Hoàn Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 32, 67 tuổi. (1906/07)
Mùa xuân, tôi trở về nước. Khi tàu ghé Đài Loan, tôi đến tham quan chùa Linh Tuyền. Đến Nhật Bổn, tôi viếng thăm các danh lam thắng cảnh, chùa tháp. Lúc ấy, chánh phủ Trung Hoa và Nhật Bổn có sự hiềm khích nên chư tăng người Nhật không được qua Trung Quốc, còn chư tăng người Hoa ở Nhật thì lại bị dòm ngó. Vì thế ước muốn liên hợp tín đồ Phật giáo Trung-Nhật của tôi bị trì hoãn.
Tháng ba, tôi trở về nước, cùng các đại biểu hội Phật giáo trong nước và đại sư Kỳ Thiền v.v…, đồng lên Bắc Kinh dâng thư thỉnh nguyện. Khi đến Bắc Kinh, chúng tôi trú tại chùa Hiền Lương. Ty tăng lục, thầy Pháp An chùa Long Tuyền, thầy Đạo Hưng, Giác Quang chùa Quán Ấm v.v…, đồng đến tiếp đón chúng tôi. Túc Thân Vương Thiện Kỳ thỉnh tôi thuyết giới pháp cho vợ ông.
Các vương công đại quan, thân hữu quen biết tôi vào thời hộ giá chạy loạn cũng đến viếng thăm. Khi bàn cách thức dâng chiếu thỉnh nguyện thì chúng tôi được các vị hộ pháp trợ giúp rất nhiều. Thế nên, mọi việc đều thuận lợi. Sau khi dâng chiếu thỉnh nguyện xong, Hoàng Đế liền ra sắc dụ như sau:
*
“Quang Tự năm thứ ba mươi hai. Trong sự quyên góp, xưa đã ban dụ chỉ, không cho phép các vị quan to ỷ quyền thế, hà hiếp quấy nhiễu dân nghèo. Nhưng gần đây, nghe các vị Biện Lý ở các tỉnh, đang hà hiếp quấy nhiễu dân lành, thậm chí còn đi ra ngoài, đến các chùa chiền quyên góp nữa. Những việc như thế, không thể chấp nhận được.
Nay ra chiếu chỉ cho các tỉnh phủ, phàm có các chùa viện lớn nhỏ cùng tất cả tài sản của tăng chúng đều phải do các quan địa phương bảo hộ, không được điêu ngoa đố kỵ chiếm lấy, tạo nên mầm mống nhiễu loạn. Chính quyền địa phương, không được thâu góp quyên tổn tài sản tăng chúng, phải giữ lễ đoan chánh. Khâm Thử.”
Sau khi chiếu dụ ban ra, sự niêm phong tài sản tự viện ở các tỉnh liền chấm dứt.
Tại Bắc Kinh, tôi nói với các vị hộ pháp rằng bắt đầu từ triều Thanh, tỉnh Vân Nam chưa từng được ban Đại Tạng kinh. Nay, tôi muốn dâng chiếu thỉnh toàn bộ Đại Tạng Kinh, để cho vùng biên địa được thấm nhuần mưa pháp. Được sự bảo hộ của Túc Thân Vương, Thiện Kỳ, chiếu thỉnh nghị do đại quan tổng quản nội vụ dâng lên như sau:
*
“Theo lời của Ngài tăng lục, đại sư Pháp An, thì tỉnh Vân Nam, phủ Đại Lý, huyện Tân Châu, núi Kê Túc, am Bồn Vu, chùa Ngưỡng Dương, phương trượng trụ trì tăng nhân hiệu Hư Vân trình xưng rằng chùa vốn là đạo tràng thắng hội của tổ Ma Ha Ca Diếp, thuộc hàng danh lam thắng cảnh, và là ngôi phạm sát cổ xưa trong nước, nhưng lại thiếu Đại Tạng kinh. Nay, cầu thỉnh Đại Tạng kinh, hầu mong vĩnh viễn cung kính phụng thờ, sùng hưng Phật pháp.
Chiếu thỉnh cầu này do quan thượng thư chánh bộ Túc Thân Vương, đại sư Trừng Hải trụ trì chùa Bách Lâm, đại sư Đạo Hưng trụ trì chùa Long Hưng v.v…, cùng dâng biểu. Nếu như được chấp thuận, xin quan nha môn truyền bảo ty tăng lục lo việc ban chuyển Đại Tạng kinh, phụng theo thỉnh dụ trên đây. Thỉnh chỉ.”
Ngày sáu tháng sáu, Quang Tự năm thứ ba mươi ba, dụ được phê chuẩn như sau:
“Thượng dụ, tỉnh Vân Nam núi Kê Túc, am Bồn Vu, chùa Ngưỡng Dương, được ban tặng, đổi hiệu là Hộ Quốc Chúc Thánh thiền tự, lại ban cho một bộ Đại Tạng kinh, tăng y màu vàng tím, bát cụ, cùng ngọc ấn Hoàng Đế và tích trượng Như Ý cho đại sư phương trượng, vì có công hộ giá Hoàng Đế lúc tao loạn. Lại ban hiệu cho đại sư trụ trì, Hư Vân là đại sư Phật Từ Hồng Pháp, phụng chỉ trở về núi truyền giới, hộ trì quốc gia, làm việc hữu ích cho nhân dân.
*
Đại quan nội vụ nên báo cho đại sư Hư Vân, đem các vật trên, trở về núi, vĩnh chấn sơn môn, vì việc thiện mà ban bố giáo lý Phật Đà. Quan dân địa phương, tất cả phải phụng chỉ, nhớ rõ mà hộ trì Phật pháp, chớ có khinh thường. Khâm Chỉ.
Quang Tự tháng bảy, năm thứ ba mươi hai.”
Việc thỉnh Đại Tạng kinh như thế đã tạm yên. Ngày hai mươi tháng sáu, tôi nhận được thư của lão hòa thượng Diệu Liên, viết: “Lúc khởi hành thỉnh Đại Tạng kinh về Vân Nam, trước tiên con hãy đến cửa ải Hạ Môn, đi Nam Dương, rồi từ đó vào đất Vân Nam. Tại Hạ Môn, con nên lưu lại, trở về Cổ Sơn gặp thầy gấp.”
Sau đó, tôi chuẩn bị vận chuyển Đại Tạng kinh đi về Nam. Chư vị hộ pháp ở Bắc Kinh trợ giúp rất nhiều. Gần cuối năm, nên tôi ở lại Bắc Kinh qua năm mới.
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 33, 68 tuổi. (1907/08)
Tháng giêng, tôi vận chuyển Đại Tạng kinh rời Bắc Kinh. Đầu tiên, đến Thượng Hải và Hạ Môn. Trên đường đi, nhờ sự giúp đỡ của hai thầy Văn Chất tại núi Phật Đảnh và Chuyển Đạo tại cung Dưỡng Chân rất nhiều. Khi đến Hạ Môn, tôi nhận được điện tín cấp báo từ Cổ Sơn gởi tới, bảo rằng lão hòa thượng Diệu Liên tại chùa Quy Sơn đã viên tịch vào tháng giêng. Lúc ấy, chư sơn trưởng lão cùng tăng chúng ở Hạ Môn đến Cổ Sơn tham gia lễ trà tỳ của lão hòa thượng Diệu Liên.
Từ chùa Qui Sơn, linh tháp lão Hòa Thượng được dời về Hạ Viện Cổ Sơn để tiện việc lễ táng. Tôi tức tốc quay về Cổ Sơn, kiến lập Tháp Tổ cùng truyền giới U Minh v.v…, bận rộn ngày đêm. Ngày mười tháng tư, làm lễ nhập tháp. Lúc vừa xây tháp xong, trời đổ mưa to, ròng rã cả nửa tháng. Toàn thể đại chúng đều ưu buồn. Ngày mồng tám, truyền giới Bồ Tát xong, trời bắt đầu tạnh mưa. Ngày mồng chín, trời trong mây tạnh; quan dân sĩ thứ đến núi dự lễ an táng đều cảm duyên nơi đạo.
Ngày mồng mười, lúc làm lễ nhập tháp, trăm bàn thức ăn chay tịnh được sắp ngoài trời để cúng lễ. Đại chúng cùng tụng kinh. Đang cúng Ngọ, niệm đến chân ngôn biến thực, bỗng đâu một ngọn gió cuồn cuộn, thổi bay tất cả thức ăn tế phẩm lên trên trời. Từ linh cữu phóng ra một luồng hào quang màu đỏ sáng tỏ, bay thẳng vào trên đảnh tháp.
Hòa Thượng Hư Vân: Linh dị bậc Chân tu
Đại chúng đều vui vẻ tán thán. Lễ nhập tháp xong, toàn thể đại chúng trở về chùa thì trời đổ mưa to dầm dề. Xá Lợi của lão hòa thượng Diệu Liên được phân làm hai phần: Một phần để vào trong tháp. Một phần đem đến chùa Cực Lạc ở Nam Dương để thờ.
Lúc phụng chuyển Đại Tạng kinh cùng xá lợi của cố lão Hòa Thượng đến Penang, Mã Lai Á, đại chúng cùng chư tăng đình Quán Ấm tới đón tiếp cả vài ngàn người. Đang tụng kinh, niệm đến chân ngôn biến thực thì lại một luồng gió cuồn cuộn, thổi bay hết tất cả bông hoa cúng dường. Từ nơi linh cữu phóng ra một luồng ánh sáng trắng, bay thẳng đến đỉnh tháp, cả ngoài hai dặm. Tôi làm pháp chủ hai buổi lễ nhập tháp, mắt thấy tai nghe, tường tận chứng kiến. Phật nói: “Người hành mật hạnh thật khó nghĩ bàn.”
Nói về sự tu trì của lão hòa thượng Diệu Liên lúc còn sống, tôi không biết được nhiều. Lão Hòa Thượng không tu thiền hay tịnh độ, duy chỉ cất chùa lập viện, tiếp độ tăng chúng để kết duyên. Nhân duyên sau cùng khi làm lễ nhập tháp, thực rất kỳ lạ. Sau khi xuống tóc xuất gia, tôi đi chu du khắp bốn phương, đã lâu lắm rồi chưa được dịp hầu hạ Ngài. Lại cả bao thập niên, không thư từ thưa hỏi, phụ bạc ân Thầy.
*
Nhân duyên cuối cùng với lão Hòa Thượng, là việc tôi có phước phần lo liệu lễ táng linh cữu tháp tự, cùng đặt để phân chia xá lợi. Nhớ đến việc, dặn bảo tôi lần sau cùng lúc trước, chứng tỏ Ngài biết được ngày giờ lâm chung. Thật khó mà biết đúng sự thật. Tôi chỉ lược thuật sự thật trong hiện tại, còn việc chứng minh thì để người sau tự kết luận lấy.
Kế tiếp, tôi đi tàu đến đình Quán Ấm, được thỉnh giảng Tâm Kinh. Sau đó, đón tàu khác đi Xiêm La (Thái Lan). Trên tàu không có thức ăn chay. Tôi ngồi thiền suốt cả ngày. Một người Anh, đi qua chỗ tôi ngồi, ngó vài lần rồi nói: “Bạch Hòa Thượng! Ngài đi đâu vậy?”
Nghe ông ta nói tiếng Hoa, tôi đáp: “Tôi đi Vân Nam.”
Lúc ấy, ông ta liền mời tôi lên phòng tàu, lấy bánh và sữa ra mời, nhưng tôi nhã nhặn từ chối.
Ông hỏi: “Bạch Hòa Thượng! Nơi Vân Nam, Ngài ở vùng nào vậy?”
Tôi đáp: “Tôi ở tại chùa Ngưỡng Dương, núi Kê Túc.”
Ông nói: “Quy củ của chùa ấy rất nghiêm ngặt.”
Tôi hỏi: “Ông làm việc gì ở đó?”
Ông trả lời: “Tôi là quan lãnh sự ở Côn Minh, Đằng Xung. Tôi có đến tham quan tự viện nơi đó.”
*
Ông lại hỏi: “Bạch Hòa Thượng! Vậy Ngài đi ra nước ngoài để làm gì?”
Tôi đáp: “Trên đường vận chuyển Đại Tạng kinh trở về Vân Nam, vì thiếu tiền lộ phí, nên tôi phải đi qua Kuala Lumpur (Mã Lai Á) để hóa duyên, quyên góp tịnh tài.”
Ông hỏi: “Bạch Hòa Thượng! Vậy Ngài có đem theo công văn không?”
Tôi lấy công văn chứng cứ và ngân phiếu ra cho ông ta xem. Ông liền viết một ngân phiếu ba ngàn đồng cúng dường cho tôi. Thật là một thiện duyên kỳ lạ. Sau đó, ông ta mời tôi ăn cơm chay gồm có cơm chiên với rau cải. Khi tàu cập bến tại Xiêm La, chúng tôi chia tay tạm biệt.
Tôi trú tại chùa Long Tuyền, giảng kinh Địa Tạng. Trong lúc giảng kinh, ông ta đến chùa gặp tôi, cúng dường ba ngàn đồng. Để xây điện thờ Đại Tạng kinh, cần phải có một số tiền cả hơn vài ngàn đồng. Trước khi ông lãnh sụ cúng dường, tôi chỉ quyên được chút ít thôi. Sau khi giảng kinh Địa Tạng xong, tôi lại tiếp tục giảng phẩm Phổ Môn. Thính giả có đến vài trăm vị.
Hòa Thượng Hư Vân: Nhập Đại Định
Ngày nọ, khi đang ngồi thiền, tôi bỗng dưng nhập định, quên rằng mình đang giảng kinh. Tôi nhập định suốt bảy ngày. Tin này lan tràn cả thủ đô Xiêm La. Từ Quốc Vương, đại quan, cho đến thiện nam tín nũ, đều đến lễ bái. Sau khi xuất định, giảng kinh xong, Quốc Vương thỉnh tôi đến hoàng cung thiết lễ cúng dường, chí thành quy y. Quan thân sĩ thứ cùng dân chúng quy y tôi cả vài ngàn người. Sau khi xuất định, chân tôi bị tê liệt, đi đứng không nỗi.
Kế đến, toàn thân tê cứng như cây khô, không thể nói năng chi được. Ắn phải nhờ người đút. Chư hộ pháp mời bác sĩ đông tây đến chữa trị, châm cứu uống thuốc, nhưng vô hiệu quả. Thậm chí, miệng không nói được lời nào, mắt không thấy chi. Các bác sĩ đều bó tay chịu thua. Tuy vậy, thân tâm tự tại, không chút đau khổ, buông xả hết mọi việc, duy chỉ còn một việc chưa yên lòng là trong áo tôi còn một ngân phiếu, không ai biết cả.
Miệng không thể nói. Tay không thể viết. Lúc nhắm mắt, thân này được hỏa táng thì ngân phiếu đó chắc cũng sẽ bị đốt luôn. Đại Tạng kinh không thể đem về Vân Nam, điện các tại núi Kê Túc không thể kiến lập. Nhân quả này bút mực nào viết cho hết được. Nghĩ đến đó, nước mắt tuôn trào, thầm lặng cầu mong tôn giả Ma Ha Ca Diếp gia hộ.
*
Lúc ấy, có thầy Diệu Viên là pháp hữu tại núi Chung Nam thuở xưa, thấy tôi rơi lệ, miệng nhấp nháy, liền kê tai gần miệng để lắng nghe. Ra hiệu nhờ thầy đem trà cho tôi uống. Tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện tôn giả Ma Ha Ca Diếp. Uống trà xong, thân tâm lắng trong, liền nhập mộng, thấy một lão tăng tướng mạo giống Ngài Ma Ha Ca Diếp, ngồi kế bên chỗ tôi nằm, lấy tay phải xoa đầu và bảo: “Nầy Tỳ Kheo! Y bát chớ để xa thân. Thầy đừng quá ưu sầu. Hãy lấy y bát lót đầu nằm, rồi mọi việc sẽ an lành!”
Nghe xong, tôi liền đưa tay lấy y bát làm gối nằm, rồi xoay đầu lại thì không thấy tôn giả Ma Ha Ca Diếp đâu cả. Lúc đó, toàn thân đều toát mồ hôi. Thân tâm khỏe khoắn, an lạc không lời chi diễn tả. Tôi lại nói được chút ít. Nhờ thầy Diệu Viên đến trước điện Hoa Đà cầu thuốc uống, nhưng chỉ được hai vị Mộc Trát và Dạ Minh Sa. Lúc ấy, mắt tôi mở ra chút ít, nói chuyện lại được.
Lại cầu thêm một toa thuốc nữa, chỉ được vị Xích Tiểu Đậu. Lấy đậu nầy nấu với cháo mà ăn. Không được dùng thức ăn cứng. Ắn như thế hai ngày, đầu động đậy được đôi chút. Lại cầu nguyện xin thuốc, vẫn là vị Xích Tiểu Đậu. Từ đó, lấy đậu này nấu với cháo mà ăn. Đại tiểu tiện đều thông. Ra phẩn đen ngòm. Từ từ, thân thể cảm giác đau chút ít. Có thể ngồi, và có thể đi.
*
Bịnh tình như thế trước sau, trải qua hơn hai mươi ngày. Thật đa tạ đại chúng, đã mệt thân phí sức vì tôi. Thầy Diệu Viên ngày đêm túc trực lo lắng. Tôi thật cảm ân hết sức. Tôi lễ tạ Bồ Tát Hoa Đà; nguyện sau này sẽ xây cất điện già lam để thờ Ngài. Tôi lấy vài thẻ, tất cả đều được như ý.
Bịnh tình thuyên giảm, tôi tiếp tục giảng luận Đại Thừa Khởi Tín. Giảng vừa xong, hai thầy Thiện Khiêm và Bảo Nguyệt từ chùa Cực Lạc ở Penang đến đón tôi về. Quốc Vương, đại thần, cư sĩ hộ pháp, thiện nam tín nũ trong thủ đô Xiêm La đều đến tiển đưa, cúng dường số lớn tịnh tài.
Lúc trước, khi tôi đến hoàng cung làm Phật sự, Quốc Vương Xiêm La cúng dường ba trăm mẫu đất tại Đổng Lý. Tôi giao khoảnh đất này cho hòa thượng Thiện Khánh ở chùa Cực Lạc, Penang, và yêu cầu Ngài lập một cơ xưởng làm cao su. Tôi cùng với hai thầy Thiện Khiêm và Bảo Nguyệt ở lại vùng đất sắp lập cơ xưởng đó qua năm mới.
Hiếu viết
Nam mô A Di Đà Phật. Lão Hòa Thượng Hư Vân đúng là hóa thân của Bồ tát.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Thường những khi gặp chướng ngại tôi lại đọc hồi ký của Ngài, xem việc ấy như nạp thêm năng lượng cho mình. Hai cuốn tự truyện của Hòa Thượng Hư Vân và Hòa Thượng Tuyên Hóa, đọc đi đọc lại vẫn không thấy chán mỏi!