Kiết là trói buộc; Sử là sai khiến. 10 Kiết Sử là mười thứ phiền não căn bản trói buộc và sai khiến chúng ta, bao gồm: Tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến. 10 Kiết sử còn gọi là Tập Đế, tức là 10 nguyên nhân căn bản sinh ra vô biên thứ khổ của kiếp nhân sinh. Chúng có mãnh lực trói buộc loài hữu tình không cho ra khỏi ba cõi. Chúng sai sử làm chúng sanh trôi lăn trong vòng sanh tử luân hồi; Từ đời nầy đến kiếp nọ, và phải chịu không biết bao nhiêu điều khổ não.
- Luật Nhân quả là gì.
- Luân hồi là gì.
- Tứ Diệu Đế là gì.
- Lời Phật dạy về Đạo hiếu
- Chuyện tâm linh có thật.
- Sự thật về hạn Tam tai.
- Sự thật về Cầu cơ.
Tính chất của mười món căn bản phiền não này không giống nhau: Có thứ nhanh nhẹn, có thứ chậm chạp; Có thứ mãnh liệt, có thứ yếu ớt; Có thứ đâm sâu gốc rễ trong lòng người, có thứ nằm khơi khơi ở trên ý thức; Có thứ dễ dứt trừ, có thứ khó tiêu diệt. Vì tính chất không đồng ấy mà đức Phật đặt cho chúng những danh từ khác nhau, để dễ phân biệt, như Kiết sử, Kiến hoặc, Tư hoặc.
10 Kiết Sử
Phật dạy: Cội gốc của sanh tử luân hồi do các phiền não mê lầm là những dục vọng xấu xa; Là những ý niệm sai quấy, làm não loạn thân tâm chúng ta. Phiền não rất nhiều. Nói rộng thì đến tám muôn bốn ngàn, nói hẹp lại thì có mười phiền não gốc, gọi là căn bản phiền não. Do mười Kiết sử nầy mà sanh ra vô số phiền não ngành ngọn.
10 Kiết Sử: 1. Tham
Tham nghĩa là tham lam. Tánh tham có động lực bắt ta dòm ngó, theo dõi những cái gì nó ưa thích, như tiền tài, danh vọng, miếng ăn, chỗ ở v.v…Nó xúi ta lập mưu nầy, chước nọ để tầm kiếm cho được những thứ ấy. Ðiều tai hại nhất là lòng tham không có đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa; Được một muốn có mười, được mười muốn có trăm. Tham cho mình chưa đủ, còn tham cho bà con quyến thuộc và xứ sở của mình.
Cũng vì tham mà cha mẹ vợ con xung đột; Cũng vì tham mà bè bạn chìa lìa; Cũng vì tham mà đồng bào trở lại xung đột, xâu xé nhau; Cũng vì tham mà chiến tranh tiếp diễn, giết hại không biết bo sanh linh. Tóm lại, cũng vì tham mà nhân loại, chúng sanh chịu không biết bao nhiêu điều thống khổ. Tham không những hại cho mình và cho người, trong hiện tại mà cả đến tương lai nữa.
10 Kiết Sử: 2. Sân
Sân nghĩa là nóng giận. Khi gặp những cảnh trái ý nghịch lòng không như ý nguyện, thì sân nổi lên, như một ngọn lửa dữ đốt cháy lòng ta. Thế là mặt mày đỏ tía hay tái xanh, bộ dạng thô bỉ, nói năng hung dữ. Có khi dùng đến võ lực hay khí giới để hạ kẻ đã làm trái ý, phật lòng ta. Vì nóng giận mà cha mẹ, vợ con, anh em xa lìa, bạn bè ly tán; Vì nóng giận mà đồng bào trở nên thù địch, nhân loại đua nhau ra chiến trường; Vì nóng giận mà kẻ bị tàn tật, người vào khám đường, kẻ mất địa vị, người tan sự nghiệp.
Kinh Hoa Nghiêm chép: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”, nghĩa là một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra. Sách Phật chép: “Nhất tinh chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn”. Nghĩa là một đốm lửa giận, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức. Thật vậy, lửa sân hận đã bừng cháy lên giữa lòng nhân loại, và đã đốt thiêu không biết bao nhiêu là công lao, sự nghiệp mà nhân loại đã tốn bao nhiêu mồ hôi và nước mắt để tạo nên.
10 Kiết Sử: 3. Si
Si nghĩa là si mê, mờ ám. Si như là một tấm màn dày đặc, đen tối trùm lên trí huệ của ta. Làm cho ta không thể nhìn thấy được sự thật, phán đoán được cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu. Do đó, ta gây ra không biết bao nhiêu tội lỗi; Làm hại mình, hại người mà không hay. Vì si mà lòng tham trở thành không đáy. Bởi vì nếu người sáng suốt thấy cái tai hại của tham, thì người ta đã kềm hãm được một phần nào tánh tham. Vì si mà lửa sân tự do bùng cháy; Nếu người sáng suốt biết cái tai hại của lửa sân thì không để cho nó hoành hành như thế.
Tổ sư đã dạy: “Bất úy tham sân khởi, duy khủng tự giác trì”. Nghĩa là không sợ tham và sân nổi lên, mà chỉ sợ mình giác ngộ chậm. Nói một cách dễ hiểu hơn: Không sợ tham và sân, mà chỉ sợ si mê. Thật đúng như thế: Nếu tham, sân nổi lên, mà có trí sáng suốt ngăn chận lại, thì tham, sân tất kiềm chế được. Nếu có trí huệ, sáng suốt thì tham, sân không thể tồn tại được; Như khi đã có ánh sáng mặt Trời lên, thì bóng tối tất nhiên phải tự tan biến. Ba tánh tham, sân, si này, Phật gọi là ba món độc; Vì do chúng nó mà chúng sanh phải chịu nhiều kiếp sanh tử luân hồi, đọa vào địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
10 Kiết Sử: 4. Mạn
Mạn nghĩa là kiêu mạn, tự nâng cao mình lên và hạ người khác xuống; Tự thấy mình là quan trọng mà khinh rẻ mọi người; Ỷ mình có tiền của, tài trí, quyền thế mà dương dương tự đắc; Khinh người già cả, hỗn láo với người đức hạnh, chà đạp người dưới, lấn lướt người trên. Vì lòng ngã mạn cho mình là hơn hết, nên chẳng chịu học hỏi thêm, không nghe lời nói phải. Do đó, làm nhiều điều lầm lẫn sai quấy, phước lành tổn giảm, tội lỗi càng tăng; Phải chịu sanh tử luân hồi không bao giờ cùng. Mạn có bảy thứ:
- Mạ: Hơn người ít, mà nghĩa mình hơn nhiều.
- Ngã mạn: Ỷ mình hay giỏi mà lấn lướt người.
- Quá mạn: Mình bằng người mà cho là hơn người, người hơn mình mà cho là bằng.
- Mạn quá mạn: Người hơn mình nhiều mà cho mình hơn người.
- Tăng thượng mạn: Chưa chứng thánh quả mà cho mình đã chứng.
- Ty liệt mạn: Mình thua người nhiều mà nói rằng thua ít.
- Tà mạn: Người tu về tà đạo, được chút ít thần thông; Hoặc hiểu biết được đôi chút việc quá khứ, vị lai, rồi khinh lướt người.
10 Kiết Sử: 5. Nghi
Nghi nghĩa là nghi ngờ, không có lòng tin. Người nghi ngờ không làm nên được việc gì hết. Ðối với người thân trong gia đình, họ không tin cậy giao phó công việc; Đối với bạn bè, họ nghi ngờ tất cả mọi thiện chí. Ngay đối với mình, họ cũng không tự tin nữa. Ðã không tự tin, họ còn gây hoang mang cho người chung quanh, làm cho người thế gian ngã lòng, thối chí. Ðối với đạo lý chân chánh, họ cũng không hăng hái tin theo. Những pháp tu giải thoát và các điều phước thiện, họ do dự không làm. Nghi có ba phương diện:
*
1. Tự nghi: Nghĩa là nghi mình. Chẳng hạn như nghe chư Tăng bảo: “Tu hành sẽ được giải thoát”, nhưng lại tự nghi rằng: “Chẳng biết mình tu có được không?”. Vì lòng do dự nghi ngờ ấy, nên không tu.
2. Nghi pháp: Nghĩa là nghi phương pháp mình tu. Chẳng hạn như nghe kinh Di Ðà nói: “Người chí tâm niệm Phật, từ một ngày cho đến bảy ngày, được nhất tâm bất loạn. Đến khi lâm chung sẽ được Phật Di Ðà tiếp đãn sanh về nước Cực lạc”; Nhưng họ lại nghi ngờ “Phương pháp ấy không biết có kết quả đúng như vậy không? ” Do sự nghi ngờ đó mà không tu.
3. Nghi nhơn: Nghĩa là nghi người dạy mình. Như có người dạy rằng: “Làm lành sẽ được phước, làm ác sẽ bị tội”; Nhưng lại nghi rằng: “Chẳng biết người này nói có thật không “. Do sự nghi ngờ ấy mà không làm. Tóm lại, tánh nghi ngờ làm cản trở sự tiến triển của mình; Ngăn ngại mọi công tác hữu ích và làm cho cuộc đời không vượt ra khỏi cảnh tối tăm khổ sở.
10 Kiết Sử: 6. Thân kiến
Thân kiến nghĩa là chấp thân ngũ ấm tứ đại giả hiệp này làm ta. Vì cái chấp sai lầm ấy, nên thấy có một cái Ta riêng biệt, chắc thật không biến đổi. Thấy cái Ta ấy là riêng của ta, không dính dấp đến người khác, và là một thứ rất quý báu. Vì tưởng lầm như thế, nên kiếm món ngon, vật lạ cho ta ăn; May sắm quần áo tốt đẹp co Ta mặc, lo xây dựng nhà cao, cửa lớn cho Ta ở; Thâu góp thật nhiều của cải, đất ruộng để dành cho Ta hãnh diện với mọi người. Do sự quý chuộng phụng sự cho cái Ta ấy, mà tạo ra lắm điều tội lỗi; Chà đạp lên bao nhiêu cái Ta khác, làm cho họ đau khổ vì Ta. Và thế giới trở thành một bãi chiến trường cũng vì cái Ta.
10 Kiết Sử: 7. Biên kiến
Biên kiến nghĩa là chấp một bên, nghiêng về một phía, có một thành kiến cực đoan. Biên kiến có hai lối chấp sai lầm lớn nhất là:
1. Thường kiến: Nghĩa là chấp rằng khi chết rồi, cái Ta vẫn tồn tại mãi: Người chết sẽ sanh ra người, thú chết sẽ trở lại thú, thánh nhơn chết trở lại làm thánh nhơn. Do sự chấp ấy, họ cho rằng tu cũng vậy, không tu cũng vậy. Nên không sợ tội ác, không thích làm thiện. Lối chấp này, đọa Phật gọi là “Thường kiến ngoại đạo”.
2. Ðoạn kiến: Nghĩa là chấp rằng chết rồi là mất hẳn. Ðối với hạng người chấp Ðoạn kiến, thì hễ tắt thở là không còn gì tồn tại nữa; Tội cũng không mà phước cũng chẳng còn. Họ không tin nhân quả luân hồi, nên mặc tình làm các điều tội lỗi. Họ tự bảo: “Tu nhơn tích đức già đời cũng chết; Hung hăng, bạo ngược tắt thở cũng không còn”.
Có người đối trước những cảnh buồn lòng, nghịch ý, những chuyện tình duyên trắc trở..Tưởng rằng chết là hết đau khổ, là giải thoát tất cả, nên họ đã không ngần ngại mượn chén thuốc độc, hay dòng sông sâu để kết liễu đời mình. Họ đâu có ngờ rằng chết rỗi vẫn chưa hết! Lối chấp này, kinh Phật gọi là “Ðoạn kiến ngoại đạo”.
10 Kiết Sử: 8. Kiến thủ
Kiến thủ nghĩa là chấp chặt sự hiểu biết sai lầm của mình. Kiến thủ có hai phương diện:
1. Kiến thủ vì không ý thức được sai lầm của mình. Hành vi của mình sai quấy, ý kiến của mình sai lầm. Nhưng vì không đủ sáng suốt để nhận thấy, nên cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình; Tự cho là giỏi, ai nói cũng chẳng nghe.
2. Kiến thủ vì tự ái hay vì cứng đầu. Biết mình làm như thế là sai, nói như vậy là dở. Nhưng vì tự ái, cứ bảo thủ cái sai cái dở của mình, không chịu thay đổi. Như ông bà trước đã lỡ theo tà đạo, nay con cháu vẫn biết đó là tà, nhưng cứ theo như thế mãi không chịu đổi. Họ cứ nói một cách liều lĩnh: “Xưa sao nay vậy”, hay “Xưa bày này làm”. Hay như cha mẹ trước đã lỡ làm nghề tội lỗi, đến đời con cháu, vẫn cứ bảo thủ nghề ấy không chịu thay nghề khác.
Nói rộng ra trong thế giới, nhiều người mặc dù thời thế đã cải đổi, tiến bộ mà họ cứ vẫn giữ lại những lề thói, cổ tục hủ bại mãi. Chẳng hạn như ở Việt Nam ta, đến bây giờ mà vẫn có những Phật tử, hễ trong nhà có người chết là giết heo bò để cúng kiến; Khi đưa đám tang, gánh theo những con heo quay to tướng, biểu diễn qua các đường phố; Mỗi khi tuần tự hay kỵ giỗ, thì đốt giấy tiền vàng bạc, áo quần. Mỗi năm phải hội họp để cúng tế tà thần, ác quỷ v.v…Chấp chặt những hủ tục như thế, đều thuộc và “Kiến thủ” cả.
10 Kiết Sử: 9. Giới cấm thủ
Giới cấm thủ nghĩa là làm theo lời răn cấm của ngoại đạo tà giáo. Nhưng sự răn cấm nầy nhiều khi thật vô lý, mê muội, dã man; Không làm sao đưa người ta đến sự giải thoát được, thế mà vẫn có nhiều người tin và làm theo.
Chẳng hạn như ở Ấn Độ, có phái ngoại đạo lấy đá dằn bụng, đứng một chân giữa trời nắng, nằm chỗ bẩn thỉu; Leo lên cao nhảy xuống, gieo mình vào lửa, hay nhảy xuống sông trầm mình để được phước. Có đạo, mỗi năm lại bắt tín đồ giết một người để tế thần, hay như đạo của anh chàng Vô Não: Phải giết một trăm người lấy một trăm ngón tay xâu làm chuỗi hạt mới đắc đạo. Những thứ cuồn tín như thế, không làm cho cuộc đời sáng sủa, mà còn làm đen tối, khổ đau thêm.
10 Kiết Sử: Tà kiến
Tà kiến nghĩa là chấp theo lối tà, không chơn chánh, trái với sự thật, trái với luật nhân quả. Nói một cách khác, Tà kiến nghĩa là mê tín dị đoan. Như thờ đầu trâu, đầu cọp, bình vôi, ông táo; Xin xâm, bói quẻ, buộc tôm, đeo niệt, coi sao, cúng hạn v.v… Nói rộng ra, cả bốn món chấp trên, đều thuộc vào Tà kiến cả.
(10 Kiết Sử là gì – Theo Phật Học Phổ Thông)
Tuệ Tâm 2021.
Để lại một bình luận