Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 16, 51 tuổi. (1890/91)
Đến Nghi Hưng, lễ hòa thượng Nhân Trí, đang tu tại chùa Hiển Thân, là nơi xuất gia của Mật Tổ. Tôi ở đây qua mùa hè. Sau đó đến Cú Dong lễ hòa thượng Pháp Nhẫn. Tại đây tôi giúp ngài sửa chữa chùa Xích Sơn và ở qua mùa đông.
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 17, 52 tuổi. (1891/92)
Tại Kim Lăng giúp thượng nhân Tùng Nghiêm sửa chùa Tịnh Thành. Lúc bấy giờ, thường qua lại với cư sĩ Dương Nhân Sơn tham cứu luận Nhân Minh, luận Bát Nhã Đăng. Ở qua mùa đông tại chùa Tịnh Thành.
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 18, 53 tuổi. (1892/93)
Cùng các thầy Phổ Chiếu, Nguyệt Hà, Ần Liên lên núi Cửu Hoa sửa am tranh Thúy Phong để ở. Thầy Phổ Chiếu chủ giảng năm phần giáo nghĩa của kinh Hoa Nghiêm. Tông Hiền Thủ đã bị quên lãng rất lâu, nay nghe có giảng giáo nghĩa, chư tăng các xứ đến dự rất đông. Giáo nghĩa tông Hiền Thủ nay khởi dậy nơi miền xuôi sông Giang Hạ.
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 19, 54 tuổi. (1893/94)
Tôi vẫn ở tại am Thúy Phong nghiên cứu kinh điển. Mùa hè có pháp sư Đế Nhàn đến cùng an cư kiết hạ. Sau đó qua chùa Kim Sơn ở qua mùa đông.
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 20, 56 tuổi. (1895/96) – Đắc đạo
Hòa thượng trụ trì chùa Cao Mân tại Dương Châu đến núi Cửu Hoa, bảo: “Năm nay tại chùa Cao Mân có thí chủ họ Chu thỉnh các thầy làm pháp sự. Ông ta sẽ cúng dường và hộ trì chư tăng nhập thiền thất trong mười hai tuần tính luôn bốn tuần hiện tại. Lão hòa thượng Xích Sơn đã trở về chùa. Ngài ngưỡng mong chư vị trở về hộ trì thường trụ.”
Khi kỳ thiền thất sắp đến, chúng tăng thúc dục tôi xuống núi trước. Khi vừa tới cảng Địch Câu, thuộc Đại Thông, tôi đi dọc theo bờ sông, gặp lúc nước lớn, muốn qua sông; người lái đò đòi trả sáu đồng, nhưng vì tôi không có đồng xu nào, nên ông chèo ghe bỏ đi. Vì vậy, tôi vẫn tiếp tục men theo bờ sông mà đi.
Lại vì không cẩn thận nên hụt chân té xuống sông, bị trôi chìm cả một ngày đêm, đưa dạt đến vùng phụ cận của bến đá Thải Thạch. Ngư dân kéo lưới dính tôi, nên gọi một vị thầy chùa Bảo Tích đến nhận. Thầy ấy xưa kia có cùng tôi ở tại chùa Xích Sơn. Thầy hoảng hốt, bảo: “Đây là thầy Đức Thanh.”
Sau đó tôi được khiêng về chùa và cứu sống lại. Khi ấy là ngày hai mươi tám tháng sáu. Máu từ miệng mũi, đại tiểu tiện chảy ra. Tôi ở lại đó vài ngày rồi vội đi đến chùa Cao Mân. Vị tăng tri sự thấy tôi gầy ốm nên hỏi: “Ngài có bịnh hoạn gì không?”
Hòa Thượng Hư Vân: Chướng nghiệp
Đáp: “Không.”
Lại yết kiến hòa thượng Nguyệt Lãng; hỏi han chuyện trên núi xong, liền mời tôi tạm thay mặt Ngài làm thiện tri thức cho chúng tăng trong những kỳ thiền thất sắp tới. Tôi lễ phép từ chối, lại không dám nói chuyện bị té xuống sông, chỉ cầu mong được đả thiền thất trong thiền đường. Gia phong chùa Cao Mân nghiêm ngặt; nếu được mời làm tăng chức sự mà cự tuyệt không nhận thì bị tội khinh tăng chúng của chùa. Như vậy, tôi bị phạm luật nên phải chịu ăn đòn. Tôi thuận chịu mà không nói chi.
Bị đánh xong thì bịnh lại gia tăng thêm, máu chảy không ngừng, chỉ chờ chết. Trong thiền đường, ngày đêm tinh tấn, nhất niệm lắng trong, không biết thân là vật gì cả! Qua hơn hai mươi ngày, bịnh hoạn đều hết. Thầy Đức Ngạn trụ trì chùa Bảo Tích gần bến đá Thải Thạch đem y vật đến cúng dường, thấy mặt tôi sáng sủa, rất vui mừng. Lại kể việc tôi bị té sông cho đại chúng nghe; ai ai cũng khâm phục tán thán.
Vị tăng nội thức trong thiền đường không còn bảo tôi luân trực nữa, nên tu hành dễ dàng. Từ đó muôn niệm đều dừng, công phu ngày đêm như một, hành động lẹ làng như gió. Tối nọ, khi cây hương thiền thất vừa đốt lên, tôi mở mắt ra, nhìn thấy mọi vật hiện như lúc ban ngày, trong ngoài đều rõ ràng.
Hòa Thượng Hư Vân: Thành đạo
Cách tường đá thấy thầy hương đăng đang tiểu tiện, lại thấy thầy tri khách đang trong nhà cầu; xa nữa thấy một chiếc ghe đang chạy trên sông. Màu sắc hình dạng của hàng cây hai bên bờ sông đều thấy rõ. Lúc ấy là khuya canh ba. Hôm sau, hỏi thầy hương đăng cùng thầy tri khách thì quả thật đúng như việc tôi đã thấy đêm qua. Tôi biết đây là cảnh giới của thiền nên không cho là kỳ dị.
Đến ngày thứ ba của tuần thiền thất thứ tám, lúc đốt cây nhang khai tỉnh thứ sáu, theo lệ thường, thầy hộ thất rót trà cho chư tăng trong thiền thất dùng. Khi đưa tách trà cho tôi, vì sơ ý, ly nước bị rớt xuống đất. Vừa nghe tiếng ly nước bể, căn nghi liền bặt dứt, tâm chợt ngộ đạo như vừa tỉnh giấc mơ. Nhớ lại vài mươi năm trước, nơi sông Hoàng Hà bị một gã tục hán hỏi mà không biết nước là gì. Nếu lúc đó, đạp nồi đất, thử xem Văn Cát còn nói gì nữa không!
Hôm nay, nếu không bị té sông bịnh nặng, không nhẫn cảnh nghịch cảnh thuận, không nghe sự giáo hóa của tri thức, chắc luổng phí một đời. Vì thế, viết kệ:
*
“Bối tử phát lạc địa,
Hưởng thanh minh lịch lịch.
Hư không phấn toái dã.
Cuồng tâm đương hạ hưu.
Năng khán thủ, đả phấn toái,
Gia phá nhân vọng ngữ nan khai.
Xuân chí hoa hương xú xứ tú.
Sơn hà đại địa thị Như Lai.”
Dịch:
“Cốc nước rơi xuống đất,
Tiếng vang thật rõ ràng,
Hư không tan thành bụi,
Tâm cuồng liền thôi dứt,
Tay thả lỏng, cốc nước rơi,
Nhà tan người mất thật khó nói,
Xuân đến hoa hương nơi nơi đều nở rộ,
Núi sông đất rộng là Như Lai.”
(Đại sự trong năm: Thành lập hòa ước Mã Quan, cắt Đài Loan cùng Liễu Đông Bán Đảo cho Nhật Bổn. Nga Anh Pháp khuyên Nhật Bổn trở lại Liêu Đông Bán Đảo)
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 22, 57 tuổi. (1896/97)
Mùa hạ, tôi đến chùa Kim Sơn tại Trấn Giang an cư kiết hạ. Lão hòa thượng Đại Định giữ tôi lại qua đông.
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 23, 58 tuổi. (1897/98)
Từ chùa Kim Sơn, tôi qua núi Lang Sơn lễ bái đạo tràng Bồ Tát Đại Thế Chí. Xong, liền trở lại chùa, gặp hòa thượng Đạo Minh mời tôi đến Dương Châu làm trợ lý cho chùa Trọng Ninh. Tháng tư, pháp sư Thông Trí giảng kinh Lăng Nghiêm tại Tiêu Sơn, thính chúng ngàn người. Ngài bảo tôi phụ giảng. Giảng kinh xong, từ biệt đại chúng xuống núi.
Tôi được sanh ra mà không gặp mẹ, chưa từng thấy dung mạo bà. Lúc còn ở nhà có thấy hình thờ. Mỗi lần nhớ đến thì tâm cang liền đau nhức. Xưa kia có nguyện rằng sẽ đến chùa A Dục Vương lễ xá lợi của Phật, rồi đốt ngón tay cúng Phật, cầu siêu độ mẹ hiền. Thế nên tôi đi Ninh Ba. Bấy giờ có pháp sư Huyễn Nhân cùng hòa thượng Kỳ Thiền (tức thiền sư có tám ngón tay, hành hạnh đầu đà) đang trông coi chùa Thiên Đồng, hòa thượng Hải Ngạn đang tu chỉnh lại gia phả Dục Vương Sơn Chí, đều mời tôi phụ giúp. Nhưng vì nguyện mới đến đấy, nên tôi lễ phép từ chối.
Tôi lễ xá lợi từ sáng sớm canh ba đến chiều tối; trừ khi ở ngoài điện đường, không dùng bồ đoàn, tọa cụ. Mỗi ngày lễ ba ngàn lạy. Tối nọ, đang lúc ngồi thiền nhập định, như mộng mà không phải mộng, thấy trên không có một con rồng vàng, bay vào điện xá lợi trước hồ Thiên Trì, thân dài cả mấy mươi thước, sắc vàng chiếu sáng.
*
Tôi leo lên lưng, rồng liền bay đến một nơi núi sông hùng vĩ, cây cỏ hoa trái xanh xanh u mịt, lâu các cung điện, trang nghiêm kỳ diệu. Thấy mẹ mình đang đứng trên lầu các xem cảnh, liền gọi: “Mẹ ơi! Thỉnh mẹ lên lưng rồng. Rồng sẽ đưa mẹ qua cõi Tây Phương.”
Rồng lập tức bay xuống. Ngay lúc ấy liền giật mình tỉnh giấc. Thân tâm cảm giác thanh tịnh trong sáng, cảnh giới rõ ràng. Đây là lần thứ nhất mộng thấy mẹ mình. Từ đó, mỗi ngày nếu có người đến xem xá lợi, tôi đều tham gia. Cách nhìn xá lợi của mỗi người đều khác biệt nhau. Tôi được xem nhiều lần. Ban đầu thấy hạt xá lợi lớn như hạt đậu, màu tím đen. Giữa tháng mười, sau khi lễ lạy hai đại tạng kinh Nguyên Thủy và Đại Thừa xong, lại xem lần nữa, thấy hạt cũng lớn như lần đầu, nhưng biến thành hạt châu màu đỏ. Tôi lễ lạy thêm nữa.
Vì gấp rút cầu chứng nghiệm nên toàn thân đều đau nhức. Xem lần nữa, thấy hạt lớn hơn hạt đậu vàng, màu sắc nửa trắng nửa vàng. Đến lúc ấy, tin chắc rằng hạt xá lợi tùy theo căn tánh của mỗi người mà hiện. Lại gấp muốn cầu chứng nghiệm, gia tăng lễ bái. Đầu tháng mười một, chợt bị bịnh nặng, không thể lễ bái. Được đại chúng đưa đến ở tại hậu liêu Như Ý, nằm trên võng mà uống thuốc, không thể ngồi dậy.
Hòa Thượng Hư Vân: Hiếu tâm
Bấy giờ, thầy thủ tọa Hiển Thân, thầy giám viện Tông Lượng, cô cư sĩ họ Lô, cùng chư vị khác tìm mọi phương thuốc để cứu trị cho tôi, nhưng chỉ phí tiền mệt sức, không thấy thuyên giảm chút nào. Đại chúng đều cho rằng duyên đời của tôi đến đây là hết. Tôi cũng nghĩ vậy, nhưng ngặt vì lời nguyện đốt ngón tay cúng Phật chưa thành, nên tâm sanh khổ não. Đến ngày mười sáu, có tám vị khách tăng vào lều thăm, nghĩ là bịnh tình của tôi không nặng cho lắm, nên định giúp tôi đốt ngón tay cúng Phật.
Tôi nghe thế, biết rằng ngày may sẽ bắt đầu nên kiên trì thỉnh cầu tham gia, nhưng chư thủ tọa cùng các vị thầy khác không tán thành, sợ nguy hiểm đến tánh mạng. Tự dưng nước mắt tôi cứ tuôn trào như suối mà thưa: “Có ai tránh khỏi chết sống đâu. Vì muốn báo đáp ân mẹ hiền nên phát nguyện đốt ngón tay cúng Phật. Không thể vì bịnh mà ngưng. Nếu không, sống có ích lợi chi? Tôi sẵn sàng đón nhận cái chết!”
Giám viện Tông Lượng (lúc ấy chỉ mới hai mươi mốt tuổi) nghe thế cũng rơi lệ, nói: “Ngài chớ lo phiền. Tôi sẽ hộ trợ Ngài thành tựu nguyện lực. Ngày mai tôi sẽ lo tế trai và chuẩn bị mọi việc để giúp Ngài.”
Tôi chấp tay cảm tạ.
*
Sáng ngày mười bảy, giám viện Tông Lượng mời sư đệ của thầy là Tông Tín hộ giúp tôi đốt ngón tay. Nhiều người luân phiên lên chánh điện phụ giúp lễ Phật. Sau khi tụng qua các nghi lễ, đến lúc đại chúng niệm văn sám hối, tôi nhất tâm niệm Phật, siêu độ mẹ hiền. Lúc đầu cảm giác toàn thân rất đau nhức. Kế đến, tâm từ từ thanh tịnh lắng trong; cuối cùng tri giác trong sáng.
Vừa niệm đến câu Pháp giới tạng thân A Di Đà Phật, thì toàn thân tám mươi ngàn sợi lông đều dựng đứng. Sau khi đốt ngón tay xong, tôi tự đứng dậy lễ Phật, không nhờ người đỡ, lúc bấy giờ không biết thân mình đang mang bịnh, tự đi đến lễ tạ đại chúng. Trở về hậu liêu, cảm thán việc hy hữu này. Hôm đó dời ra khỏi hậu liêu Như Ý. Hôm sau, ngâm ngón tay bị thương vào nước muối cả ngày, không còn bị chảy máu nữa. Vài ngày kế, da thịt liền lại, từ từ lễ bái như thường.
Tôi trú tại chùa A Dục Vương qua năm mới.
Phụ chú:
Tên chùa, xưa là Quảng Lợi, sau lại đổi ra A Dục Vương, phía nam huyện Ninh Ba làng Nam Hương. Xưa, sau khi Phật diệt độ khoảng hai trăm năm, có vua A Dục trị vì tại trung Thiên Trúc, Ần Độ, phân xá lợi của Phật ra làm tám mươi bốn ngàn viên, để thờ trong bảo tháp. Sai khiến quỷ thần đem chôn nhiều chỗ. Về phía đông Ần Độ, tức nước Trung Hoa, có mười chín chỗ, lần lần xuất hiện, như núi Ngũ Đài và chùa A Dục Vương. Trong núi Ngũ Đài, có tháp xá lợi rất lớn nhưng khó mà thấy được.
Đời vua Tấn Võ Đế niên hiệu Thái Khang năm thứ ba (282-3 AD), khi thiền sư Huệ Đạt lễ bái thỉnh cầu xá lợi Phật, thì từ dưới đất, xá lợi Phật liền vọt lên. Sau đó, một ngôi chùa được kiến lập lấy tên là A Dục Vương, còn xá lợi thì được để trong tháp đá. Cửa tháp thường đóng, nếu muốn ngắm xem xá lợi thì đầu tiên phải cho vị tháp chủ biết. Vào chánh điện lễ Phật xong, ra ngoài điện quì trên thềm đá; người muốn ngắm xem thì phải y theo thứ tự mà quì. Tháp chủ thỉnh tháp xá lợi ra.
Tháp cao một thước bốn tấc, rộng khoảng trên một thước. Ở giữa tháp có treo một chuông thật tâm trong đó có một cây kim. Xá lợi đặt kế cây kim đó. Người ngắm xem, thấy hạt xá lợi lớn nhỏ, nhiều ít không đồng. Bình thường thì thấy một hạt hoặc ba hạt, màu xanh vàng đỏ trắng. Nếu thấy hoa sen cùng tượng Phật đó là người có duyên thù thắng với đạo.
*
Đời nhà Minh, niên hiệu Vạn Lịch có giám quan sử bộ là Lục Quang Tổ cùng thân hữu đến xem. Mới đầu thấy như hạt đậu nhỏ, kế đến thấy như hạt đậu lớn, kế thấy như trái chà là, quả dưa hấu, rồi lại như bánh xe lớn, quang minh chiếu sáng, khiến thân tâm thanh tịnh trong sáng. Lúc bấy giờ điện xá lợi bị hư hại, Lục Quang Tổ phát tâm sửa chữa, trang nghiêm cho đến ngày nay. Đấng Như Lai vì lòng đại bi nên lưu lại pháp thân chân thể, để chúng sanh đời vị lai sinh tâm chánh tín.)
(Đại sụ trong năm: Đức thuê vịnh Giao Châu. Vua Triều Tiên xưng Hoàng Đế Đại Hán)
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 24, 59 tuổi. (1898/99)
Đầu năm, vẫn trú tại chùa A Dục Vương. Nhân chùa Thất Tháp ở Ninh Ba có đúc một đại hồng chung, hòa thượng Quy Y, hòa thượng Bổn Lai thỉnh pháp sư Mặc Am giảng kinh Pháp Hoa. Chư hòa thượng đến chùa A Dục Vương thỉnh tôi phụ giảng. Thế nên, tôi tới chùa Thất Tháp. Giảng kinh xong, đến núi Đồng Quan, Nghi Hưng kết am tranh ở qua năm mới.
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 25, 60 tuổi. (1899/00)
Hòa thượng Kết Sâm và Bảo Lâm mời tôi qua Đan Dương trùng tu lại chùa Tiên Thai. Tôi an cư kiết hạ tại đây. Tháng bảy, đến Câu Dong, Giang Tô; hòa thượng Pháp Nhẫn tại Xích Sơn cho phép tôi ở lại am tranh với Ngài.
(Đại sự trong năm: Anh thuê Cửu Long Bán Đảo. Pháp thuê vịnh Quảng Châu)
Hiếu viết
Nam mô A Di Đà Phật. Lão Hòa Thượng Hư Vân đúng là hóa thân của Bồ tát.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Thường những khi gặp chướng ngại tôi lại đọc hồi ký của Ngài, xem việc ấy như nạp thêm năng lượng cho mình. Hai cuốn tự truyện của Hòa Thượng Hư Vân và Hòa Thượng Tuyên Hóa, đọc đi đọc lại vẫn không thấy chán mỏi!