Công đức xuất gia thật vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Giả sử có người tận tâm cúng dường đủ bốn thứ cho tất cả các A-la-hán khắp bốn châu suốt trăm năm, khi các A-la-hán nhập Niết-bàn, đều xây bảo tháp và dâng cúng đủ thứ hương hoa anh lạc, cũng không thể sánh bằng công đức xuất gia giữ giới trọn một ngày đêm. Kinh Đại-duyên nói: “Nhờ một ngày đêm xuất gia, suốt 32 kiếp sẽ không bị đọa vào ba đường ác.”
Kinh Xuất-gia-công-đức nói: “Nếu sánh với phóng thích nam nữ nô tỳ và tội nhân, xuất gia có công đức nhiều vô lượng. Nếu có người cúng dường các A-la-hán khắp bốn châu suốt trăm năm, cũng không bằng người vì cứu cánh Niết-bàn, xuất gia thọ giới một ngày đêm, công đức của người này sẽ nhiều vô lượng. Lại nữa, nếu sánh với xây tháp Phật bằng thất bảo cao đến tầng Trời Tam Thập Tam, cũng không bằng công đức xuất gia.”
- Xuất gia là chuyện vô cùng hệ trọng.
- Công đức là gì, phước đức là gì.
- Pháp Bảo Đàn Kinh.
- Tôn giả Nan Đà.
- Tổ Bồ Đề Đạt Ma huyền tích chuyện.
- Tự lực niệm Phật và Tha lực niệm Phật.
- Bản nguyện niệm Phật, trọng yếu đường tu thời Mạt pháp.

Đức Phật luận về Công Đức Xuất Gia
Kinh Văn-Thù-Vấn-Phật nói: “Đức Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: “Tất cả mọi công đức đều không bằng tâm xuất gia. Tại sao? Vì người tại gia có vô số lỗi lầm, người xuất gia được vô lượng công đức. Người tại gia bị chướng ngại, người xuất gia không bị chướng ngại. Người tại gia làm điều ác, người xuất gia xa lìa điều ác. Người tại gia ở chỗ bụi trần, người xuất gia bỏ chỗ bụi trần. Người tại gia chìm đắm trong dục vọng ô trược, người xuất gia thoát khỏi dục vọng ô trược.
Người tại gia sống theo kẻ ngu si, người xuất gia xa lánh thói kẻ ngu si. Người tại gia không đạt được chánh mạng, người xuất gia có được chánh mạng. Người tại gia sống ở chỗ lo âu phiền não, người xuất gia sống ở chỗ an vui. Người tại gia ở chỗ trói buộc, người xuất gia ở chỗ giải thoát. Người tại gia ở chỗ tai hại, người xuất gia ở chỗ không tai hại. Người tại gia ở chỗ tham lam lợi lạc, người xuất gia không tham lam.
Người tại gia ở chỗ náo nhiệt, người xuất gia ở chỗ thanh tịnh. Người tại gia ở chỗ thấp hèn, người xuất gia ở chỗ cao thượng, người tại gia bị phiền não nung nấu, người xuất gia tiêu diệt được phiền não. Người tại gia thường lo toan cho người khác, người xuất gia chỉ lo tu sửa bản thân. Người tại gia lấy khổ làm vui, người xuất gia lấy giải thoát làm vui. Người tại gia nuôi dưỡng gai góc, người xuất gia biết diệt trừ gai góc.
*
Người tại gia thành tựu chuyện nhỏ nhoi, người xuất gia thành tựu việc trọng đại. người tại gia thật vô ích, người xuất gia rất hữu ích. Người tại gia bị tam thừa chê bai, người xuất gia được tam thừa ca tụng. Người tại gia không biết tri túc, người xuất gia luôn luôn tri túc. Người tại gia được Ma vương yêu thích, người xuất gia khiến Ma vương sợ sệt. Người tại gia có nhiều phóng túng, người xuất gia không phóng túng. Người tại gia chịu người sai khiến, người xuất gia làm chủ mọi sai khiến.
Người tại gia ở chỗ hắc ám, người xuất gia ở chỗ quang đãng. Người tại gia Tăng trưởng ngã mạn, người xuất gia tiệu diệt ngã mạn. Người tại gia ít có phước báo, người xuất gia hưởng nhiều phước báo. Người tại gia nhiều siểm nịnh, người xuất gia có lòng chất trực. Người tại gia thường có nhiều ưu khổ, người xuất gia luôn được an vui. Người tại gia thường lừa dối, người xuất gia thì chân thật. Người tại gia thường bị tán loạn, người xuất gia không bị tán loạn.
Người tại gia sống ở chỗ hay biến động, người xuất gia sống ở chỗ không thay đổi. Người tại gia như thuốc độc, người xuất gia như nước cam lồ. Người tại gia mất tư duy hướng nội, người xuất gia có tư duy hướng nội. Người tại gia không có chỗ quy y, người xuất gia có chỗ quy y. Người tại gia có nhiều sân hận, người xuất gia có nhiều Từ bi.
*
Người tại gia mang gánh nặng, người xuất gia trút gánh nặng. Người tại gia có tội lổi, người xuất gia không có tội lỗi. Người tại gia luân chuyển trong vòng sanh tử luân hồi, người xuất gia có thời hạn. Người tại gia lấy tiền tài làm bảo vật, người xuất gia lấy công đức làm bảo vật. Người tại gia gia trôi theo dòng sinh tử, người xuất gia lội ngược dòng sinh tử.
Người tại gia là biển phiền não lớn, người xuất gia là bè thuyền lớn. Người tại gia bị dây dưa trói buộc, người xuất gia thoát khỏi trói buộc. Người tại gia bị Quốc vương giáo hóa, người xuất gia được Phật pháp giáo hóa. Người tại gia dễ kiếm bạn bè, người xuất gia khó kiếm pháp lữ. Người tại gia lấy tàn hại làm hơn, người xuất gia lấy nắm giữ làm hơn. Người tại gia Tăng trưởng phiền não, người xuất gia thoát khỏi phiền não. Người tại gia như ở giữa rừng gai, người xuất gia vượt khỏi rừng gai.
Này Văn-thù-sư-lợi! Nếu ta chê bai người tại gia, khen ngợi người xuất gia, dẫu đem lời chất đầy hư không, cũng không thể diễn tả đến cùng tận. Đấy chính là lỗi lầm của người tại gia và công đức của người xuất gia.”
Công đức Xuất gia: Vĩnh viễn không bị mất đi.
Luận Trí Độ nói: “Trong Phật pháp, người xuất gia tuy phá giới mang tội, đến khi hết tội, sẽ được giải thoát”. Giống như trong kinh Ưu-bát-la-hoa-Tỳ-kheo-bản-sinh nói: “Khi đức Phật còn tại thế, Tỳ-kheo-ni này có đủ sáu phép thần thông và chứng được quả A-la-hán. Vào nhà các vị quý tộc, Tỳ-kheo-ni thường ca tụng công đức xuất gia, bảo các mệnh phụ rằng: “Chị em nên xuất gia”.
Các mệnh phụ trả lời: “Chúng tôi đang tuổi thanh xuân, nhan sắc xinh đẹp, giữ giới rất khó, sợ sẽ phạm phải.”
Tỳ-kheo-ni bảo: “Dù biết phá giới, vẫn nên xuất gia”.
Các mệnh phụ thắc mắc: “Phá giới sẽ bị đọa địa ngục, làm sao dám phá?”
Tỳ-kheo-ni đáp: “Bị đọa thì cứ đọa!”
Các mệnh phụ cười rân lên, hỏi: “Địa ngục là chỗ chịu tội, làm sao dám xuống?”
Tỳ-kheo-ni trả lời: “Ta nhớ lại vào kiếp trước, làm đào hát ăn mặc đủ thứ áo quần và nói cười cợt nhả. Đôi lần còn mặc áo Tỳ-kheo-ni để làm trò. Vì thế, vào thời đức Phật Ca-diếp, ta được trở thành Tỳ-kheo-ni. Ỷ thị con nhà quý tộc đẹp đẽ, ta sinh lòng ngã mạn, phá giới, nên bị đọa địa ngục, chịu đủ mọi tội khổ. Khi hết tội, ta gặp đức Phật Thích-ca-Mâu-ni, xin xuất gia và chứng được quả A-la-hán. Ta dù có phá giới, cuối cùng vẫn đạt đạo quả.”
*
Khi đức Phật ở Kỳ-hoàn, có kẻ Bà-la-môn say rượu đến chổ ngài xin làm Tỳ-kheo. Đức Phật bảo A- nan cạo tóc và mặc cho pháp phục. Khi tỉnh rượu, kẻ Bà-la-môn ấy vô cùng hoảng sợ, vì thấy thành Tỳ-kheo, liền bỏ chạy mất. Các Tỳ-kheo hỏi đức Phật rằng: “tại sao lại cho kẻ Bà-la-môn ấy làm Tỳ-kheo?”
Đức Phật bảo: “Kẻ ấy từ vô lượng kiếp, không có tâm xuất gia. Nay tạm thời phát chút ít tâm ấy, sau này nhờ đó, sẽ xuất gia thành đạo”.
Qua các nhân duyên trên đây, dễ thấy xuất gia có lợi ích rất lớn ấy là mang lại vô số công đức. Do đó, người đời tuy giữ gìn đủ năm giới cấm, cũng không bằng người xuất gia có công đức lớn lao hơn”.
Tôn giả Xà Dạ Đa và Chuyện Xuất gia
Theo Kinh Phó-pháp-tạng: “Ngày xưa, Tôn giả La-hán Xà-dạ-đa dẫn các đệ tử đến thành Đức-xoa-thi-la. Khi vừa đến thành Tôn giả buồn bã không vui. Đi một quãng, thấy con quạ nhỏ, Tôn giả mỉm cười vui lên. Các đệ tử hỏi lý do, Tôn giả đáp rằng: “Khi mới đến dưới cổng thành, ta gặp một con quỷ nhỏ rất đói, bảo ta rằng: “Mẹ tôi vào thành kiếm đồ ăn cho tôi đã năm trăm năm nay, tôi đói khát kiệt sức, sắp chết đến nơi. Tôn giả vào thành, nếu gặp mẹ tôi, xin nói dùm nỗi khổ của tôi và nhắn mẹ tôi ra mau”.
Ta vừa vào thành, liền gặp quỷ mẹ. Ta nhắn lại lời quỷ con, quỷ mẹ nói rằng: “Tôi vào trong thành đã năm trăm năm nay, nhưng chưa gặp đờm dãi của người nào khác nhổ cả. Tôi lại vừa sinh xong, sức lực suy yếu, dẫu gặp chút ít, bọn quỷ khác cũng sẽ giành mất. Nay mới gặp một người nhổ ra chút ít, muốn đem ra cổng thành, mẹ con chia nhau ăn, nhưng dưới cổng thành có nhiều quỷ chúa đang chực sẵn, nên không dám ra. Xin Tôn giả thương xót đưa giúp tôi ra”.
Ta bèn dắt quỷ mẹ ra cho quỷ con cùng ăn. Ta hỏi quỷ mẹ: “Sinh ra lúc nào?”
Quỷ mẹ đáp: “Tôi thấy thành này đã trải qua bảy phen thành hoại”.
*
Nghe quỷ mẹ nói, ta đâm buồn bã về lẽ sống chết và chịu khổ quá lâu dài. Còn chuyện quạ con kia, cách đây chín mươi mốt kiếp, vào thời đức Phật Tỳ-bà-thi, ta là con của vị Trưởng giả, ao ước muốn xuất gia. Hồi đó, nếu xuất gia, ta đã chứng được quả A-la-hán. Cha mẹ ta không cho phép, ép ta cưới vợ. Cưới xong, ta lại muốn xuất gia. Cha mẹ ta bảo: “Ráng sinh được một bé trai, sẽ cho ra đi”.
Ta nghe lời cha mẹ, khi sinh được con trai lên sáu tuổi, ta lại muốn xuất gia. Cha mẹ ta dạy đứa bé ấy ôm lấy chân ta, khóc òa lên và nói với ta rằng: “Nếu cha bỏ con, ai sẽ chăm sóc nuôi con? Xin hãy giết con rồi đi!?
Thấy thế, ta động lòng thương yêu, liền bảo con ta: “Vì thương con, cha sẽ không xuất gia nữa”.
Đứa con ấy, từ chín mươi mốt kiếp qua, bị lưu chuyển trong năm đường ác, ta không còn thấy lại. Nay dùng mắt pháp nhìn con quạ kia, chính là đứa con của ta trong tiền kiếp ấy. Động lòng thương xót nó ngu si, bị đọa đày trong vòng sinh tử, nên ta mỉm cười”.
Do đó, nếu kẻ nào cản trở người xuất gia, sẽ bị tội nghiệp luân lưu trong đường ác, chịu đủ mọi thống khổ, không được giải thoát. Khi hết tội, sinh lên làm người, đui mù không có mắt. Vì thế, bậc trí giả thấy người khác muốn xuất gia, thường dùng mọi cách, ân cần khuyến khích, giúp đỡ người ấy hoàn thành tâm nguyện, tuyệt không tỏ ý cấm ngăn”.
Pháp sư Cầu Na Hạt Ma
Chùa Kỳ-hoàn ở kinh đô nước Tống có pháp sư Cầu-na-hạt-ma (Nghĩa là Giáp Trụ công đức), thuộc dòng dõi quý tộc, đời đời làm vua nước Kế-tân. Ngài nói năng lưu loát trí tuệ thông minh, độ lượng lớn lao, Từ bi bác ái, hâm mộ đạo đức. Tháng giêng năm Nguyên Gia thứ tám (431) Ngài đến Kiến Nghiệp, vua Tống Văn đế mới vào cung tham kiến, ân cần ủy lạo.
Nhà vua nói: “Đệ tử muốn giữ chay tịnh, không phạm sát giới, nhưng hoàn cảnh bắt buộc nên chí nguyện không thành. Pháp sư không quản đường xa vạn dặm, sang đây giáo hóa, liệu có điều gì chỉ dạy đệ tử chăng?”
Ngài đáp rằng: “Thiết nghĩ đạo cốt ở tâm, không phải ở chăm lo pháp vụ, do mình chứ không do người. Hơn nữa, bậc đế vương và kẻ dân thường tu đạo có chỗ khác biệt. Kẻ dân thường thân thế nghèo hèn, danh dự thấp kém, nói năng sai khiến không đủ uy nghi. Nếu không tu sửa bản thân, làm sao trở thành hữu dụng?
Bậc đế vương lấy bốn biển làm nhà, vạn dân làm con, nói một lời hay, nam nữ đều đẹp dạ, ban một lệnh tốt, quỷ thần đều hợp lòng. Hình luật không xử tử trẻ nhỏ, lao động không phí phạm sức dân. Khiến cho mưa gió thuận hòa, ấm lạnh điều độ, lúa má tốt màu, dâu đay tươi sắc. Giữ chí chay kiêng như thế là chay kiêng rất lớn; giữ giới không giết như thế là không giết rất nhiều. Cần gì phải nhịn nửa buổi không ăn, tha một mạng thú không giết, mới gọi là tế độ hết thảy!”
*
Nhà vua vỗ ghế khen rằng: “Ôi! Kẻ phàm mê muội ở nghĩa lý viễn vông, Sa-môn cố chấp vào giáo hóa thiển cận. Mê muội ở chân lý viễn vông gọi là cứu cánh hư vô không tưởng; cố chấp vào giáo hóa thiển cận gọi là câu nệ chương cú ngôn từ. Đến như lời chỉ dạy của pháp sư thật đáng gọi là phóng khoáng minh triết. Có thể cùng bàn luận đến phạm vi Trời người!”
Rồi nhà vua ban sắc phong ngài làm trụ trì chùa Kỳ-hoàn và cúng dường rất trọng hậu, các bậc vương công danh tiếng đều tôn sùng. Ngài phiên dịch nhiều kinh luận, văn từ nghĩa lý chính xác rõ ràng, đối chiếu Hán Phạm minh bạch không sai.
Bấy giờ các Tỳ-kheo-ni Tuệ quả và tịnh Am ở chùa Anh Phúc thỉnh cầu ngài rằng: “Cách đây sáu năm, có tám vị ni của nước Sư tử đến đây than phiền đất Tống xa xôi, chưa từng có ni, nữ giới đạo đời không chổ thọ giới, sợ giới phẩm sẽ không được bảo toàn!”
Ngài đáp: “Lâu nay, giới phẩm chỉ do chư Tăng truyền thọ. Nếu không xác đáng, sợ không đắc giới mà còn hại đến cơ duyên mộ đạo.”
Các Tỳ-kheo-ni băn khoăn chư ni chưa đủ tuổi hạ, nhưng vẫn tha thiết muốn đổi thay phép truyền giới.
*
Ngài khen rằng: “Lành thay; nếu muốn đổi thay cho sáng sủa hơn, ta rất tùy hỷ. Chỉ hiềm chư ni Ấn Độ chưa đầy tuổi hạ và số lượng chưa đủ. Tạm thời nên cho học tiếng nước Tống, ta sẽ nhờ các cư sĩ ở đây rước thêm một số ni người ngoại quốc cho được mười vị, rồi sẽ tính”.
Mùa hạ năm ấy, ngài an cư tại chùa Định Lâm. Có tín chủ rải hoa lên pháp tọa, riêng hoa ở chổ ngài màu sắc thắm tươi không héo, đại chúng càng tôn sùng như bậc Thánh. Xuất gia, ngài về chùa Kỳ-hoàn. Đến ngày hai mươi tám tháng chín, thọ trai chưa hết, ngài đã đứng lên và còn hỏi thăm các đệ tử. Những vị đến sau không kịp nữa, ngài đã lặng lẽ viên tịch, hưởng thọ sáu mươi lăm tuổi.
Tăng chúng đỡ ngài lên Thiền sàng, thần sắc vẫn không biến đổi, giống như đang nhập định. Đại chúng hơn một ngàn người đều nghe mùi hương tỏa ra thơm ngát. Có một vật dài khoảng một trượng, tương tự loài Rồng, từ bên mình ngài bay thẳng lên Trời, không ai biết là gì. Đệ tử dùng củi tốt tẩm dầu thơm làm lễ hỏa thiêu. Lửa ngũ sắc bốc lên nghi ngút giữa lừng không. Tứ chúng vây quanh, kêu gào vang Trời. Tất cả đều khóc lóc nhìn theo, không ai cầm lòng được.
Chuyện Sa Môn Trí Nghiêm
Chùa Chỉ-viên ở kinh đô nước Tống có Sa-môn Trí Nghiêm, vốn người châu Tây Lương, xuất gia từ nhỏ, tinh thành nổi tiếng. Từng du học Ấn Độ để tham cứu Thiền chỉ, thông hiểu Không luận, không ai sánh kịp. Sau trở về miền Tây Lương, mang theo kinh điển bằng Phạm văn, nhưng chưa tiện dịch. Năm Nguyên Gia thứ tư đời Tống Văn đế (427) Sa-môn hợp tác với Pháp sư Bảo Vân dịch ra Hán văn.
Ngài không nhận lời mời riêng của thí chủ, chỉ lo tự túc sinh hoạt. Cơ duyên hóa độ thật diệu kỳ, hai cõi âm dương đều tuân phục. Có người từng gặp quỷ kể lại, thấy bọn quỷ ở đền thờ lớn tại Tây Lương nói với nhau: Ông Nghiêm đang đến, phải tránh cho mau!” Người này không hiểu. Một lát sau, thấy ngài đi đến, hỏi thăm tên, tự xưng là Trí Nghiêm, nên càng âm thầm kính trọng hơn nữa.
Dị Nghi kể cho Tiêu Tư, người Giang Lăng, chuyện vợ là Lưu Thị mắc bệnh quỷ ám. Thường thấy quỷ xông đến kêu réo, làm cho sợ hãi, Phải mời ngài đến chữa trị. Ngài vừa vào nhà trước, Lưu thị thấy bầy quỷ kéo nhau chạy tán loạn. Ngài giảng kinh cho phu nhân ấy nghe, bệnh liền giảm. Nhân đó, xin thọ trì ngũ giới, cả nhà đều quy y thờ Phật. Ngài sống thanh cao đạm bạc, vừa được cúng dường, liền đem bố thí.
*
Từ nhỏ, ngài đã làm du Tăng, càng không vướng bận vật chất. Bản tính khiêm nhường, không nói về mình dẫu có nhiều đạo hạnh, nhưng không được lưu truyền. Thuở chưa xuất gia, ngài đã thọ ngũ giới, thỉnh thoảng phạm phải. Về sau xuất gia, khi thọ giới cụ túc, thường nghi ngờ không đắc giới, ngài lấy làm lo lắng.
Nhiều năm quán tưởng, ngài vẫn không giải nổi mối nghi nan, bèn vượt biển sang lại Ấn Độ, tham kiến các vị Tỳ-kheo đã chứng quả A-la-hán, bày tỏ sự tình. Các vị A-la-hán cũng không dám quyết đoán; phải nhập định, lên thiên Nội Viện Đâu Suất tham vấn Bồ-tát Di-lặc, được đáp rằng đắc giới. Nghe báo tin lành, ngài mừng rỡ vô cùng, liền theo đường bộ về nước. Đến Kế-tân, tự-nhiên viên tịch, không có bệnh gì, thọ được 78 tuổi.
Nước ấy có lệ hỏa thiêu Thánh Tăng phàm Tăng hai chỗ khác nhau. Ngài đạo hạnh cao siêu, nhưng không ai biết rõ, phải táng vào khu mộ Phàm Tăng. Xác ngài bỗng hóa nặng, không tài nào khiêng nổi, phải đưa sang khu mộ Thánh Tăng. Lạ thay, xác hóa nhẹ, khiêng đi như không. Chuyện này do hai đệ tử của ngài là Trí Minh và Trí Viễn sang báo cho hay, rồi lại trở về bên nước ấy. Có thể đoán chắc rằng ngài đã đắc đạo, nhưng không biết chứng quả cao thấp bậc nào.
( Công đức Xuất gia – Theo Pháp Uyển Châu Lâm )
Tuệ Tâm 2022.
Để lại một bình luận