Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 11, 46 tuổi. (1885/86)
Mùa xuân, tôi rời chùa Hương Sơn, đi về hướng tây, đến ải quan Đại Khánh, vào đất Xiểm Tây, qua Diệu Châu, Tam Nguyên, tới Hàm Dương xem cây cổ thụ Cam Đường của Triệu Bá; thăm đất Trường An nơi tường thành hùng vĩ, vẫn còn nhiều di tích lịch sử. Phía đông bắc ngoài thành có chùa Từ Ấn, trong chùa có tháp Đại Nhạn được cất cao bảy từng, cùng bia đá đời nhà Đường và bia Cảnh Giáo Đại Tần.
Trước cung Phủ Học là một rừng bia đá, có hơn bảy trăm loại khác biệt. Phía đông của thành có cầu Ba Kiều, rộng khoảng bảy mươi hai thước, cũng có lâu trạm, nơi khách qua đường thường gặp mặt, hẹn hò. Sau khi dừng lại cửa ải Dương Quan, tôi đến chùa Hoa Ngiêm, lễ tháp hòa thượng Đỗ Thuận, tháp quốc sư Thanh Lương. Qua chùa Ngưu Đầu, Hưng Quốc lễ tháp pháp sư Huyền Trang.
*
Tiếp tục, đến núi Chung Nam phía đông Ngũ Đài, có chùa Bảo Tạng; Bạch Thủy Lương nơi sườn núi Hương Cổ, tại đây có hai vị thánh tăng ẩn tu. Tới động Ngân Đồng ở Gia Ngũ Đài, là chỗ ẩn tu của tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm. Sau đó, đến phía nam Ngũ Đài, gặp chư đại hòa thượng Giác Lãng, Trị Khai, Pháp Nhẫn, Thể An, Pháp Tánh, đang kết am tranh tọa thiền nơi đây. Chư vị giữ tôi ở lại.
Pháp Nhẫn trụ tại Lão Hổ Oa, Trị Khai ở Xả Long Xuân. Pháp Tánh trú tại động Tương Tử. Tôi cùng Giác Lãng đồng ở tại am tranh lớn. Sáng sớm mồng một tháng ba, nơi sau chánh điện, tôi chợt thấy chòm sao Thiên Chửu bay loạn xạ trên không trung, hồi lâu mới mất. Không biết đó là điềm gì.
(Đại sự trong năm: Chiến tranh Trung-Pháp bùng nổ. Việt Nam ký hòa ước cắt nước cho Pháp.)
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 13, 48 tuổi. (1887/89)
Trên hai năm, kết am tranh tại phía nam Ngũ Đài, cùng chư tăng tham cứu tu hành, được lợi ích rất nhiều. Tháng hai, xuống núi, đến lễ chùa Hoàng Dụ tại núi Thúy Vi; lại qua chùa Tịnh Nghiệp tại núi Hậu An lễ tháp Tuyên Tổ thuộc phái Luật Tông, và đến chùa Thảo Đường lễ đạo tràng của pháp sư Cưu Ma La Thập.
Kế, đến núi Thái Bá, cao cả một trăm lẻ tám dặm, tuyết vẫn chưa tan trong mùa hè. Lại qua chùa Nhị Bản, Đại Bản; lên đỉnh Hoa Trì nơi có mạch nước phân thành bốn dòng; đến trấn Tử Ngưu, qua phủ Hán Trung nơi Hán Cao Tổ lạy tướng mình. Tới miếu Chư Cát tại Bao Thành, thăm đèn vạn năm của Trương Phi, cùng các danh lam thắng cảnh khác.
*
Đi xa, vượt Long Động Bối, ải quan Thiên Hùng, tiểu Nga Mi, ải quan Kiếm Môn, chùa Bát Bồng, ải quan Bạch Mã, thăm mộ phần vua Bàng Thống, miếu Văn Xương tại huyện Tử Đồng tỉnh Tây Xuyên. Trên đường, đi qua núi Thất Khúc, suối Cửu Khúc, ải Kiếm Môn nơi mà chót núi bị cắt làm đôi, hai vách đá thẳng như lưỡi kiếm.
Sử ghi rằng có một vị tướng quân giữ ải, đánh tan đạo quân cả mười ngàn người. Ở trên có thành Khương Duy, tức nơi đóng binh của Bá Ước thuở xưa. Cầu treo khó đi, như lên trời xanh. Thật lời của người xưa không hư dối. Đến Quảng Hán phía nam huyện Tân Bộ, tại chùa Bảo Quang nghỉ qua năm mới. Năm ấy, khi vào đất Tây Xuyên, đơn độc hành bộ, ba y một bát, chẳng chi phiền lụy, thanh thản an nhàn với cảnh non nước, khiến thân tâm lắng đọng.
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 14, 49 tuổi. (1888/89)
Tháng giêng, từ chùa Bảo Quang, khởi hành vào tỉnh Thành Đô, lễ chùa Chiêu Giác, viện Văn Thù, chùa Thảo Đường, cung Thanh Dương; qua Hoa Dương, Song Lưu, hướng về phía nam đến huyện Mi Sơn, huyện Hồng Nhã. Tới chân núi Nga Mi, từ chùa Phục Hổ, động Cửu Lão qua Sơn đảnh của núi Nga Mi lễ hương.
Đêm đến, thấy Phật quang; muôn ngàn đóm lửa sáng rực như một giải ngân hà trên trời. Thắng cảnh như thế, tả không thể hết. Nơi chùa Bảo Quang, tham kiến lão hòa thượng Ứng Chân, rồi trú tại chùa mười ngày. Sau đó, qua chùa Vạn Niên, lễ điện Phật Tỳ Lô Xá Na. Xuống núi, đến Nhã Châu, qua huyện Huỳnh Kinh, vào Lô Định. Tới đây là biên giới của tỉnh Tây Xuyên.
Tháng năm, băng qua sông Lô. Trong huyện Nhã An có sông Đại Độ rộng cả ba dặm; bắc ngang sông là cầu dây Lô Định. Người đi trên cầu này phải rất cẩn thận vì cầu thường đong đưa lắc lư. Đi về hướng tây, qua Đả Tiến Lô, Lý Đường, Ba Đường. Lên phía bắc, đến Sát Mộc Đa tức Xương Đô. Qua hướng tây tới Thạc Đốc; đi ngang A Lan Đa và Lạp Lý.
*
Nơi đây đất rộng người thưa, đủ chủng tộc như người Hoa, Tây Tạng, Mông Cổ, v.v… Ngôn ngữ khác biệt, Người biết tiếng Hoa chỉ vài ba trăm. Tại Lý Đường có ngọn núi thần Công Cát là vùng đất thánh của Phật tử người Tây Tạng. Ba Đường là vùng núi cao hiểm trở. Sát Mộc Đa có nhiều sông ngòi. Các chủng tộc phần lớn theo Lạt Ma Giáo. Từ Lạp Lý đi về hướng nam đến Giang Đạt; vượt qua vùng này tức đến biên giới Tây Tạng.
Tôi vào đất Tây Tạng, đến Điểu Tô Giang, băng ngang sông Lạp Tát, tức đến thủ đô Lạp Tát; đây là trung tâm hành chánh và tôn giáo của toàn nước Tây Tạng. Phía tây bắc là núi Đạt Bố Lạp, có cung Đạt Bố Lạp, cao ba mươi tầng; chánh điện và mái ngói rất trang nghiêm. Đá thạch chạm vàng trông chóa mắt, là nơi mà đức Phật sống Đạt Lai Lạt Ma thường ngồi thuyết pháp. Vây quanh là hai mươi ngàn vị Lạt Ma.
*
Vùng phụ cận có ba ngôi chùa lớn như Cát Nhĩ Bàn, Biệt Bạng, Sắc Lạp, cũng có hơn ngàn vị Lạt Ma. Vì ngôn ngũ không thông, khi đến các chùa, tôi chỉ dâng hương cùng lễ đức Phật sống thôi.
Lại đi về hướng tây, qua Cung Cát, Giang Tử, đến Nhật Khách Đáo; phía tây có chùa Gia Thập Luân Bố, kiến trúc đồ sộ hùng vĩ mỹ lệ, rộng cả mấy dặm, là trung tâm hành chánh và tôn giáo thứ nhì của Tây Tạng, do vị Ban Thiền Hoạt Phật lãnh đạo, cũng có bốn năm ngàn vị Lạt Ma thường vây quanh.
Từ Tây Xuyên vào đất Tây Tạng, đi cả một năm; mặt trời lên thì đi, mặt trời lặn thì dừng; leo núi băng sông, lắm khi cả mấy ngày mà chẳng gặp một bóng người; chim thú khác lạ, phong tục danh xưng rất dị kỳ; tăng sĩ không giữ giới luật, ăn thịt bò thịt dê, y áo đạo phục tông mũ đỏ mũ vàng khác biệt; chợt nhớ lại pháp hội tại Kỳ Viên Tịnh Xá lúc Phật còn tại thế mà rưng rưng nước mắt.
Cuối năm ấy ở lại Tây Tạng qua năm mới.
Hòa Thượng Hư Vân: Quang Tự năm thứ 15, 50 tuổi. (1889/90)
Tôi không muốn ở lại Tây Tạng. Xuân đến, đi về hướng nam, qua Lạp Cát, Á Đông, là quan ải lớn nhất giữa Tây Tạng và Ần Độ. Tới nước Bất Ban, vượt bao núi cao vách đứng, không biết tên chi, hoặc gọi là Thông Lĩnh hay Tuyết Sơn. Đến thành Dương Bộ, lễ bái thánh tích Phật đà, rồi tới hải cảng Mãnh Gia Lạp.
Vượt biển đi Tích Lan, lễ bái các thánh tích xong liền dùng thuyền đến Miến Điện, triều bái tháp Đại Kim; qua Ma La Điện Cát Xá Lợi; nơi đây có một tảng đá lớn kỳ dị, gọi là chỗ ngồi của tôn giả Đại Mục Kiền Liên, có rất nhiều người đến lễ bái. Tháng bảy, khởi hành trở về nước. Từ Lạp Thức qua ải Hán Long, tức vào Vân Nam. Vượt qua Miễn Ninh, Long Lăng, Cảnh Đông, Mộng Hóa, Triều Châu, Hạ Quan, đến Đại Lý, xem hồ bạc Nhĩ Hải, tiếng sóng vang xa cả vài dặm, thật là nơi rất lạ kỳ.
Nguyện đầu tiên khi trở về nước là đi tham bái núi Kê Túc, nơi tôn giả Ma Ha Ca Diếp đang nhập định đợi Phật Di Lặc ra đời. Băng qua hồ Nhĩ Hải, hướng phía đông bắc mà đi, đến Hoán Sắc, Bá Đam, Bình Sa, Sơn Giác, miếu của An Bang Đại Vương; tới Linh Sơn nhất hội phường tức núi Kê Túc. Giữa núi là đất Ô Ca.
Hòa Thượng Hư Vân: Triều bái Ma Ha Ca Diếp Tôn giả
Tương truyền lúc tôn giả Ca Diếp vào núi, có bảy vị vua đi theo hộ tống, không đành lòng trở về, ở tại đây tu hành, thành thần hộ pháp, tức miếu Đại Vương. Tôi đi thẳng lên chánh điện của núi; trong ngôi chánh điện có thờ tôn tượng tôn giả Ca Diếp. Tương truyền, khi tôn giả A Nan đến lễ bái thì cửa đá tự nhiên mở. Thánh cảnh trang nghiêm huyền diệu. Thạch đá tự biến thành cửa đá gọi là cửa Hoa Thủ. Ngài Ma Ha Ca Diếp đang nhập định bên trong.
Cửa đá lớn tựa như cửa thành, cao cả vài trăm thước, rộng hơn trăm thước. Hai cánh cửa đều đóng nhưng đường lằn giữa hai cửa hiện rõ ràng. Hôm ấy, du khách cùng người địa phương dẫn đường đến rất nhiều. Lúc tôi dâng hương lễ bái, tự nhiên nghe âm thanh của ba tiếng đại hồng chung;
Người địa phương đều vui mừng lễ bái theo và nói: “Hể mỗi lần có bậc dị nhân đến thì đều nghe tiếng chuông trống, mõ khánh vang lên. Chúng tôi đã từng nghe tiếng khánh mõ, mà chưa từng nghe tiếng đại hồng chung. Nay Sư Phụ đến đây lễ bái lại nghe tiếng đại hồng chung, chắc đạo hạnh của Ngài cao lắm.”
Tôi cảm tạ không dám nhận lời tán tụng ấy. Khi ấy là ngày ba mươi tháng bảy. Lại lên đỉnh núi Thiên Trụ. Đây là nơi cao nhất của toàn núi.
Hòa Thượng Hư Vân: Đạo hạnh cảm ứng quỷ thần
Từ đỉnh xuống chân núi, dài khoảng ba mươi dặm. Trên đỉnh có ngôi điện bằng đồng cùng một tòa tháp Lăng Nghiêm. Theo gia phả của núi thì toàn núi có ba trăm sáu mươi am, bảy mươi hai ngôi chùa lớn. Nay, toàn núi chỉ còn lại dưới mười ngôi. Kẻ tu hành cùng người thế tục sống lẫn lộn không phân biệt. Con cháu nối tiếp thừa hưởng sản nghiệp. Đâu đâu cũng thế, không cho khách tăng ở lại trên núi, dầu chỉ trong một thời gian ngắn.
Nhớ xưa kia các pháp hội đều hưng thịnh; nay thì thế nhân suy đồi, thật rất đau lòng; tâm muốn trùng hưng lại đạo tràng này, nhưng không biết có đủ cơ duyên chăng!
Từ núi Lương Vương, Cửu Phong, đến huyện Vân Nam, qua núi Thủy Mục, Linh Thứu núi Tử Khê, tới phủ Sở Hùng, trú tại chùa Cao Đỉnh. Lúc vừa mới đến chùa, nghe mùi hương hoa lan bay khắp cả; vị tăng tri sự chúc mừng: “Thượng Tọa đến, vị thần hoa lan phóng ra hương thơm, thật là kỳ diệu. Trong gia phả của phủ viết rằng có vị thần hoa lan, vô hình dạng, nếu có cao tăng chân nhân đến thì phóng tỏa hương thơm. Nay mùi hương hoa lan bay đầy khắp núi, chắc là do âm đức của Thượng Tọa cảm nên vậy.”
*
Sau đó, tôi được tăng tri sự ân cần chiêu đãi, cố giữ ở lại lâu. Vì tôi muốn trở về Hồ Nam gấp nên khước từ lời mời, chỉ ở lại qua một đêm rồi đi ngay…Đến Võ Xương, Hồ Bắc, lễ hòa thượng Chí Ma tại chùa Bảo Thông; học đại bi sám pháp tại chùa xong, liền đi Cửu Giang, vào Lô Sơn, lễ hòa thượng Chí Thiện tại chùa Hải Hội; tham gia pháp hội niệm Phật. Sau đó, ghé tỉnh An Huy, thăm núi Hoàng Sơn, tới núi Cửu Hoa lễ tháp Địa Tạng Bồ Tát.
Đến cung Bá Niên, lễ Bảo Ngộ hòa thượng. Ngài là một vị đại lão hòa thượng, giới hạnh tinh nghiêm, định lực bậc nhất. Băng qua sông, đến núi Bảo Hoa, lễ hòa thượng Thánh Tánh; lưu trú lại đây qua năm mới.
Trong hai năm, thân hành vạn lý, mọi thời đều đi bộ, chỉ trừ những lúc dùng thuyền vượt biển. Trèo núi băng sông, tuyết sương mưa gió, núi cao đồng vắng, chim thú lạ lùng, phong cảnh thay đổi ngày ngày. Tâm tịnh như trăng tròn lơ lững; thể lực tăng cường, bước đi lẹ làng, không thấy mệt nhọc, chỉ nhớ lại những tội phóng dật của mình lúc trước.
Người xưa bảo rằng đọc xong mười ngàn quyển sách, phải nên đi mười ngàn dặm. Thật rất đúng!
Hiếu viết
Nam mô A Di Đà Phật. Lão Hòa Thượng Hư Vân đúng là hóa thân của Bồ tát.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Thường những khi gặp chướng ngại tôi lại đọc hồi ký của Ngài, xem việc ấy như nạp thêm năng lượng cho mình. Hai cuốn tự truyện của Hòa Thượng Hư Vân và Hòa Thượng Tuyên Hóa, đọc đi đọc lại vẫn không thấy chán mỏi!