Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 30, 65 tuổi. (1904/05)
Mùa xuân, chư hộ pháp cùng hòa thượng Khế Mẫn đến khẩn thỉnh tôi ra thất để đến chùa Quy Hóa giảng kinh Viên Giác và kinh Bốn Mươi Hai Chương. Người quy y Tam Bảo tại chùa hơn cả ba ngàn người. Mùa thu, thượng nhân Mộng Phật thỉnh tôi đến chùa Cung Trúc giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm. Tại chùa, tôi hướng dẫn khắc bản gỗ kinh Thủ Lăng Nghiêm cùng các bài thi kệ của đại sư Hàn Sơn. Những bản gỗ khắc nầy được tồn trử tại chùa.
Tôi cũng được cung thỉnh truyền giới. Phật sự xong, đề đốc Trương Tùng Lâm, tướng Lý Phúc Hưng cùng quan thân sĩ thứ cung thỉnh tôi đến phủ Đại Lý giảng kinh Pháp Hoa tại chùa Sùng Thánh, Tam Tháp. Người quy y Tam Bảo cả vài ngàn người. Đề đốc Lý Phúc Hưng muốn giữ tôi lại.
Tôi đáp: “Tôi không thích trú tại thành phố. Xưa kia, muốn kết am tại núi Kê Túc nhưng con cháu các chùa trên núi không cho. Nay chư vị là hộ pháp, vậy hãy cho tôi một khoảnh đất; nguyện cất am tiếp chúng, cùng cứu vãn tăng chúng toàn trấn, khôi phục đạo tràng của tổ Ca Diếp. Đó là sở nguyện của lão tăng này vậy.”
Chư vị hộ pháp đều trả lời là được. Họ lại bảo quan Tri Huyện huyện Tân Châu trợ giúp. Trên núi, tôi tìm được một am thất hư tàn, tên là Bồn Vu, để tạm trú. Trong am không có phòng xá, không lương thực, nhưng tôi vẫn tiếp lễ bốn chúng từ mười phương đến.
*
Am Bồn Vu được lập từ đời Gia Khánh, nhà Thanh (1796-1820), vốn không có tăng trụ trì vì bên ngoài cửa chùa có một tảng đá, Bạch Hổ. Tôi muốn xây hồ phóng sanh nơi đây, nên thuê người dời tảng đá đó. Đào đất chung quanh tảng đá, nhưng không thấy chân đá. Tảng đá cao chín thước bốn tấc, rộng bảy thước sáu tấc. Đỉnh đá bằng phẳng, có thể ngồi thiền trên đó. Thuê hơn một trăm công nhân để dời tảng đá đó ra xa hai trăm tám mươi thước.
Công nhân gắng sức cả ba ngày mà tảng đá vẫn không động đậy. Sau khi tất cả công nhân bó tay bỏ về, tôi tụng đọc kinh chú, cầu nguyện chư thần hộ pháp Già Lam Thánh chúng gia hộ, rồi hướng dẫn hơn mười vị tăng, di chuyển được tảng đá đó qua bên phải cửa chùa. Người đến xem phải kinh ngạc, biết là nhờ thần lực của chư thần hộ pháp gia hộ. Nhân việc lành này, có người đề khắc lên tảng đá: “Vân Di Thạch”, tức là tảng đá được di chuyển bởi lão tăng Hư Vân. Quan thân sĩ thứ cũng đề thơ lên tảng đá đó rất nhiều.
Vì muốn trùng tu mái chùa để tiếp hầu tăng tục mười phương, nên tôi phải gấp rút đi quyên góp tịnh tài. Tôi giữ thầy Giới Trần ở lại làm Lương Lý nội vụ, rồi một mình đi thẳng qua Đằng Xung. Từ Hạ Quan đến Vĩnh Xương, qua Hòa Mộc. Cả hơn trăm dặm, đường xá thật rất khó đi. Quan dân xưa nay chưa từng sửa chữa.
*
Tôi nghe người dân địa phương nói: “Có một vị tăng ở tỉnh ngoài đến, tự phát tâm khổ hạnh sửa sang đường xá. Không đi quyên góp, chỉ nhận thức ăn cúng dường của khách qua đường. Như thế đã bao thập niên rồi mà chưa từng thối chuyển. Đường lộ đã được Ngài sửa chữa khoảng chín mươi phần trăm. Người Bố Phiêu nơi đây cảm kích ân đức, muốn sửa lại chùa Khổng Tước Minh Vương lại cho Ngài ở, nhưng Ngài từ chối và cứ tiếp tục sửa đường.”
Tôi nghe điều kỳ lạ này, liền đi thẳng đến tìm Ngài. Hoàng hôn vừa xuống, tôi gặp Ngài trên đường, đang mang cuốc xẻng và giỏ rơm, chuẩn bị trở về. Tôi đến trước mặt định hỏi, nhưng Ngài trương mắt nhìn thẳng mà không đáp lời. Tôi cũng không để ý, chỉ cùng theo Ngài đi thẳng về chùa. Ngài bỏ dụng cụ xuống xong, liền đến ngồi trên tấm bồ đoàn mà tọa thiền. Tôi cúi mình đảnh lễ. Ngài chẳng thèm nhìn hay nói năng gì. Tôi cũng ngồi thiền đối diện trước mặt Ngài.
Sáng hôm sau, Ngài nấu cơm, tôi thổi lửa. Khi cơm chín, Ngài chẳng thèm kêu mời. Tôi cũng vẫn lấy chén xúc cơm ăn. Ắn xong, Ngài cầm cuốc, tôi mang giỏ, cùng nhau ra đường liệng đá đào đất, trải cát. Cùng làm và nghỉ ngơi như thế cả hơn mười ngày mà chưa từng nói năng một lời nào.
*
Tối nọ, trăng sáng như ban ngày, tôi ngồi thiền trên một tảng đá ngoài sân chùa cho đến khuya. Ngài từ trong chùa bước đến sau lưng tôi mà hô tiếng lớn: “Thầy đang làm gì đây?”
Tôi từ từ mở mắt ra và trả lời: “Thưa, tôi đang ngắm trăng.”
Ngài hỏi: “Trăng ở đâu?”
Tôi đáp: “Vừng trăng sáng tuyệt đẹp.”
Ngài đáp lại:
“Giữa bao giả huyễn, khó biết chân thật
Chớ nhận cầu vòng làm ánh sáng.”
Tôi đáp:
“Xưa nay ánh sáng bao trùm muôn vật
Chẳng bị âm dương tuyệt cách ngăn.”
Ngài cười to và nói: “Thôi, trời đã khuya rồi. Chúng ta hãy vào trong nghỉ ngơi.”
Hôm sau, Ngài vui mừng bắt đầu tiếp chuyện, cho biết là người Hồ Hương Phiêu tỉnh Hồ Nam, tên là Thiền Tu, xuất gia từ thuở nhỏ. Năm hai mươi bốn tuổi, tại thiền đường chùa Kim Sơn Ngài đã mang tâm về nơi an trú (tâm không còn vọng động). Sau đó, Ngài đi lễ bái các núi trong nước, cho đến cả Tây Tạng, Miến Điện.
Từ Miến Điện trở về nước, trên lộ trình thấy đường xá ở đây ghập ghềnh khúc khỉu, người ngựa đi đứng khó khăn, khởi tâm thương xót. Lại nhân cảm đức hạnh xưa của Bồ Tát Trì Địa, nên Ngài phát nguyện một mình ở lại đây để sửa sang đường xá, đã qua bao thập niên. Hiện thời, tuổi ngoài tám mươi ba, chưa từng có tri kỷ, nay được gặp người hữu duyên, thật là vui vẻ.
*
Tôi cũng thuật lại nhân duyên xuất gia của mình. Ngày kế, sau khi ăn sáng xong, chúng tôi trò chuyện rất vui vẻ, rồi lại chia tay. Tôi đi Đằng Xung để quyên góp tịnh tài. Vừa ghé ngang hội quán Hồ Nam, chưa kịp đặt hành lý xuống để nghỉ ngơi, bỗng đâu có một nhóm người trẻ tuổi đang mặc áo tang đi đến trước tôi, dập đầu lễ bái và thưa: “Chúng con xin cung thỉnh Hòa Thượng đến nhà để tụng kinh!”
Tôi đáp: “Tôi không phải là ông thầy tụng kinh đám!”
Họ thưa: “Xin Hòa Thượng vì chúng con mà tụng kinh.”
Tôi đáp: “Chẳng lẽ, chư vị không biết có thầy nào trong vùng này thường đi tụng kinh đám sao?”
Người chủ hội quán liền thay mặt họ mà trần thuật sự việc như sau: “Xin thỉnh Đại Sư đi tụng kinh cho nhà họ, vì việc này xảy ra rất lạ lùng, hiếm có. Những người này là con cháu của quan Thái Sử họ Ngô. Lúc Thái Sử còn sống, ông tu trì rất cẩn mật, được người địa phương xưng là vị Thiện Nhân. Lão thái bá họ Ngô, tuổi thọ hơn tám mươi, con cháu được vài mươi người, mà trong đó có vài vị là bậc khoa bảng, tiến sĩ.
Trước ngày mất, Thái Sử họ Ngô tự nói mình là tăng nhân, nên trong di chúc có nói là phải được tẩm liệm với y phục của người xuất gia, không cho gia quyến khóc lóc, giết hại loài vật, hay mời thầy cúng đến tụng kinh, và bảo rằng mai đây sẽ có một vị cao tăng đến tụng kinh siêu độ cho ông.
*
Sau đó, ông ngồi xếp bằng mà mất. Qua vài ngày, nét mặt vẫn còn tươi tỉnh như lúc còn sống. Nay Đại Sư đến, có phải đây là duyên pháp chăng?”
Nghe xong, tôi nhận lời đến nhà họ tụng kinh siêu độ cùng phóng sanh, bố thí, trong bảy ngày. Các quan dân sĩ thứ trong xã ấp đều vui mừng hoan hỉ. Người thọ giới quy y hơn cả ngàn người. Quan thân sĩ thứ muốn giữ tôi ở lại Đằng Xung. Tôi đáp: “Tôi muốn tu sửa lại núi Kê Túc mới đến đây hóa duyên, nên không thể ở lại được.”
Nghe thế, mọi người đều vui vẻ đóng góp cúng dường rất thâm hậu. Tôi mang số tiền này trở về núi Kê Túc, xây dựng phòng xá, thiền đường, giảng đường, cùng chấn chỉnh luật nghi, lập ra quy củ, ban truyền giới pháp. Năm ấy, bốn chúng đến cầu thọ giới hơn bảy trăm vị. Những chùa chiền trên núi cũng thay đổi theo quy củ từ từ. Họ mặc tăng y, cạo râu tóc, ăn chay trở lại.
(Đại sự trong năm: Nhật-Nga tuyên chiến. Trung Hoa tuyên bố trung lập.)
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm 31, 66 tuổi. (1905/06)
Mùa xuân, lão hòa thượng Bảo Lâm tại chùa Thạch Chung thỉnh tôi đến chùa truyền giới. Cầu giới có hơn tám trăm người. Phật sự xong, tôi qua Nam Dương hoằng pháp. Giới Trần bế quan nhập thất tại am Bồn Vu. Khi đến chùa Thái Bình tại Nam Điện, tỉnh Vân Nam, tôi giảng kinh A Di Đà. Giảng xong, vài trăm người thọ giới quy y. Sau đó, theo những vách núi cheo leo, Thiên Nhai, tôi vượt qua núi Dã Nhân, đến Tân Nhai, Ngõa Thành. Vì vùng núi Dã Nhân là nơi thâm sơn chướng độc, nên tôi bị cảm bệnh rất nặng.
Tôi trú trong những chòi lá ven đường. Thân thể ngày đêm nóng rực. Tuy bịnh nặng, tôi vẫn cố gượng đi đến chùa Quán Ấm tại Liễu Động. Trong chùa có một thầy người Hoa, tên là Định Như. Tôi lễ bái, nhưng thầy chẳng thèm nhìn. Tôi lên chánh điện tọa thiền. Đến tối, trên chánh điện, lúc thầy đánh khánh, tôi giúp đánh chuông trống. Sau khi đọc văn sám hối, thầy xướng: “Giết, giết, giết”, rồi lạy ba lạy. Hôm sau, lên chánh điện, tụng kinh xong, thầy cũng xuớng lên chữ giết và lạy ba lần như trưóc.
Tôi lấy làm lạ nên cố nán lại để quan sát thêm. Thức ăn của thầy vào buổi sáng trưa chiều tối đều có hành tỏi. Tôi không ăn, cũng không nói lời nào, chỉ uống nước. Thầy biết lý do vì sao tôi không ăn cơm nên bảo người trong chùa nấu thức ăn nhưng không bỏ hành tỏi. Khi ấy, tôi mới ăn được.
*
Đến ngày thứ bảy, thầy mời tôi uống trà. Tôi liền hỏi việc thầy xướng lên ba câu giết rồi lạy ba lạy là nghĩa gì. Thầy đáp: “Giết những con quỷ da trắng! Quê quán tôi tại Bảo Khánh, tỉnh Hồ Nam. Cha là quan võ tại thị trấn đó, nhưng đã qua đời. Vì vậy, tôi đi tu, thọ pháp tại núi Phổ Đà, theo hòa thượng Trúc Thiền học đạo.
Hơn mười năm trước, lúc từ Hồng Kông trở về Tinh Châu, tôi bị người da trắng ngược đãi trên tàu, không thể nhẫn nhịn được, thực hận đến chết chẳng nguôi. Nay, tôi vẽ tranh nơi đây, có rất nhiều người thích đến mua, nên sinh sống không sợ thiếu thốn. Cả hơn mười năm, tăng nhân đi ngang qua đây, thường làm bộ làm dạng, tánh khí kỳ quái, không ai được như Ngài, viên dung vô ngại, nên nay mới nói ra những lời thành thật.”
Tôi khuyên thầy ấy rằng nên xem oán thân đều bình đẳng, nhưng uất khí của thầy vẫn chưa tiêu nổi.
Bịnh của tôi từ từ giảm bớt nên liền cáo từ, nhưng thầy cố giữ tôi ở lại. Tôi kể lại việc đi quyên tịnh tài để xây chùa. Thầy liền cúng dường tiền lộ phí, lương thực, mua vé xe lửa cùng đánh điện tín qua Ngưỡng Quang, báo tin cho cư sĩ Cao Vạn Bang biết trước để ông ta ra ga xe lửa đón tôi. Sau đó, tôi ân cần cáo biệt. Tôi đến Ngưỡng Quang; toàn gia đình họ Cao cùng Tánh Nguyên, giám viện chùa Long Tuyền ra đón tiếp. Tôi ở lại nhà cư sĩ họ Cao, được tiếp đãi ân cần.
Hòa Thượng Hư Vân: Kiếp nạn
Cư sĩ nói: “Lão hòa thượng Diệu Liên tuy biết Ngài tu khổ hạnh, nhưng những thập niên qua chưa từng nghe tin tức. Nay nghe Ngài đến, lão Hòa Thượng thật rất vui mừng. Vừa rồi có gởi thư đến bảo rằng lão Hòa Thượng sẽ về lại Đường Sơn để trùng tu chùa Qui Sơn tại Ninh Đức.”
Vài ngày sau, tôi đi thăm tháp Đại Kim ở Ngưỡng Quang (Miến Điện). Tham quan các thánh cảnh xong, tôi liền cáo từ, vội trở về nước vì e sợ lão hòa thượng Diệu Liên đang đợi chờ. Cư sĩ họ Cao đưa tôi ra ga xe lửa và đánh điện tín về chùa Cực Lạc tại đảo Tân Lang để ra đón tôi.
Khi vừa đến bến, vì trên tàu có người chết do bịnh dịch hạch, nên một lá cờ màu vàng “Đả Hạn” được trương lên. Những người trên tàu đều bị khám nghiệm trên một vùng đồi núi rộng rãi. Hơn ngàn người ở tạm lại trên núi, nhưng không có lều vải chi hết. Ban ngày, bị mặt trời thiêu đốt cháy da. Ban đêm, mưa gió lạnh buốt.
Khẩu phần thực phẩm của mỗi người trong một ngày chỉ có một nhúm gạo và hai củ cà rốt. Tất cả phải tự nấu ăn lấy. Bác sĩ đến khám bịnh hai lần một ngày. Đến ngày thứ bảy, khoảng phân nửa số người ở đó được rời núi. Ngày thứ mười, hầu hết mọi người đều rời đảo, duy chỉ còn một mình tôi.
*
Khi ấy, tâm tôi thật khó kiên nhẫn, lại thêm thống khổ vì bịnh tình ngày một gia tăng. Từ từ, tôi không thể ăn gì được. Ngày mười tám, bác sĩ đến, bảo phải khiêng tôi qua một tịnh thất, nơi không ai ở. Tôi vui lên phần nào. Có một ông lão giữ cửa, khi hỏi qua được biết ông là người Tuyền Châu. Ông lão than thở: “Căn phòng này chỉ dành cho những người bịnh sắp chết nằm. Sau khi chết, sẽ bị giải phẩu!”
Tôi nói rõ là muốn đến thăm chùa Cực Lạc. Ông lão cảm động, nói: “Tôi sẽ lấy thuốc cho Ngài uống.”
Ông lão liền lấy một đơn thuốc cho tôi uống trong hai ngày. Bịnh tình thuyên giảm đôi chút. Ông lão lại nói: “Khi bác sĩ đến, tôi ở bên ngoài phòng, ho lên làm hiệu. Lúc ấy, Ngài nên ngồi dậy, phấn chấn tinh thần. Nếu bác sĩ cho thuốc thì chớ có uống.”
Lát sau, quả nhiên bác sĩ đến, đưa thuốc bảo tôi phải uống. Vì không thể cưỡng lại được nên tôi đành phải uống. Bác sĩ vừa đi khỏi thì ông lão đến và hỏi rằng tôi có uống thuốc không. Tôi đáp là đã uống rồi. Ông lão kinh sợ và nói: “Thôi rồi! Ngài chắc khó sống. Ngày mai bác sĩ sẽ đến để mổ thân Ngài. Tôi sẽ cho Ngài uống thêm một đơn thuốc nữa. Chỉ cầu mong Phật Tổ cứu sống Ngài.”
*
Hôm sau, ông lão đến thăm, thấy tôi đang ngồi dưới đất. Tuy mắt mở to nhưng tôi chẳng thấy gì. Ông lão đỡ tôi dậy, thấy máu chảy đầy mặt đất. Ông cho uống thêm một đơn thuốc, gấp rút giúp tôi thay quần áo, cùng lau chùi sàn nhà sạch sẽ, rồi lại than:
“Nếu là người khác, sau khi uống thuốc của bác sĩ cho vào ngày hôm qua, chắc đã bị mổ trước khi trút hơi thở cuối cùng rồi. Số mạng Ngài chưa hết, chắc chắn là do chư Phật gia hộ. Lúc chín giờ, bác sĩ sẽ đến nữa. Khi ấy, tôi sẽ ho lên để làm hiệu. Nghe tiếng ho, Ngài nên cố ngồi dậy, phấn chấn tinh thần.”
Khi bác sĩ đến, thấy tôi vẫn còn sống. Ông chỉ ngón tay về hướng tôi rồi cười và bỏ đi. Khi hỏi tại sao bác sĩ lại cười, ông lão đáp là mạng sống tôi chưa dứt. Tôi bảo ông lão là cư sĩ họ Cao có cúng dường tôi một ít tiền. Vậy hãy giúp tôi lấy số tiền này mà tặng cho bác sĩ, để xin ông ta thả tôi ra. Sau đó, tôi liền lấy ra bốn mươi ngàn đồng nhờ đưa cho bác sĩ và hai mươi ngàn đồng để tặng riêng như một món quà để đáp đền những gì ông lão đã giúp đỡ.
Ông lão nói: “Tôi không thể lấy tiền của Ngài được. Hôm nay, sẽ có bác sĩ người tây phương đến nên không thể thương lượng. Ngày mai, bác sĩ sẽ là người Cát Lãnh. Lúc đó mới có thể bàn chuyện được.”
*
Chiều hôm đó, ông lão đến và bảo: “Tôi đã nói chuyện với bác sĩ người Cát Lãnh và đã đưa cho ông ta hai mươi ngàn đồng rồi. Ngày mai, Ngài sẽ được thả ra.”
Nghe thế, tôi rất an tâm, liền cảm tạ ông lão. Ngày kế, bác sĩ đến, khám xong, liền sai người đem ghe ra đưa tôi vào đất liền. Ông lão đỡ tôi lên ghe. Lúc đến bờ thì họ mướn xe chở tôi đến chùa Quảng Phúc. Vì thấy hình dạng gầy gò quái dị, nên thầy tri khách để mặc tôi ngồi cả hai giờ. Tự dưng tâm tôi khởi niềm buồn vui lẫn lộn. Vui vì không chết dưới tay của người ngoại quốc. Buồn vì thầy tri khách không làm tròn bổn phận. Cuối cùng, một lão già bước ra. Đó là thầy thủ tọa Giác Không.
Tôi tự xưng là Hư Vân, rồi cúi đầu đảnh lễ. Lạy xuống rồi nhưng không đủ sức để đứng dậy, nên thầy thủ tọa liền đỡ tôi đứng dậy và nói: “Cư sĩ họ Cao đã đánh điện tín hơn hai mươi ngày mà không biết tin tức của thầy chi hết. Lão hòa thượng Diệu Liên cùng toàn thể đại chúng đều lo lắng cho thầy. Tại sao thân thể thầy ra nông nỗi này?”
Khi ấy, tất cả tăng chúng đều ra đến đầy cả điện đường. Trong phút chốc, tôi cảm giác nắng ấm mùa xuân tràn đầy khắp gian phòng. Lát sau, lão hòa thượng Diệu Liên bước vào và nói: “Ngày ngày trông mong tin tức. Sợ con gặp hiểm nạn. Thầy muốn trở về Phước Kiến để trùng tu lại chùa Qui Sơn, nhưng nghe con sắp đến đây nên mới nán ở lại.”
Hòa Thượng Hư Vân: Gặp lại Ân sư
Tôi đáp: “Đệ tử tội nặng. Cúi xin thầy từ bi tha lỗi!”
Sau đó, tôi lược thuật lại sự tình. Lão Hòa Thượng cùng đại chúng đều kinh ngạc và vui mừng, chấp tay niệm Phật, rồi đồng trở về chùa Cực Lạc. Lão Hòa Thượng lại bảo tôi hãy nên uống thuốc. Tôi thưa: “Con đã trở về nhà, vọng niệm đều dứt sạch, nghỉ ngơi vài ngày thì bịnh chắc sẽ khỏi.”
Sau nầy, lão Hòa Thượng thấy tôi mỗi lần ngồi thiền suốt cả vài ngày nên răn dạy: “Khí hậu ở Nam Dương nóng nực, không như ở trong nước, ngồi thiền lâu e sợ hại đến thân.”
Tuy nhiên, tôi không cảm thấy như thế. Lão Hòa Thượng lại bảo tiếp: “Con nên giảng kinh Pháp Hoa ở đây để kết duyên. Thầy phải trở về nước. Sau khi giảng kinh xong, chớ vội về Vân Nam, hãy đến núi Cổ Sơn, vì thầy còn một việc muốn nói với con.”
Đưa lão Hòa Thượng lên tàu xong, tôi trở về chùa khai giảng kinh. Vài trăm người thọ giới quy y với tôi. Các vị hộ pháp tại Malacca thỉnh tôi đến đình Thanh Vân giảng kinh Dược Sư. Tôi qua Kuala Lumpur, được cư sĩ Diệp Phật Hữu, Vạn Vân Phàm v.v…, thỉnh đến chùa Linh Sơn giảng kinh Lăng Già. Tại các pháp hội giảng kinh, người thọ giới quy y có đến hơn mười ngàn người.
*
Mùa đông, toàn thể tăng chúng tỉnh Vân Nam đánh điện tín bảo là chính phủ hiện tại đang kê khai tài sản chùa chiền. Ngài Kỳ Thiền (tức thiền sư có tám ngón tay) cũng gởi điện tín qua, mời tôi quay về nước gấp để cùng nhau bàn tính chuyện giải quyết vấn đề. Vì cuối năm, nên tôi ở lại Kuala Lumpur qua năm mới.
Hiếu viết
Nam mô A Di Đà Phật. Lão Hòa Thượng Hư Vân đúng là hóa thân của Bồ tát.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Thường những khi gặp chướng ngại tôi lại đọc hồi ký của Ngài, xem việc ấy như nạp thêm năng lượng cho mình. Hai cuốn tự truyện của Hòa Thượng Hư Vân và Hòa Thượng Tuyên Hóa, đọc đi đọc lại vẫn không thấy chán mỏi!