Hòa Thượng Hư Vân: Trung Hoa Dân Quốc nguyên niên, 73 tuổi. (1912/13)
Sau khi trở về Vân Nam, tôi liền thành lập chi hội Phật giáo. Tại cung Vũ Xương, khai mở đại hội Phật giáo. Tôi thỉnh thầy Liễu Trần thiết lập chi hội Phật giáo tại Quý Châu. Vị Phật sống, lạt ma Tây Tạng từ vùng đất xa xôi cùng đến với rất đông vị lạt ma khác. Chúng tôi bàn thảo việc mở trường học Phật giáo, xây nhà thương, lập các hội từ thiện, tổ chức đoàn truyền giáo. Trong năm đó có một việc nhỏ đáng ghi.
Số là có người nông dân, đem một con két biết nói đến phóng sanh. Lúc đầu nó còn ăn thịt, nhưng sau khi được quy y, dạy niệm Phật rồi thì không còn thích ăn thịt nữa. Nó rất thuần thiện, tự biết ra vào, mỗi ngày thường niệm Phật và thánh hiệu Bồ Tát Quán Thế Ấm không ngừng nghỉ. Ngày nọ, nó bị một con diều hâu bắt cắp đi. Lúc bay trên không trung, chỉ nghe tiếng Phật thôi. Tuy chỉ là loài vật, đến lúc báo thân sắp hết, chết sống kề cận, mà không xả bỏ niệm Phật. Chẳng lẽ con người lại không bằng được như con két này sao?
Tôi ở lại chùa Côn Minh qua mùa đông.
*
(Đại sự trong năm: Mồng một tháng giêng, tiên sinh Tôn Trung Sơn nhậm chức Tổng Thống lâm thời tại Nam Kinh. Tháng hai, vua Tuyên Thống tuyên bố thoái vị. Nhà Mãn Thanh mất. Tham nghị viện đồng cử Viên Thế Khải nhậm chức phó tổng thống lâm thời. Tỉnh trưởng tỉnh Tây Xuyên, Duẩn Xương Hành, định đem quân vào Tây Tạng.)
Hòa Thượng Hư Vân: Dân Quốc năm thứ 2, 74 tuổi. (1913/14)
Vừa thành lập chi hội Phật giáo miền Vân Nam-Tây Tạng, liền ghi nhận tất cả tài sản chùa chiền tự viện trong vùng và dự trù hoạch định những chương trình mới. Những việc trên đòi hỏi phải tường trình với chính quyền địa phương. Có quan trưởng ty dân chánh là La Dong Hiên, thường gây rất nhiều trở ngại, khiến chúng tôi khó tiến hành, làm những việc đã được hoạch định.
Khi ấy, tỉnh trưởng Thái Tùng Ba thường đến hòa giải, nhưng không kết quả. Đức Phật sống cùng các hội đoàn địa phương thỉnh tôi đi Bắc Kinh mang việc này trình lên chính quyền trung ương. Gặp quan tổng lý nội các, Hùng Hi Linh, trợ giúp rất nhiều, lại thuyên chuyển La Dong Hiên trở về Bắc Kinh. Nhậm Khả Đăng được đưa về làm dân biểu. Tôi trở về Vân Nam. Họ Nhậm đối với những sự việc liên hệ đến Phật giáo đều tận tình giúp đỡ.
(Đại sự trong năm: Tháng mười, Viên Thế Khải cùng Lê Nguyên Hồng chánh thức được cử làm phó tổng thống.)
Hòa Thượng Hư Vân: Dân Quốc năm thứ 3, 75 tuổi. (1914/15)
Tỉnh trưởng Thái Tùng Ba được vời về Bắc Kinh. Tướng họ Đường được cử thay thế chức tỉnh trưởng.
Tôi muốn về lại núi Kê Túc hưu dưỡng, nên giao chức đại biểu chi hội Phật giáo lại cho các vị khác rồi trở về núi. Vừa về đến, tôi liền lo việc trùng tu chùa Hưng Vân, chùa La Thuyên tại Hạ Dương. Đốc thúc lo liệu công trình xây cất sửa chữa xong, chư sơn trưởng lão tại Hạc Khánh thỉnh tôi đến chùa Long Hoa giảng kinh. Hòa thượng Chánh Tu thỉnh tôi qua chùa Kim Sơn tại Lệ Giang giảng kinh.
Giảng xong, tôi ghé thăm động Thái Tử tại Tuyết Sơn, Duy Tân, Trung Điện, A Đôn Tử cùng các danh lam thắng cảnh khác. Lại đến vùng biên giới Trung-Tạng, tham quan ba mươi ngôi chùa Lạt Ma lớn nhỏ.
Năm đó, khi đang giảng kinh tại núi Long Hoa thì bốn huyện trong phủ Đại Lý bị nạn động đất rất kinh hồn. Nhà cửa, phòng xá, thành quách đều bị sập, duy trừ bảo tháp của chùa là không bị chi hết. Lúc chấn động, đất nứt ra, lửa cháy lan tràn, người người tranh nhau mà chạy thoát mạng, nhưng hầu như mỗi tấc đất đều rạn nứt, nên họ bị té lọt xuống. Muốn trèo lên khỏi thì đất liền khép lại, cắt đứt thân mình, chỉ thấy đầu người nằm la liệt trên đất. Bãi tha ma này như địa ngục lửa sôi trong kinh Phật, thật rất thê thảm, không dám nhìn xem.
*
Trong thành có khoảng một ngàn căn nhà, hầu hết đều bị nạn động đất, chỉ còn sót lại vài căn. Khi ấy, có một tiệm kim hoàn của hai gia đình: Một là họ Triệu, tên Vạn Xương Hiệu. Hai là họ Dương, tên là Thâm Nhiên Hiệu. Lửa cháy đến tiệm của họ lại dừng. Cửa tiệm chưa hề bị hư hoại vì nạn động đất. Trong mỗi gia đình, có trên mười người. Tất cả đều được bình an vô sự.
Vài người trong vùng biết đến hai gia đình này. Trãi qua bao đời, họ đều ăn chay niệm Phật. Đấy là những người lành thiện, mẫu mực mới tránh được những thiên tai hoạn nạn như thế. Tôi thật rất vui mừng.
(Đại sự trong năm: Đại chiến Ấu Châu bùng nổ.)
Hòa Thượng Hư Vân: Dân Quốc năm thứ 4, 76 tuổi. (1915/16)
Mùa xuân, sau kỳ truyền giới, tại huyện Đặng Châu, thân sĩ họ Đinh, là bậc học giả triều Thanh, có con gái tuổi khoảng mười tám, chưa lập gia đình. Ngày nọ, cô đột nhiên té xuống, bất tỉnh nhân sự. Toàn thể gia đình kinh hoàng sợ hãi, không biết phải làm gì. Lát sau, cô tỉnh dậy, nói giọng đàn ông, chỉ thẳng và mắng cha:
“Này tên họ Đinh! Mi cậy thế, vu oan cho ta là tướng cướp. Mi phải chịu trách nhiệm về cái chết của ta. Ta là người Tây Xuyên, phủ Đại Lý, họ Đổng. Ngươi có nhớ ra không? Hôm nay, ta cáo bạch trước điện Diêm Vương, trả mối thù tám năm về trước!”
Nói xong, cô ta lấy dao rượt họ Đinh. Họ Đinh sợ hãi, chạy trốn nơi khác, không dám về nhà. Mỗi ngày, quỷ đến một lần. Khi đến, liền nhập vào thân cô con gái, khiến điệu bộ cô trở nên rất hung hăng. Mọi người trong nhà đều lo buồn, lại làm liên lụy đến cả hàng xóm. Khổ thật!
Bấy giờ, trên núi Kê Túc có hai vị tăng là Biểu Cầm và Tố Chân đến huyện Đặng Châu, đi ngang qua nhà họ Đinh. Lúc ấy, quần chúng bu quanh nhà rất đông vì quỷ lại nhập vào thân cô gái và đang hiện tướng trạng hung dữ. Hai vị tăng này nói với quỷ: “Ngươi chớ nên làm dạng mạo như thế, khiến dân địa phương không được an ổn!”
Quỷ đáp: “Các thầy là người tu hành chớ có lắm chuyện!”
*
Tăng nói: “Vâng, dĩ nhiên là không phải chuyện của chúng tôi, nhưng vì thầy chúng tôi thường dạy rằng oan gia nên xả bỏ, chẳng nên kết thêm. Càng kết thì càng thâm sâu. Lúc nào mới giải quyết cho xong được?”
Quỷ ngừng chốc lát rồi nói: “Thầy của chư vị là ai?”
Tăng đáp: “Thầy chúng tôi là lão hòa thượng Hư Vân, trụ trì chùa Chúc Thánh.”
Quỷ nói: “Tôi cũng có nghe đến danh Ngài, nhưng chưa từng gặp mặt. Ngài có thể truyền giới cho tôi được không?”
Tăng đáp: “Đại từ đại bi, cứu độ tất cả khổ não! Sao Thầy chúng tôi không truyền giới cho ngươi được?”
Tăng lại khuyên quỷ nên bảo họ Đinh xuất tiền ra làm lễ siêu độ.
Quỷ nói: “Hắn giết người hại mạng. Tôi không muốn dùng tiền của hắn!”
Tăng đáp: “Như vậy, nếu người địa phương gom góp tiền lại, cầu siêu cho ngươi, để họ được sống an ổn. Vậy được không?”
Quỷ nói: “Thù này nếu không báo, tôi hận mãi không nguôi. Oán ân tương báo, làm sao giải hết? Để tôi xuống hỏi lại Diêm Vương coi. Ngày mai, chư vị hãy đến đây đợi tôi!”
*
Quỷ xuất ra. Cô gái liền tỉnh dậy, nhìn thấy mọi người bao vây xung quanh, mắc cở, bỏ chạy vào nhà. Hôm sau, quỷ đến sớm hơn hai vị tăng, nên trách móc rằng sao không giữ lời hứa đến đúng giờ. Tăng bảo rằng vì có công việc nên mới đến trể.
Quỷ nói: “Tôi đã hỏi qua Diêm Vương. Ngài trả lời rằng chùa Chúc Thánh là đạo tràng trang nghiêm, thanh tịnh, nên cho phép đi, nhưng chư vị phải đưa tôi đến đó.”
Hơn cả chục thân sĩ và dân chúng vùng địa phương cùng hai vị tăng đi đến chùa. Chiều đến, chúng tôi bàn việc giải quyết vấn đề. Hôm sau, chùa thiết đàn tụng kinh thuyết giới. Kể từ đó, gia đình họ Đinh được bình yên trở lại. Dân chúng, sĩ thứ huyện Đằng Châu thường cùng nhau đến chùa lễ bái.
(Đại sự trong năm: Tháng giêng, Nhật Bổn ép bức Trung Hoa thừa nhận hai mươi mốt điều ước. Tháng chạp, Viên Thế Khải tuyên bố đế chế, đổi hiệu là Hồng Hiến nguyên niên.)
Hòa Thượng Hư Vân: Dân Quốc năm thứ 5, 77 tuổi. (1916/17)
Từ lúc cư sĩ Cao Vạn Bang cúng dường tượng Ngọc Phật đến nay đã vài năm. Tôi trở lại Nam Dương để thỉnh tượng Phật về. Nghe có nhiều người dân thuộc sắc tộc khác Hán tộc tin tưởng Phật pháp, nên tôi đi qua tham quan các vùng đất của họ như Thường Đạt Miến, Oa Tán, Lạp Tán, rồi lại trở về Ngưỡng Quang lễ tháp Đại Kim, thăm Cao cư sĩ.
Tại chùa Long Hoa, giảng kinh xong, tôi đón tàu đi Tân Gia Ba. Tàu đến cảng Tân Nhai, một viên cảnh sát người Anh nói: “Hiện nay tại Trung Quốc, đại Tổng Thống đang thiết lập đế chế, ra lịnh bắt giữ tất cả những tên nổi loạn. Mọi người Hoa lục địa, qua đến đây, phải được kiểm soát chặt chẽ, rồi sau mới cho lên bờ.”
Vài trăm người được đưa đến ty cảnh sát tra hỏi. Sau đó, từ từ họ đều được thả ra hết, nhưng trù nhóm người chúng tôi, gồm có sáu vị tăng. Họ bảo rằng chúng tôi thuộc đảng cách mạng, nên giữ lại. Họ trói chúng tôi lại, rồi đánh đập, đem phơi nắng, không cho ăn uống, không cho đi đại tiểu tiện, không cho cử động, nếu nhúc nhích liền bị đánh; cứ như thế từ sáu giờ sáng cho đến tám giờ tối.
*
May thay, có đệ tử quy y của tôi là Hồng Thịnh Dương và ông quản lý họ Đổng, nghe biết tình cảnh của chúng tôi, nên đến ty cảnh sát bảo lảnh, nhưng phải đóng tiền thế chân là năm ngàn đồng cho mỗi người, rồi mới được thả ra. Sau đó, chúng tôi được đưa về thương hiệu Thịnh Dương, lưu trú qua năm mới. Hai vị cư sĩ này cũng giúp tôi việc mang tượng Ngọc Phật về nước.
(Đại sự trong năm: Viên Thế Khải mất. Lê Nguyên Hồng lên nhậm chức Tổng Thống.)
Hòa Thượng Hư Vân: Dân Quốc năm thứ 6, 78 tuổi. (1917/18)
Mùa xuân, từ đình Quán Ấm, tôi vận chuyển tượng Phật về nước, mướn tám người phụ giúp mang về núi Kê Túc. Tiền mướn họ khoảng cả ngàn đồng. Đoàn chúng tôi phải đi qua các vùng đồi núi hẻo lánh, cheo leo chập chùng, chưa từng có dấu chân người. Đi như thế cả vài mươi ngày.
Ngày nọ, lúc đến núi Dã Nhân, những người khuân vác nghi rằng trong tượng Ngọc Phật có vàng bạc châu báu hay ngân phiếu, nên họ đặt tượng Phật xuống, nói rằng không còn sức để khiêng tượng Phật nữa, lại đòi trả tiền thêm tiền công. Tôi cố an ủi, nhưng họ càng làm ồn ào, hung tợn thêm. Biết không còn cách nào để làm cho họ dịu xuống, nhìn bên đường thấy tảng đá to, nặng khoảng vài trăm cân, tôi bảo bọn họ: “Tảng đá này cùng tượng Phật, vật nào nặng hơn?”
Họ đáp: “Chắc chắn là tảng đá nặng hơn tượng Phật hai ba lần.”
Tôi liền dùng hai tay nâng tảng đá lên cả thước. Bọn họ trố mắt thè lưỡi và nói: “Lão Hòa Thượng này thật là Phật sống!”
Từ đó, họ không còn dám nói năng chi hết, khiêng tượng Ngọc Phật đi thẳng về núi. Đến núi, tôi cũng thưởng thêm tiền cho họ. Tôi tự biết sức mình không thể nâng nỗi tảng đá đó, mà thật ra chỉ nhờ thần lực của Long Thần hộ pháp thôi.
Sau đó tôi đi Đằng Xung, Bảo Sơn giảng kinh tại các chùa viện.
Hiếu viết
Nam mô A Di Đà Phật. Lão Hòa Thượng Hư Vân đúng là hóa thân của Bồ tát.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Thường những khi gặp chướng ngại tôi lại đọc hồi ký của Ngài, xem việc ấy như nạp thêm năng lượng cho mình. Hai cuốn tự truyện của Hòa Thượng Hư Vân và Hòa Thượng Tuyên Hóa, đọc đi đọc lại vẫn không thấy chán mỏi!