chưa thành Phật Ngài vẫn còn là Bồ Tát. Đã là Bồ Tát thì chúng ta không thể mãn nguyện đoạn nghi được. Nhưng Ngài đã thành Phật thì chúng ta sẽ được toại nguyện vãng sanh Vì sao? Vì tư lương vãng sanh, công đức vãng sanh, nơi chốn vãng sanh, đều đã có ở trong câu danh hiệu Phật rồi. Vì thế, một mai Ngài thành Phật rồi, thì danh hiệu sẽ xuất hiện. Danh hiệu đó chính là niềm tin của chúng ta. Danh hiệu được hiển hiện, thì sự nghi ngờ của chúng ta được giải trừ. Vì thế thân thật tướng là thân tự lợi của Phật A Di Đà.
“Nếu tôi Thành Phật” cũng chính là một dạng chánh giác của bậc đã thành chánh giác. Thân vì chúng sanh là thân cứu độ chúng sanh, là thân lợi tha. Sự tồn tại của đức Phật A Di Đà là vì sự cứu độ chúng sanh trong mười phương. Nếu không thể cứu độ chúng sanh thì Ngài căn bản không thể thành Phật được. Mà Ngài đã thành Phật rồi thì hiển nhiên có thể cứu độ chúng sanh trong mười phương.
Do chúng ta không hiểu rõ Phật A Di Đà đã là một vị Phật thân thật tướng, Phật thân vì chúng sanh. Do đó tâm nghi ngờ của chúng ta không thể giải trừ. Đây là đứng từ góc độ Phật mà nói. Còn đứng ở góc độ chính bản thân mình mà nói thì do vì hai điều không biết: Không biết về thân thật tướng và không biết về thân vì chúng sanh. Đây gọi là Nhị bất tri.
Hai Tâm Bất Tín
Vì Nhị bất tri mà dẫn đến Tâm bất tín. Tâm bất tín nghĩa là ba điều không tin, đó là: Thứ nhất: Tín Tâm không thuần, lúc còn lúc mất. Thứ nhì: Tín tâm không chuyên nhất, không chắc chắn. Thứ ba: Tín Tâm không tương tục, bị những niệm khác làm gián đoạn.
Thứ nhất: Tín tâm không thuần.
Chúng ta không biết Phật A Di Đà đã thành Phật, là trở thành Phật mang thân thật tướng, thân vì chúng sanh. Đã không biết thì tín trong tâm chúng ta cũng sẽ không thuần. Không thuần thì không giống như niềm tin lúc ban đầu vốn có. Lúc còn lúc mất nghĩa là khi thì cảm thấy cầm chắc trong tay, khi thì chẳng dám chắc chắn.
“Thuần” theo sự giải thích thông thường giống như một khúc gỗ, nguyên sơ từ trong từng chuyển về chưa qua chạm trổ, chưa qua tôi vẽ sắc màu, đây gọi là Thuần. Cũng giống như Bi Nguyện của Phật A Di Đà, thân thật tướng cứu độ chúng sanh, tức là thân vì chúng sanh, được tiếp nhận vào trong tâm chúng ta một cách Nguyên sơ, không thêm vào bất kỳ sự tính toán, sự kiến giải, sự toan tính đo lường nào của mình, thì tín tâm này là thuần rồi. Do đó nói tín tâm thuần thì sẽ mãi mãi giải trừ được sự nghi ngờ. Tín Tâm không thuần thì vẫn còn ghi.
Thứ nhì: Tín tâm không chuyên nhất.
Phật A Di Đà cứu độ chúng ta là như thế, nghĩa là nguyên sơ, nhưng chúng ta lại không nghĩ như thế. Chúng ta lại cho rằng mình phải thế này, mình phải thế kia, thì mới được cứu độ. Hoặc lại nghĩ, tuy rằng có Thế giới Cực Lạc và có Phật A Di Đà, nhưng chúng ta muốn vãng sanh lẽ nào lại dễ dàng như thế chứ? Chúng ta phải tích lũy cái này một ít, cái kia một ít, hoặc phải tu cái này, tu cái kia, mới có thể vãng sanh.
Người có ý niệm như vậy là không chuyên nhất. Vì không chuyên nhất nên tâm này cứ dao động mãi, phải thế này, phải thế kia, không quyết định chắc chắn. Bởi lẽ cứ ở đó hoặc thế này hoặc thế kia, thêm cái này thêm cái nọ, rất nhiều thứ nhưng chẳng có thứ nào chắc chắn cả, nên gọi là tín tâm không chuyên nhất.
Thứ ba: Tín tâm không tương tục
Vì tín tâm không chuyên nhất, không thể giữ mãi một mực, nên không thể tương tục. Khi phiền não đến thì cảm thấy việc vãng sanh không cầm chắc trong tay. Hoặc là nghe người ta nói Pháp môn khác rất thù thắng, thì liền chuyển qua tu theo pháp môn khác. Vì không thể tin nhận sự cứu độ của đức Phật A Di Đà nên không thể xưng niệm danh hiệu liên tục, vĩnh hằng, bất biến. ( Đại ý vãng sanh luận chú, trong Tịnh độ tam kinh nhất luận đại ý, từ trang 207 đến 212)
Tín tâm và xưng danh thống nhất với nhau
Từ Nhị bất tri mà dẫn đến Tam bất tín. Nếu như có nhị tri thì có tam tín. Tam Tín là đứng trên ba góc độ để giải nói. Thật ra tam tín gói gọn trong tín tâm. Vì vậy việc xưng danh hiệu Phật thật sự đặt ngay nơi tín tâm này. Bạn có niềm tin rồi thì tự nhiên sẽ xưng danh. Xưng danh như vậy chính là như thật tu hành, như thật xưng danh. Nếu không có niềm tin thì chẳng phải là như thật xưng danh.
Nhưng những điều này đều đứng trên góc độ của chúng ta để nói. Còn đối với bản thân Phật A Di Đà, thì ngài cứu độ hết thảy chúng sanh trong mười phương. Bất kể bạn biết hay không biết, tin hoặc chẳng tin, ngài đều muốn cứu độ cả. Chỉ e là vì không biết, không tin, mà bạn bỏ chạy ra thật xa.
*
Nếu bạn không bỏ chạy, mãi mãi ở ngay đó, nghĩa là bạn luôn xưng niệm một câu danh hiệu Phật mãi mãi không thay đổi, thì vẫn được vãng sanh như thường. Bởi vì bất tri bất giác niềm tin đã có ở trong câu danh hiệu rồi. Bất tri bất giác câu danh hiệu này đã tự nhiên vận hành ở ngay nơi đó rồi.
Vì thế Tổ sư Đàm Loan một mặt nói người nguyện vãng sanh sẽ được vãng sanh, một mặt lại nói phải có tam tín mới có thể như thật tu hành. Thế chẳng phải mâu thuẫn với nhau hay sao?
Thực ra chẳng mâu thuẫn gì cả! Những người mà suốt đời giữ mãi tâm nguyện vãng sanh, những người mà suốt đời luôn giữ mãi việc xưng danh niệm Phật, thì niềm tin tự nhiên đã có ở ngay trong đó rồi, nếu không thì họ làm sao có thể được như thế? Họ có thể được như thế cũng là do thiện căn đời trước của họ, đồng thời bất tri bất giác niềm tin đã ở ngay trong đó rồi. (Đại ý vãng sanh luận chú, trong Tịnh độ tam kinh nhất luận đại ý, từ trang 207 đến 212)
Tuệ Tâm 2023.
CUNG KÍNH viết
CHỊ TUỆ TÂM ƠI
CÁC BÀI VIẾT BÊN TRÊN☝️ NÀY LÀ CỦA ĐẠI SƯ THIỆN ĐẠO PHẢI KO Ạ
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tất cả đều trích dần trừ video mà ra, đều thuộc tư tưởng Bản Nguyện Niệm Phật của Tổ Thiện Đạo cả bạn ạ!
CUNG KÍNH viết
DẠ EM CẢM ƠN CHỊ TUỆ TÂM NHIỀU Ạ
XIN TRI ÂN CÔNG ĐỨC CHỊ Ạ❤️
Cung Kính viết
“Hai thứ thâm tín gom vào Nhất hướng chuyên xưng, với những điều vừa nói và việc đức Thích Ca phó chúc cho Tôn giả A Nan lưu thông Trì danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, cùng với những điều mà Đại Sư Thiện Đạo giải thích về nhất hướng chuyên xưng danh hiệu Phật A Di Đà, tất cả đều không nói đến việc chúng sanh Tin hay là không tin, mà chỉ nói Nhất Hướng Chuyên Xưng danh hiệu Phật A Di Đà, đâu có nói là bạn tin hay nghi?
Đã xưng danh rồi thì dù tin có sâu cạn, nghi có nhiều thứ, nhưng tất cả những điều này đều không màng đến nữa. Bạn chỉ cần xưng danh là chắc chắn được vãng sanh! Như thế xưng danh chính là đã bao gồm niềm tin ở trong đó!”
**Tuệ Tâm cho con hỏi đoạn khai thị trên là Pháp sư Huệ Tịnh ngài giải thích lời dạy của Đại sư Thiện Đạo phải không ạ?
Đoạn khai thị trên rất tuyệt vời. Nay đọc được thật sự xúc động vui mừng muốn khóc. Đây chính là câu trả lời cho câu hỏi mà con thắc mắc từ lúc mới chập chững học Phật đến giờ, nó âm thầm ghim trong lòng cả gần chục năm nay.
Thời đó con nghe về Tín Nguyện Hạnh vãng sanh, mà Tín là quan trọng nhất nên con tìm hiểu thêm rất kĩ. Nào tự hỏi thế nào là tín, thế nào là nghi. Rồi nọc tâm mình ra cật vấn, mình đã tin chưa? Nếu có tin rồi thì tin đã đủ “sâu” chưa? Làm sao để biết đã tin sâu? Còn mảy may nghi ngờ nào không? Phải mau chóng tìm nghi để diệt trừ đi….
Lâu ngày, Tín thì chẳng thấy tăng trưởng, chẳng thấy hiểu biết gì thêm mà tâm càng lúc càng mờ mịt, có lúc còn cảm thấy đường vãng sanh rất chông chênh.
Nay được Phật Bồ Tát gia trì, gặp được đoạn khai thị bất khả tư nghì trên đây, mới hiểu rõ ràng cái tín thật sự mà mình đang tìm kiếm vốn nằm trọn đủ trong Chánh hạnh hiện đang hành trì. Con vốn bỏ qua không đọc bài này mấy lần, vì nghĩ đây là chủ đề không mới, mình đã đọc quá nhiều về Tín tâm rồi, nhưng hôm nay tự nhiên lại bấm vào xem thử. Không ngờ lại gặp được mỏ vàng ở đây.
Đoạn khai thị trên chính là phương diệu dược cho những ai tự thắc mắc về tín tâm của mình đã “sâu”, đã đủ để vãng sanh hay chưa.
Nam mô A di đà Phật.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Đúng vậy bạn ạ! Toàn bộ bài giảng của Pháp sư Huệ Tịnh đều lấy Tư Tưởng Tịnh Độ của Đại Sư Thiện Đạo làm nền tảng. Tuệ Tâm đưa file này lên, thấy nội dung vô cùng hay và hữu ích, giúp người ta phá các chấp trước và nghi nan về Tín, nhưng từ hôm ấy đến nay vẫn không hiểu vì sao rất ít người nghe, nhờ bình luận của bạn mới hiểu tại sao! Vì thế lại vừa phải lọ mọ sửa lại chút đầu bài để cho người ta biết mà nghe đọc.
“Đã xưng danh rồi thì dù tin có sâu cạn, nghi có nhiều thứ, nhưng tất cả những điều này đều không màng đến nữa. Bạn chỉ cần xưng danh là chắc chắn được vãng sanh! Như thế xưng danh chính là đã bao gồm niềm tin ở trong đó!” Đoạn này giải thích vì sao chim oanh vũ niệm Phật, người ăn cá do Phật A Di Đà biến hiện và những người không biết chi về tín nguyện, nhất tâm, vọng niệm…đều chỉ nhờ niệm sáu chữ hồng danh mà được vãng sanh vậy!
Cung Kính viết
Nam mô A di đà Phật.
Thuyết Tín tâm này mới chính là viên mãn. Thế mới phô trọn bản hoài của Phật.
Cảm ơn Tuệ Tâm vì những bài pháp rất hay và quý.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Trước đây người học Phật chúng ta bị nhồi nhét vào đầu đủ thứ kiến giải sai lầm về Tịnh Độ. Biết Tin Sâu nguyện Thiết là trọng yếu bậc nhất, nhưng thế nào là Tin sâu, thế nào là Nguyện thiết thì giáo lý Tự lực niệm Phật rất mù mờ, càng đọc càng rối. Trước tác của bậc Chứng Đạo, tuy vì thời tiết nhân duyên khai thị, nhưng ít ra còn có biệt ý nên chẳng đến nỗi nào. Còn trước tác của các Pháp sư giảng kinh chưa Chứng Đạo mà đọc vào mới thực là khốn khổ, câu trước đá câu sau, rối tinh rối mù, khiến người ta không biết phải như thế nào là đúng. Nay đọc được lời dạy của Tổ Thiện Đạo, như nắng ban mai xóa sạch sương mờ, lời Ngài bảo “Khải Định Cổ Kim” quả đúng là Chân Thật Ngữ!
Cung Kính viết
Nam mô A di đà Phật
Nam mô A di đà Phật
Nam mô A di đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Khi giảng kinh A Di Đà, Tuyên Hóa Thượng Nhân dạy: “Khi Phật pháp sắp diệt, diệt trước nhất là Kinh Lăng Nghiêm, vì tất cả Ma vương đều rất sợ chú Lăng Nghiêm. Sau Kinh Lăng Nghiêm diệt, các kinh khác lần lượt diệt theo. Lúc bấy giờ dù có giấy đi nữa, nhưng trên giấy không có chữ… Sau cùng chỉ còn sáu chữ hồng danh “Nam mô A Di Đà Phật” lưu lại trên thế giới này hơn 100 năm nữa. Nhờ sáu chữ hồng danh này mà rất nhiều người được độ, có đến số vô lượng vô biên. Sau đó, trong sáu chữ hồng danh lại mất đi hai chữ “Nam mô”, chỉ còn “A Di Đà Phật” lưu lại 100 năm nữa, sau đó Phật pháp mới diệt hẳn.
Qua lời dạy của Ngài thì biết vào thời Pháp diệt, kinh điển không còn trên thế gian, lúc ấy người ta chẳng biết thế nào là tín, thế nào là nguyện, thế nào là giới, là hạnh, là Bồ Đề…Tất tần tật về Phật pháp chỉ còn lại mỗi lục tự hồng danh, sau rốt lại chỉ còn 4 chữ A Di Đà Phật. Vậy họ không biết tín, nguyện thì được vãng sanh là do đâu? Chẳng phải là nhờ Xưng Danh và sức mạnh của Bản nguyện hay sao?
Cung Kính viết
Nam mô A di đà Phật.
Những người niệm Phật vào cuối thời pháp diệt, khi kinh pháp diệt sạch chỉ còn mỗi câu danh hiệu. Họ thậm chí chẳng biết thế nào là vãng sanh, vì thế nên cả đời chẳng bao giờ có những câu hỏi như: liệu mình có vãng sanh hay không, liệu Phật có đến rước lúc lâm chung hay không, liệu mình đã niệm đủ tốt để vãng sanh hay chưa. Thế nên chẳng có hoài nghi, cứ ung dung an nhiên mà vãng sanh. Con vẹt niệm Phật vãng sanh cũng vậy, nó cũng không có những vấn đề này. Thế cho nên thầm hợp bản nguyện. Đáng gọi là Tín Nguyện đều âm thầm nằm cả trong sự Niệm Phật.
“Nói tín nguyện chính là dành cho chúng ta”, bởi chúng ta còn đang có tâm phân biệt thị phi.
Có người nói rằng không cần Tín Nguyện, chỉ cần niệm Phật là có thể vãng sanh, làm gì có cái lẽ ấy! Nếu không Tín Nguyện mà niệm Phật thì rơi vào Tự Lực mất rồi! Ngay Đại sư Thiện Đạo đề khởi Chánh hạnh, cực lực khuyên Chuyên tu Chuyên niệm danh hiệu, ngài cũng chưa bao giờ phế bỏ Tín Nguyện cả. Không Tín mà niệm Phật cầu vãng sanh, cao nhất là vào Biên Địa. Không Nguyện thì chẳng được vãng sanh.
Con không ngại trí ngu tối cạn cợt viết ra những dòng trên. Nếu có gì sai sót mong Tuệ Tâm lượng thứ chỉ bảo.
Nam mô A di đà Phật.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Đúng vậy bạn ạ, vấn đề này Pháp sư Huệ Tịnh cũng đã giảng rõ trong các file trước, tiếc thay ít người chịu nghe. Thực ra trong file này Pháp sư giảng để giúp người ta phá cái chấp trước về Tín Nguyện chớ không phải phế bỏ Tín Nguyện. Tại sao cần phải phá chấp trước? Như nhiều người không rõ liền cứ ít câu niệm Phật lại xen một lời Phát Nguyện vãng sanh, hoặc có người niệm Phật nhưng lúc nào cũng lo lắng, không biết mình tin đủ sâu chưa, phát nguyện đủ thiết tha hay chưa…mọi chuyện chỉ đơn giản thế thôi.
Tư tưởng Tịnh Độ của Tổ Thiện Đạo, do “khải định cổ kim” nên khi truyền bá gặp chướng ngại rất nhiều, vì đa phần người niệm Phật ngày nay đều quen với giáo lý Tự Lực nên khi nghe liền thấy khó thâm nhập. Có người gửi mail cật vấn, phê bình tôi tại sao lại viết thế này thế kia? Tôi bảo: “Nội dung toàn bài giảng của Pháp Sư Huệ Tịnh, bạn phải viết thư vấn Pháp Sư Huệ Tịnh, chớ hỏi kẻ phàm phu trí huệ cạn cợt như tôi thì có ích gì? Tôi chỉ là phàm phu, trí huệ chẳng có, thấy lợi lạc cho người thì đăng lên thôi. Tôi cũng tự thấy mình ngoài niệm Phật ra thì chẳng biết gì, nên trước nay thủy chung chẳng dám khởi niệm tranh cãi đúng sai hay hơn thua với ai cả vậy!”
Cung Kính viết
Nam mô A di đà Phật
Hiện nay Tuệ Tâm chia sẻ giáo pháp còn gặp trở ngại như thế, hẳn Pháp sư Huệ Tịnh phải có Định lực Trí Tuệ rất cao thâm để hoá giải chướng ngại trên đường hoằng pháp. Việc làm người tiên phong khơi lại pháp mạch xưa từ Đại sư Thiện Đạo thật không phải dễ dàng.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Xin thường niệm sáu chữ hồng danh Nam mô A Di Đà Phật 🙏 viết
Bài này có nghĩa là khi mình niệm Phật thì tín, nguyện có sẵn trong câu Phật hiệu rồi đúng không ạ!
Khi giáo pháp diệt tận, diệt đến chỉ còn câu A Di Đà Phật 🙏 họ không biết tín, nguyện, mà họ vẫn được vãng sanh là do họ không có tâm nghĩ ngờ ạ!
Hiến Đinh viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Đọc bài này tâm con bỗng dưng nhảy nhót, vui sướng như trẻ thơ thấy mẹ. Con thật không biết diễn tả như thế nào. Tóm lại là cực kì hoan hỷ. Con thật không biết cảm ơn Tuệ Tâm như thế nào cho đủ. Hẹn gặp Tuệ Tâm ở Tây Phương Cực Lạc.
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.