Cầu mưa, thế gian cho là chuyện thần thoại lúc trà dư, nhưng với người học Phật, cầu mưa vốn chẳng phải chuyện chi lạ lùng, cổ kim đến nay, chuyện này nhiều không kể xiết! Chỉ là, để làm được việc ấy phải là bậc chân tu giới hạnh tinh nghiêm mới kham nổi, còn hàng tinh mị yêu ma, có lễ lạt cúng kiếng cũng chỉ là chuyện mê hoặc người để kiếm cơm dạo mà thôi, đạo hạnh đâu ra mà sai khiến được Rồng thần.
Một bạn đọc hỏi: “Chuyện cầu mưa, chuyện rồng làm mưa có thật không?”
Tôi bảo: “Thật! Chỉ hiềm vì nói chuyện rồng làm mưa ở thời @ này, thật không tránh khỏi bị người ta hủy báng. Nhưng sự thật vốn là như thế, chúng ta nghiệp nặng phước mỏng nên chẳng được chứng kiến đó thôi.”
Nay tôi khảo cứu trong các sách, chép lại ít câu chuyện cầu mưa hầu bạn đọc. Chỉ mong bạn đọc tăng trưởng tín tâm và rộng mở kiến văn. Như bạn tin được thì thật tốt lành, còn như chẳng tin cũng xin hãy xem như đọc chuyện lúc trà dư, chớ sanh tâm hủy báng mà mang tội vậy!
- Trùng Tang, là thật hay cú lừa xuyên thế kỷ.
- Sự thật về Cầu cơ.
- Sự thật về Đồng bóng.
- Sự thật về hạn tam tai.
- Cách cúng năm mới tại nhà.
- Cách giúp đỡ những người bị ma nhập.
- Thổ địa& bàn thờ ông địa, sự mê lầm khủng khiếp.

Cầu Mưa Linh Nghiệm Cổ Kim Chuyện
Mười Rồng làm mưa
Theo Cuộc đời& đạo nghiệp, Hòa Thượng Tuyên Hóa kể: “…Vào buổi tối, ngay lúc tôi nói chuyện với Quả Thuấn, kỳ quái thay đã xảy ra một sự việc, hốt nhiên có 10 người tới. Lúc đó bên cạnh tôi có bốn chú đệ tử, trong đó có hai chú đắc Phật nhãn, thiên nhãn thông nên hai chú ngồi thiền nhập định cũng có thể quán sát được mọi việc. Xem kỹ ra thì 10 vị đó không phải là người mà là 10 con rồng hóa ra người từ ngôi miếu Long Vương tới.
Tôi hỏi họ: “Các vị tới đây làm gì?”
Họ đáp: “Vì biết Thầy tới đây nên chúng con muốn quy y Tam Bảo.”
Đang lúc thời tiết vô cùng khô hạn đều không có mưa nên tôi nói với 10 tên rồng này: “Các vị muốn quy y à! Thật hay giả đây? Nếu thật các vị là rồng, hiện ở đây cả nửa năm trời rồi không có mưa, các nhà nông đã gần chết vì nạn hạn hán này rồi, nếu lại không có mưa nữa, người ta chắc sẽ bị chết đói hết quá. Phận là rồng, các vị nên để ý mà cho mưa xuống chớ. Tại sao lại lười biếng không cho chút mưa nào hết vậy! Các vị làm biếng thế, chắc sẽ biến thành ‘rồng lười’ mất!”
Vì chúng rồng này cốt muốn quy y tôi, cho nên dù có bị tôi la mắng sao đi nữa, chúng họ cũng không giận hờn. Chúng rồng nói: “Sư Phụ! Tại Sư Phụ không biết đó thôi!”
*
Tôi nói: “Tôi không biết cái gì?”
Họ nói: “Chúng con không có quyền, nhất định phải có lệnh của Ngọc Hoàng Đại Đế thì chúng con mới có thể làm mưa được. Nếu Ngọc Hoàng không cho phép, thì chúng con không thể nào tự ý làm mưa được?”
“Chuyện này dễ thôi! Các vị hãy đến chỗ Ngọc Hoàng đó tâu rằng: ‘Ở thế gian có người tên vậy vậy, là người xuất gia, vì thành phố Harbin hạn hán, dân chúng không thể sống được nên Thầy ấy hiện muốn cầu cho có mưa!’ Các vị nói với Ngài vậy đó. Thật ra, tôi không cầu gì nhiều, chỉ muốn có mưa ở chung quanh khu vực Harbin này khoảng 40 dặm là được rồi!’
Nếu ngày mai các vị được phép của Ngọc Hoàng để làm mưa thì ngày mốt tôi mới quy y cho các vị. Còn như mà không có mưa, tôi cũng không muốn nhận các vị làm đệ tử làm gì và các vị cũng khỏi cần phải quy y Tam Bảo luôn.”
Thật rất thần kỳ! Quả nhiên ngày hôm sau trời đổ mưa. Trận mưa này cũng rất kỳ lạ là chỉ mưa trong vòng 40 dặm trở lại, còn ngoài 40 dặm đó ra thì không có mưa. Cho nên qua ngày sau, tôi bèn quy y cho họ, đặt pháp danh là Cấp Tu (Tu Gấp) tự Khoái Độ (Mau Độ) ý bảo họ hãy mau tu hành, tích cực mà tu hành đi, để sớm ngày hóa độ cho tất cả chủng tộc rồng của họ.
*
Tôi hỏi họ: “Tại sao các vị muốn quy y tôi? Có rất nhiều người xuất gia như vậy mà sao các vị lại không quy y?”
Chúng họ nói: “Bởi chúng con biết được nguyện lực của Sư Phụ nên mới tới quy y.”
Vì lúc trước có rất nhiều sự việc xảy ra cho nên tôi mới phát Mười Tám Đại Nguyện đó mà không lúc nào tôi dám quên. Nghe qua sự kiện này, chắc các vị thấy có vẻ hoang đường thần thoại quá phải không, nhưng là chuyện tôi đã đích thân trải qua. Tôi biết, tôi kể ra thì số người không tin nhiều hơn là số người tin. Đợi đến khi nào các vị tin rồi, tức các vị mới biết được những lời tôi nói đây là sự thật.
Khoa học hiện tại nói mưa là do hơi nóng bốc lên mà thành nhưng họ nào biết rằng đó là do Long Thần âm thầm chi phối. Các vị không thấy rồng, nhưng thật tại có rồng đấy. Hơn nữa kiếp trước của rồng là người tu hành, bởi vì họ “thừa cấp giới hoãn,” nghĩa là gấp tu Đại-thừa mà trì hoãn với Giới-luật cho nên mới bị đọa lạc.
Để kỷ niệm sự kiện này, tôi đặt tên cho chòi của Quả Thuấn là “Long vũ mao bồng” tức chòi tranh rồng phun mưa. Vào ngày 18 tháng 4 năm Dân Quốc thứ 38, Quả Thuấn tự thiêu cúng dường Phật và chòi tranh cũng cháy rụi luôn
Sự Linh nghiệm khi Cầu mưa ở San Francisco – Mỹ
Theo Hòa Thượng Tuyên Hóa Khai Thị: “Ở San Francisco và những vùng phụ cận mấy trăm dặm đã xảy ra nạn hạn hán. Trong hai năm liền mưa rất ít, không những gây khó khăn cho việc trồng trọt mà nước uống cũng trở thành vấn đề nghiêm trọng, nên việc dùng nước mỗi ngày bị hạn chế. Vì thế, những người xuất gia và tại gia ở chùa Kim Sơn tự động phát tâm cầu mưa, thực hành hạnh Bồ Tát.
Vào lúc bảy giờ sáng ngày 16 tháng 12 năm 1977, tại công viên Golden Gate, Thầy Hằng Thực đại diện thiết lập đàn để cầu mưa. Tổng cộng có mấy trăm người tham gia thành khẩn tụng niệm chú cầu mưa. Pháp Hội hết sức trang nghiêm; từ lúc nước Mỹ lập quốc đến nay, đây là pháp hội đầu tiên vậy. Người nào không phải là tín đồ Phật Giáo thì cho là mê tín và chuyện không thể xảy ra được. Khi kết thúc Pháp Hội, mọi người ra về với lòng tin vững chắc là sẽ có mưa xuống. Cổ nhân có câu:
Tinh thành sở chí, Kim thạch vi khai.”
Nghĩa là:
Lòng thành cùng cực, Vàng, đá cũng tan.”
*
Cho nên, ngày hôm sau vào khoảng mười hai giờ trưa, bầu trời đang quang đãng trong suốt, đột nhiên mây đen kéo đến, sấm sét nổi lên, và trong khoảnh khắc mưa rơi phủ khắp. Mọi người ai nấy đều hết sức vui mừng.
Cơn mưa bất ngờ đã làm cho những chuyên gia khí tượng hết sức ngạc nhiên. Có hiện tượng này là do sự “cảm ứng đạo giao”: Lòng thành khẩn cao độ của những người phát tâm cầu mưa đã tác động được tâm từ bi của Long Vương, nên dù cho không phải là lúc trời phải mưa, nhưng mưa lại tuôn xuống để cứu độ chúng sinh!
Nạn hạn hán được tiêu trừ sau trận mưa đó. Tin này truyền đi khắp San Francisco, ký giả báo chí và các đài truyền hình đều tới phỏng vấn, chụp hình, quay phim.Chuyện này được loan truyền cho là chuyện hết sức kỳ lạ. Người viết có tham gia Pháp Hội cầu mưa này nên ghi chép lại để các vị độc giả biết.
Chuyện Cầu Mưa Linh Nghiệm
Hai mươi ba câu chuyện sau đây trích từ Quán Thế Âm Bổn Tích Cảm Ứng Tụng:
1. Theo sách Phật Tổ Thống Kỷ, một buổi sáng trong năm Nguyên Phù (1099) thứ hai đời Tống, thái thú Viên Châu là Vương Cổ cầu đảo, xin trời đổ mưa tại tháp xá-lợi trên núi Mộc Bình. Từ trong vách đá phóng quang, thấy Đại Sĩ thân kim sắc, đeo anh lạc. Lại đến chỗ tháp Ngưỡng Sơn, thấy Tứ Châu Đại Sĩ, Duy Ma, La Hán, đứng hai bên, trời liền mưa to, nước nhiều đến nỗi ngấm ướt chân.
2. Theo Cao Tăng Truyện, tập Một, mùa Đông năm Thiên Giám thứ 5 (506) đời Lương bị hạn hán, ngài Chí Công sai giảng kinh Thắng Man để cầu mưa. Pháp vừa giảng xong, trời đổ tuyết lớn. Chí Công bảo đem đặt thanh đao trên chậu nước, mưa to trút xuống.
3. Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, Đường Trung Tông đón đại sĩ Tăng Già vào cung để cúng dường. Một hôm, vua nói: “Chốn kinh kỳ mấy tháng không mưa, xin hãy từ bi giải nỗi lo cho trẫm”. Sư hắt bình nước lên không trung, mưa ngọt ào ào trút xuống. Xét ra, hai vị này đều là do Đại Sĩ ứng hóa, xem chú thích trong phần sau.
*
4. Theo Phổ Đà Chí, trong niên hiệu Thuần Hựu đời Tống, hạn hán dữ dội mấy năm liền. Người đứng đầu vùng Chiết Giang là Nhan Di Trọng đến động Triều Âm cầu đảo. Lễ xong liền thấy Đại Sĩ hiện tướng hoan hỷ, mưa ngọt lập tức trút xuống.
5. Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, Tăng Già đại sư đời Đường có tháp thờ ở Tứ Châu, hiển hiện các thứ thần dị. Trong niên hiệu Trường Khánh, có lời ca rằng: “Hoài Nam, Hoài Bắc hưởng phước từ đây, từ Đông sang Tây thảy trúng mùa”. Cả vùng ấy liền trúng mùa to.
6. Theo Thiên Trúc Chí, năm Hàm Bình nguyên niên (998) đời Tống, Trương Khứ Hoa làm quận thú đất Hàng. Trời hạn hán to, cầu đảo khắp nơi vô hiệu; Ông ta bèn rước tượng Đại Sĩ sang chùa Phạm Thiên để lễ bái, cầu nguyện. Trời liền mưa to, bốn phía nước ngập đến chân.
7. Lại nữa, vào năm Cảnh Thái thứ 6 (1455) đời Minh, vùng Lưỡng Chiết khổ sở vì hạn. Trấn Thủ là ông Tôn bèn trai giới, tắm gội; đi chân không đến chùa Thiên Trúc, đón tượng về cầu mưa. Ngay hôm ấy, mây kéo dầy, mưa liên tiếp ba ngày; những thứ khô khao đều hồi sinh.
*
8. Lại nữa, vào đời Thanh, trong lời tựa cho bộ Cảm Ứng Tụng của Kim Đình Tử có viết: “Năm Gia Khánh 24 (1819), hạn hán dữ dội, xác chết khô đầy đồng; cầu đảo khắp nơi vô hiệu, bèn truyền bọn huyện lệnh không được ngồi xe, mặc áo trắng, đi chân không sang chùa Thiên Trúc, đón Đại Sĩ, các vị Tăng như Huệ Lâm v.v… tụng kinh. Trước hết, họ dùng bình sạch đựng nước cho rỉ ra để xét nghiệm xem có mưa hay không. Sau một ngày, nước trong bình hơi trào ra, nhỏ tí tách như từng hạt châu, quả nhiên được mưa lay phay. Ngày hôm sau, nước tuôn ra ào ạt, liền mưa lớn. Do vậy, soạn bài tụng để nêu rõ sự ứng nghiệm thần kỳ”.
9. Theo Hồ Nguyên Tạp Ký, tượng Đại Sĩ cũ ở chùa Thiên Trúc bị người Kim là Ngột Thuật chở lên phía Bắc. Tăng chúng trong chùa dùng loại gỗ khác khắc lại tượng mới; nhưng nước lụt, hạn hán, cầu đảo không gì chẳng ứng nghiệm. Tin chắc Ngài do lòng đại từ, tùy duyên cư trụ; há có phải xá-lợi mới hiện oai thần, gỗ lạ mới bày sự dị thường ư?
10. Theo Cảnh Tâm Lục, tại Tứ Xuyên, nơi giáp ranh giữa Thiên Bành và Hán Phồn có suối Quán Âm, từ Đạo Bàng chảy ra. Mùa Hạ gặp trời hạn, nước suối ấy tưới tắm mấy ngàn mẫu, cả hai ấp được nhờ.
11. Theo Hải Nam Nhất Chước. Ngoài cửa Bắc thành Quảng Phong ở Giang Tây, có suối Quán Âm, gặp năm khô khan, suối vẫn chẳng cạn, tưới tắm rất rộng.
*
12. Theo Thiên Trúc Chí, năm Tường Phù thứ 9 (1016) đời Tống, châu chấu bay kín trời; vua sai sứ cầu đảo Đại Sĩ. Trời đang nắng chang chang, chợt nổi sấm, nháng chớp; mưa đá sầm sập trút xuống như bắn tên, quăng đá, châu chấu hết sạch.
13. Lại nữa, năm Khai Bảo thứ 5 (972) đời Tống, mưa to, nước sông chảy xiết. Vua cầu đảo thiên địa quỷ thần, mưa càng lớn hơn; Vua tôi chẳng biết làm sao bèn sai sứ sang chùa Thiên Trúc kiền thành cầu đảo. Mấy hôm sau, trời tạnh ráo, nước sông không dâng lên nữa. Sứ giả trở về, hỏi ra, thì quả thật trời ngưng mưa nhằm đúng hôm sứ giả vừa đến Hàng Châu cầu đảo. Từ đó, hễ nước lụt, hạn hán, tật dịch đều cầu đảo ở đấy.
14. Theo Cao Tăng Truyện, tập Ba, đời Thạch Tấn. Thích Đạo Châu vào núi Hạ Lan, trích huyết vẽ tượng Đại Bi Thiên Thủ Thiên Nhãn, tuyệt thực cầu mưa, được cảm ứng. Ngài lại chặt tay trái, đem đốt cúng dường tượng Đại Sĩ, nguyện xã tắc Trung Nguyên sớm dứt đao binh. Nói xong, trời nổi sấm, gió dậy, mưa to trút xuống. Lại nữa, Sư từng cắt tai trái để cầu mưa cho dân; nhịn ăn cầu trời đổ tuyết, đều được như nguyện.
15. Hơn nữa, đời Đường, ngài Thiện Vô Úy cầu mưa ở Trung Thiên Trúc; thấy Quán Âm hiện thân trong vầng mặt trời, cầm tịnh bình xối nước xuống đất, đại chúng đều vui mừng cảm động.
*
16. Theo Quán Hà Tập, năm Ất Tỵ (1785) đời Càn Long nhà Thanh, Tô Châu hạn hán; cư sĩ Bành Nhị Lâm (Bành Tế Thanh) kết giới hai mươi mốt ngày tụng tâm chú Đại Bi; trì thêm thánh hiệu của Tây Phương Phật (A Di Đà Phật), bỏ ăn trưa. Mãn kỳ hạn, mưa ngập nửa thước. Có thơ rằng:
Hung niên bất đáo liên hoa quốc
Từ tế trường hoài tử trúc lâm
Phần đắc tư nhân cơ bán nhật
Chi đầu điểm trích dã thành lâm”
Dịch là:
Cõi hoa sen chẳng bị mất mùa
Rừng trúc biếc lòng Từ sẵn giúp
Kẻ mọn nhịn ăn chừng nửa buổi
Giọt sương ngọn trúc hóa mưa dầm
17. Theo Cư Sĩ Truyện, đời Minh. Vương Mạnh Túc tên là Tại Công, là đệ tử ngài Vân Thê (tổ Liên Trì), đồng thời là tri huyện Cao Uyển. Lúc làm quan, ông Vương lễ Phổ Môn Đại Sĩ, tụng kinh Di Đà. Trời hạn hán to, cầu đảo ngoài đất trống, trời liền đổ mưa.
*
18. Theo Lãng Tích Tục Đàm, tại Phước Châu có một năm mùa Hè bị hạn hán. Quan Tư Đạo bèn yết kiến quan Đốc Bộ Trình Tân Đình, xin quan tối nay cùng lên Cổ Sơn, đón tượng Quán Âm Đại Sĩ – tượng này tự nhiên sanh ra trong lò gốm – về thành để cầu mưa. Họ Trình mỉm cười nói: “Đại Sĩ tại Tây Thiên, chẳng ở Cổ Sơn, các ông tự làm là được rồi”.
Đến khi đã rước tượng vào thành, mời ông Trình dâng hương; ông Trình lại ngửa mặt lên trời nói: “Hôm nay, chính mắt thấy trời không mưa rồi; ngày mai chẳng mưa thì lại như thế nào đây? Ta chẳng thể sấp ngửa chạy đôn chạy đáo được!”
Đêm ấy, trời mưa to lai láng suốt đêm đến tận sáng. Ông Trình bèn lên núi dâng hương; sau giữ tượng Đại Sĩ lại, một mình tụng kinh cả ngày. Ấy là vì linh ứng đến mức như vậy thì chẳng thể nào không hồi tâm quy hướng được!
19. Theo Thiên Trúc Chí. Tiền Trung Ý Vương dốc sức trang hoàng điện đường chùa Thượng Thiên Trúc. Trời đại hạn, vương cầu mưa, mộng thấy Đại Sĩ bảo: “Mặt ta chẳng sạch, chẳng thể thấy ngoài ngàn dặm được!” Ấy là vì chất sơn để tô mặt tượng có hòa lòng trắng trứng gà. Sửa đổi, trời liền đổ mưa.
*
20. Theo Bồ Tát Bổn Hạnh Kinh, có vị Bích Chi Phật thấy nhân dân Diêm Phù Đề đói kém, bèn tới chỗ quốc vương là Ca Na Ca Bạt khất thực. Vua bảo: “Ta chỉ có ngần này thức ăn. Nhưng dù có chết cũng sẽ dâng cơm lên Ngài là bậc thần nhân”. Bích Chi Phật thọ thực xong, hỏi nhà vua ước nguyện điều gì? Vua nói: “Dân trong nước đói kém, mạng chỉ còn trong sớm tối. Mong trừ sự khốn khổ”. Ngay lập tức gió nổi lên, thổi sạch ô uế, mưa xuống món ăn trăm vị, y phục, trân bảo, thảo mộc xum xuê, nhân dân no đủ.
21. Theo Thiên Trúc Chí, vào đời Tống. Trần Hiên là quận thú Tiền Đường, soạn bài văn bia Linh Cảm Quán Âm có đoạn: “Giữa Hạ và Thu, mưa dầm mấy tháng không tạnh, thần dẫn quyến thuộc xông mưa lên núi. Khi trở về, trời đất tạnh ráo, trời chẳng kéo mây. Đem xe rước Ngài vào thành làm Phật sự xong thì mưa tạnh đúng lúc; nhà nông chẳng cáo bệnh, quả thật là Đại Sĩ gia hộ đất này!”
*
22. Theo Cao Tăng Truyện, tập Bốn, đời Minh. Ngài Thiện Học hiệu là Cổ Đình, trụ tại chùa Đại Từ, có tượng Quán Âm rất linh thiêng. Trời hạn, Quận Thủ bèn cầu ngài Thiện Học làm lễ cúng dường, mưa dầm liền trút xuống.
23. Theo Thái Bình Quảng Ký: Đời Đường, Lã Văn Triển trong niên hiệu Khai Nguyên làm Lang Trung Huyện Thừa. Ông ta tụng kinh Kim Cang đến hơn ba vạn biến, linh ứng lạ thường. Tuổi già, ba chiếc răng cùng rụng, niệm kinh cầu thỉnh, răng lại mọc như cũ. Nhằm năm hạn hán, Thứ Sử Lưu Tuấn sai cầu mưa. Ông chỉ tụng một biến liền được mưa đầm đìa. Về sau lại khổ vì nạn mưa dầm, lụt lội, quan Biệt Giá sai cầu trời tạnh; ông tụng kinh, ngay lập tức trời liền quang đãng.
( Cầu mưa linh nghiệm ký )
Tuệ Tâm 2022.
Để lại một bình luận