• Trang chủ
  • Kiến thức
    • Kinh Sách Phật Pháp
    • Bản Nguyện Niệm Phật
    • Nhân Quả Báo Ứng
    • Phật Pháp & Cuộc Sống
    • Góc Tu Tại Gia
  • Tải PDF
  • Bố thí & Cúng dường
  • Ấn Tống Kinh Tượng Phật
    • Phật Pháp
  • Giới Thiệu & Liên hệ
    • Bảo mật Thông tin
  • 0 - 0 ₫

kinhnghiemhocphat.com

Tuệ Tâm - Bản nguyện Niệm Phật Vãng Sanh

Trang chủ » Kinh Sách Phật Pháp » Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật

Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật

18/11/2021 18/11/2021 Tuệ Tâm 2 Bình luận

Kinh Di Lặc Hạ Sanh là bản kinh đức Phật thuyết về lúc đức Bồ Tát Di Lặc thành Phật, hiệu là Từ Thị Như Lai. Theo Phật Học Tinh Yếu: “Ðức Thích Ca ra đời lúc nhơn thọ còn 100 tuổi. Qua mỗi trăm năm thọ số con người bớt xuống 1 tuổi, giảm đến khi nhơn thọ còn 10 tuổi rồi lại tăng lần đến lúc 84.000 tuổi là mãn tiểu kiếp thứ chín của trụ kiếp. Sang tiểu kiếp thứ mười, lúc nhơn thọ từ 84.000 tuổi giảm còn 80.000 tuổi, Ðức Phật Di Lặc mới ra đời.

Từ khi Phật Thích Ca niết bàn đến nay đã được 2.508, ta tạm kể chẵn là 2.500 năm, mức sống con người hiện thời 75 tuổi là thượng thọ. Lấy mức nhơn thọ 75 tuổi kể theo số niên kiếp tăng giảm, thì từ đây đến lúc Ðức Phật Di Lặc ra đời còn 8.805.500 năm nữa. Lúc Ðức Phật Di Lặc thành chánh giác, Ngài ngồi nơi một gốc đại thọ, cành cây như mình rồng, hoa nở tủa ra bốn bên như những đầu rồng, nên gọi cây nầy là Long Hoa bồ đề. Sau khi thành đạo quả, Phật Di Lặc cũng ngồi nơi đây mà thuyết pháp, nên lại có danh từ Long Hoa pháp hội.

  • 10 Chuyện Tâm Linh có thật.
  • Sự Thật về Cầu Cơ.
  • Sự thật về Đồng Bóng
  • Kinh Hoa Nghiêm Trọn Bộ.
  • Hội Long Hoa là gì.
  • Cách tụng kinh tại nhà.
  • Kinh Phật đảnh tôn thắng Đà Ra Ni.
Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật
Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật
*

Gần đây, có nhiều thuyết tuyên truyền nói không bao lâu hội Long Hoa sẽ mở, Ðức Di Lặc sẽ ra đời giáo hóa chúng sanh. Có người lại quả quyết rằng: độ chừng 40 năm nữa, sẽ có hội Long Hoa mở ra tại núi Cấm. Chẳng những ở Việt Nam, mà thời gian trước tại Trung Hoa cũng có thuyết ấy.

Đó là do những người của các giáo phái khác không tham khảo chính xác về đạo Phật, nghe nói hội Long Hoa rồi phụ họa theo mà tuyên truyền, nếu có người thử hỏi ý nghĩa của hai chữ Long Hoa, không chừng họ chẳng hiểu nữa là khác! Cũng có giáo phái cố ý đem hội Long Hoa của đạo Phật làm của mình, nên mới sanh ra sự đồn đãi như trên. Xét ra họ được điểm tốt là khuyên mọi người cố gắng làm lành “để rồi gần đây sẽ gặp Di Lặc”. Nhưng cũng có điều lỗi lầm là đã vô tình hoặc cố ý làm sai lạc giáo thuyết trong kinh Phật.”

Nay bạn hãy ngồi ngay ngắn, giữ thân tâm thanh tịnh, để nghe đức Phật Thích Ca thuyết “Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật.”. Đây là cuốn kinh được Hòa Thượng Tâm Châu dịch từ bản hán văn theo lối văn tụng, để Phật tử dễ trì tụng.

Nghi Thức Tụng Kinh Di Lặc

*

Mật Niệm

( Thắp đèn đốt hương, toàn thể đúng ngay ngắn, chắp tay để ngang ngực, mật niệm)

Tịnh pháp giới chân ngôn

Úm lam sa ha (3 lần)

Lục tự đại minh chân ngôn

Úm ma ni bát di hồng (3 lần)

(Vị chủ lể quỳ thẳng, cầm 3 cây hương, dâng ngang trán, đọc bài nguyện hương)

 Nguyện Hương

Nguyện đem lòng thành kính,

Gởi theo đám mây hương.

Phảng phất khắp mười phương’

Cúng dường ngôi Tam bảo.

Thề trọn đời giữ đạo,

Theo tự tánh làm lành.

Cùng pháp giới chúng sinh,

Cầu Phật từ gia hộ:

Tâm Bồ đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ giác.

Kỳ Nguyện 

Nay ngày khánh hỷ, đệ tử chúng con, đứng trước Phật đài, chí thành đỉnh lễ, trì tụng kinh chú, xưng tán Từ tôn, kính mong mười phương Tam bảo, Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa giáo chủ Di Lặc Tôn Phật, Cực Lạc Giáo Chủ A Di Đà Phật, Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Chư Tôn Bồ tát, Chư Hiền Thánh Tăng, từ bi gia hộ:

Đệ tử chúng con thân tâm thanh thái, nghiệp chướng tiêu trừ, thường được an lành, xa lìa khổ ách. Tâm bồ đề kiên cố, chí tu học vững vàng. Tự giác, giác tha, giác hành viên mãn. Phật pháp trường tồn, tuệ đăng thường chiếu, thế giới thanh bình chúng sinh an lạc. Bốn sinh đều lợi, ba cõi cùng nhờ. Pháp giới chúng sinh, cùng thành Phật đạo.

Tán Phật

Đấng Pháp Vương vô thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng.

Thầy dạy khắp trời người

Cha lành chung bốn loại.

Quy y trọn một niệm

Dứt sạch nghiệp ba kỳ.

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận.

Quán Tưởng

Phật chúng sinh tánh thường rỗng lặng

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn

Lưới đế châu ví đạo tràng

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

Đảnh Lễ

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn pháp, hiền thánh tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Sa bà Giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa giáo chủ, đương lai hạ sanh Di Lặc tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lỵ Bồ tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ tát, Đạo tràng hội thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ tát. (1 lạy)

Trì Tụng

Cành dương nước tịnh

Rưới khắp tam thiên.

Tính không tám đức

Lợi lạc nhân thiên.

Thấm nhuần pháp giới

Tịnh nghiệp tăng diên.

Phúc sinh tội diệt

Lửa hóa hồng liên.

Nam mô Thanh Lương Địa Bồ tát ma ha tát (3 lần)

Tụng Chú Đại Bi

Nam Mô Đại Bi Hội thượng Phật Bồ tát (3 lần)

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni

  1. Nam mô hắc ra đát na, đá ra dạ da.
  2. Nam mô a rị da
  3. Bà lô Yết đế thước bát ra da
  4. Bồ đề tát đỏa bà da.
  5. Ma ha tát đỏa bà da
  6. Ma ha ca lô ni ca da.
  7. Án
  8. Tát bàn ra phạt duệ
  9. Số đát na đát tỏa.
  10. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da
  11. Bà lô Yết đế, thất Phật ra lăng đà bà.
  12. Nam mô na ra cẩn trì
  13. Hê rị, ma ha bàn đa sa mế
  14. Tát bà a tha đậu du bằng
  15. A thệ dựng.
  16. Tát bà tát đa, na ma bà tát đa, na ma bà đà
  17. Ma phạt đặc đậu
  18. Đát điệt tha, Án
  19. A bà lô hê
  20. Lô ca đế
  21. Ca ra đế.
  22. Di hê rị
  23. Ma ha bồ đề tát đỏa
  24. Tát bà tát bà
  25. Ma ra ma ra
  26. Ma hê ma hê, rị đà dựng.
  27. Câu lô câu lô kiết mông
  28. Độ lô độ lô phạt xà da đế
  29. Ma ha phạt xà da đế.
  30. Đà ra đà ra
  31. Địa rị ni
  32. Thất Phật ra da
  33. Giá ra giá ra.
  34. Ma mạ phạt ma ra
  35. Mục đế lệ
  36. Y hê y hê
  37. Thất na thất na.
  38. A ra sâm Phật ra xá lợi
  39. Phạt sa phạt sâm
  40. Phật ra xá da.
    *
  41. Hô lô hô lô ma ra
  42. Hô lô hô lô hê rị
  43. Ta ra ta ra.
  44. Tất rị tất rị
  45. Tô rô tô rô
  46. Bồ đề dạ, bồ đề dạ.
  47. Bồ đà dạ, bồ đà dạ
  48. Di đế rị dạ
  49. Na ra cẩn trì
  50. Địa rị sắt ni na.
  51. Ba dạ ma na
  52. Ta bà ha
  53. Tất đà dạ
  54. Ta bà ha.
  55. Ma ha tất đà dạ
  56. Ta bà ha.
  57. Tất đà du nghệ
  58. Thất bàn ra dạ
  59. Ta bà ha.
  60. Na ra cẩn trì
  61. Ta bà ha.
  62. Ma ra na ra
  63. Ta bà ha.
  64. Tất ra tăng a mục khư da
  65. Ta bà ha.
  66. Ta bà ma ha, a tất đà dạ
  67. Ta bà ha.
  68. Giả kiết ra a tất đà dạ
  69. Ta bà ha.
  70. Ba đà ma kiết tất đà dạ
  71. Ta bà ha.
  72. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ
  73. Ta bà ha.
  74. Ma bà rị thắng yết ra dạ
  75. Ta bà ha.
  76. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
  77. Nam mô a rị da
  78. Bà lô kiết đế
  79. Thước bàn ra dạ
  80. Ta bà ha.
  81. Án tất điện đô
  82. Mạn đa ra
  83. Bạt đà dạ.
  84. Ta bà ha.
Sám Nguyện 

Đệ tử kính lạy

Đức Phật Thích Ca

Phật A Di Đà.

Thập phương chư Phật

Vô lượng Phật Pháp

Cùng thánh hiền Tăng.

Đệ tử lâu đời lâu kiếp

Nghiệp chướng nặng nề

Tham giận kiêu căng

Si mê lầm lạc.

Ngày nay nhờ Phật

Biết sự lỗi lầm

Thành tâm sám hối

Thề tránh điều dữ

Nguyện làm điều lành.

Ngửa trông ơn Phật

Từ bi gia hộ

Thân không tật bệnh

Tâm không phiền não.

Hằng ngày an vui tu tập

Pháp Phật nhiệm mầu.

Để mau ra khỏi luân hồi

Minh tâm kiến tánh

Trí tuệ sáng suốt

Thần thông tự tại.

Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng

Cha mẹ anh em

Thân bằng quyến thuộc

Cùng tất cả chúng sinh

Đồng thành Phật đạo.

Tán Hương

Lò hương vừa đốt

Cõi Phật thơm lây

Chư Phật bốn biển đều xa hay.

Thấu tâm thành này

Chư Phật hiện thân ngay.

Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát ma ha tát ( 3 lần)

Chân ngôn sạch nghiệp khẩu

Tu rị, tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị, sa bà ha ( 3 lần)

Chân ngôn sạch nghiệp thân

Tu đa rị, tu đa rị, tu ma rị, sa bà ha ( 3 lần

Chân ngôn sạch ba nghiệp

Úm sa phạt bà phạ, truật đà sa phạ, đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám. ( 3 lần)

Chân ngôn an thổ địa

Nam mô tam mãn đá một đà nẫm, úm độ rô độ rô địa vĩ, sa bà ha. ( 3 lần)

Chân ngôn phổ cúng dường

Úm nga nga nẵng tam bà phạt phiệt nhật la hộc. ( 3 lần)

Phát Nguyện Tụng Kinh

Kính lạy tam giới tôn

Quy mệnh mười phương Phật

Con nay phát nguyện rộng

Trì tụng kinh Di Lặc.

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ ba đường.

Nếu ai thấy, nghe được

Đều phát lòng Bồ đề.

Khi hết báo thân này

Dự vào Long Hoa hội.

Nam mô Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật (3 lần)

Kệ Khai Kinh

Pháp Phật cao siêu rất nhiệm mầu

Nghìn muôn ức kiếp dễ hay đâu.

Con nay nghe thấy xin vâng giữ

Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. ( 3 lần)

Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ tát. ( 3 lần

PHẬT NÓI KINH DI LẶC HẠ SINH THÀNH PHẬT

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Nghĩa Tịnh

Việt dịch: Thích Tâm Châu

*

  1. Chính tôi được nghe, vào một thời kia, Thế tôn an trụ, trên núi Linh Thứu, thuộc thành Vương Xá. Ngài và một số, chúng Đại Tỳ Kheo, cùng ở nơi này[ii].
  2. Và khi bấy giờ, có bậc đại trí, là Xá Lợi Tử, là bậc pháp tướng, tối cao trong chúng, vì thương thế gian, liền từ tòa ngồi, khoan thai đứng dậy, trễ áo vai hữu, gối hữu quỳ đất, chấp tay cung kính, bạch Thế Tôn rằng: “Kính bạch Thế Tôn, Kính mong Thế Tôn, rủ lòng chấp thuận.”
  3. Đức Phật liền bảo, ông Xá Lợi Tử: “Tùy ông hỏi gì, Ta sẽ giảng giải.”
  4. Ngay lúc bấy giờ, ông Xá Lợi Tử, thỉnh vấn Thế Tôn, bằng lời kệ tụng:
    “Như kinh đã nói, Đại Sư thụ ký, vị Phật sau này, là ngài Từ Thị. Kính mong Thế Tôn, trùng tụng kinh ấy, và phân biệt rõ, uy đức thần thông, của ngài Từ Thị. Chúng con muốn nghe, về vấn đề ấy.”

    *
  5. Đức Phật từ ái, bảo Xá Lợi Tử: “Ông nên chí tâm, lắng nghe cho rõ, Ta sẽ vì ông, nói rộng về việc, Thế Tôn Từ Thị, trong đời sau này.”
  6. Với thế gian ấy, nước nơi biển cả, dần dần cạn đi, xuống đến hai nghìn, ba trăm do tuần,[iii] để lộ đất đai, của Chuyển Luân Vương. Nam thiện bộ châu, đất đai ngang dọc, hàng vạn do tuần, và khắp mọi nơi, đã có chúng sinh, an trụ trong đó, đều được sung mãn. Đất nước giàu thịnh, không có hình phạt, không có tai ách. Nam nữ nơi đây, do thiện nghiệp sinh. Đất không có gai, thuần cỏ xanh mềm. Chân bước lên trên, như trên bông mịn. Đất nước tự nhiên, mọc lên lúa hương, mùi vị thơm ngon, thảy đều đầy đủ. Tự nhiên các cây, hóa ra y phục, đủ để trang nghiêm. Mỗi cây cao độ ba vạn câu xa,[iv] hoa quả đầy dẫy.
    *
  7. Người trong nước ấy, sống tám vạn tuổi, không có tật khổ, không có phiền não, thường an vui. Đức tướng trang nghiêm, sắc lực viên mãn. Nhưng người ta lo, chỉ về ba việc, là lo thức ăn, lo sự suy yếu, lo sự tiện lợi. Về phần nữ giới, mãi năm trăm tuổi, mới kết hôn nhân. Khi người nào đó, muốn di tiện lợi, đất tự nứt ra, tiện lợi vào đó, đất liền khép lại. Khi sắp mệnh chung, tự mình đi đến, ngay nơi nghĩa trang,[v] thân hóa tại đó. Đô thành Luân Vương, là diệu Chàng tướng. Bề dọc đô thành, mười hai do tuần. Bề rộng của nó, là bảy do tuần. Dân cư trong thành, đều là những người, đã trồng nhân tốt. Thành có thắng đức, ai ở đều vui. Lâu đài các sở, ngăn ngừa kẻ địch, tất cả xây nên, đều bằng thất bảo[vi]. Khóa cùng các cửa, cũng dát châu báu. Hòa rãnh quanh thành, làm bằng ngọc quý. Hoa thơm lừng lẫy, chim đẹp liệng bay. Bảy hàng đa la,[vii] trồng quang tất cả. Và đều trang nghiêm, bằng các châu báu. Trên mỗi cây ấy, đều treo chuông khánh. Gió hiu hiu thổi, vào các cây báu, diễn ra những tiếng, êm dịu nhiệm mầu, như tấu bát âm,[viii] người nghe hoan hỷ. Nơi nào cũng có, ao hồ đẹp mắt, trong đó đầy rẫy, những hoa tạp sắc. Vườn rừng thơm đẹp, thành quách trang nghiêm.
    *
  8. Đất nước nầy có, một vị thánh chủ, tên là Hướng Khư, là Kim luân Vương, cai trị bốn châu, uy lực giầu thịnh. Phúc nghiệp nhà vua, mạnh mẽ vô song. Lại còn cả bốn, thứ loại hùng binh. Mọi thứ thành tựu, đều bằng thất bảo. Nhà vua còn có, một nghìn người con. Bốn biển thanh bình, không có chiến tranh. Chính pháp dạy dân, khuyên đều bình đẳng. Đất nước còn có, bốn kho tàng lớn. Trong mỗi kho tàng, có trăm vạn ức, những thứ trân bảo. Ở Yết Lăng Già, có một kho báu, là Băng Kiệt La. Ở Mật Hy La, có một kho báu, là Bát Trục Ca. Ở nơi Kiền Đà, có một kho báu, Y La bát La. Ở Bà La Tư, có một kho báu, tên là Hướng Khư. Bốn kho báu ấy, thuộc vua Hướng Khư. Do nương nhờ vào, bao phúc nghiệp trước, cho nên ngày nay, quả báo thành tựu.
  9. Nhà vua lại có, phụ quốc đại thần, dòng Bà La Môn, tên là Thiện Tịnh. Ông làm Quốc Sư, là bậc đa văn, hiểu suốt “ Tứ Minh”,[ix] thông các tạp luận, ham nghe ham học, khéo léo hành trì, lại khéo giáo hóa, và đến những môn, huấn giải thanh minh,[x] ” đều nghiên cứu cả. Và bà Tịnh Diệu, là vợ Thiện Tịnh, vóc dáng đoan nghiêm, ai trông thấy bà, cũng đều hoan hỷ.
    *
  10. Nay đức Từ Thị, từ trời Đâu Suất,[xi] mượn nơi Tịnh Diệu, mang bào thai người, cho thân sau cùng. Mang thai đại thánh, đầy đủ mười tháng. Một hôm tôn mẫu, của đức Từ thị, thăm vườn Diệu Hoa. Khi đến vườn này, bà không ngồi nằm, đứng vịn cây hoa, bỗng nhiên đản sinh, ra đức Từ Thị.
  11. Khi Từ Thị sinh, từ nơi nách phải, thân mẫu của Ngài, như ánh mặt trời, vượt khỏi mây mờ, phóng ra ánh sáng, chiếu khắp tất cả. Tuy mượn bào thai, nhưng không nhiễm xúc, những cảnh trần tục. Như hoa sen thơm, từ nước mọc lên.
  12. Khi ánh sáng chiếu, tràn lan ba cõi,[xii], tất cả mọi nơi, nơi nào cũng đều, kính ngưỡng ánh sáng, của đức Từ Thị. Và trong khi đản sinh, Đế Thích Thiên Chủ[xiii], tự nâng Bồ tát, và rất vui mừng, gặp Lưỡng Túc Tôn[xiv]. Trong thời gian ấy, tự nhiên Bồ tát, kinh hành bảy bước, trong mỗi bước đi, nở hoa sen báu.
  13. Khi ấy Từ Thị, quan sát mười phương, tuyên cáo chư thiên, và nhân chúng rằng: “ Đây thân tối hậu, đạt tới vô sinh, chứng nhập Niết bàn”.[xv]
  14. Sau giờ phút ấy, rồng phun thanh thủy, tắm thân Đại Bi, chư thiên rải hoa, rợp khắp hư không, chư thiên cầm lọng, che Đại Từ Tôn. Ai ai cũng đều, sinh tâm hy hữu, và đều thủ hộ, thân của Bồ tát.
    *
  15. Vú nuôi nâng niu, ẵm thân Bồ Tát. Thấy thân hiện rõ, 32 tướng tốt, đủ mọi ánh sáng. Bà liền trao Ngài, cho thân mẫu Ngài. Người trong hoàng cung, đem xe đến rước. Xe này trạm trổ, trang nghiêm châu báu. Mẹ con lên xe, chư thiên nâng đỡ. Nghìn thứ âm nhạc, trỗi khúc vui mừng, dẫn đạo về cung.
  16. Từ Thị vào thành, hoa trời tung rải. Ngày Ngài đản sinh, thể nữ mang thai, thân được an ổn, đều sinh con trai, thông minh trí tuệ. Tôn phụ Thiện tịnh, nhìn dung nhan con, đủ 32 tướng, tâm sinh hoan hỷ. Rồi ông xem tướng, biết con hai tướng: nếu ở thế gian, làm chuyển luân vương, và nếu xuất gia, thành bậc Chính Giác.
  17. Bồ Tát khôn lớn, thương xót chúng sinh. Chúng sinh ở trong, đau khổ hiểm nạn, và bị luân hồi, không lúc ngừng nghỉ. Thân Ngài sắc vàng, sáng tỏa rực rỡ. Âm thanh của Ngài, như tiếng phạm âm. Mắt Ngài ánh xanh, như hoa sen xanh. Chi thể của Ngài, tám mươi khủy tay, và tướng đoan nghiêm, như mặt trăng tròn.
  18. Đối với Bồ tát, mọi nghề đều giỏi, Lại khéo dạy bảo, những người theo học. Ngay đến trẻ nhỏ, xin theo học Ngài, số người đến cả, tám vạn bốn nghìn.
    *
  19. Vào thế gian ấy, Luân Vương Hướng Khư, dụng cờ bảy báu[xvi], cờ cao vào cỡ, khoảng bảy mươi tầm[xvii], và rộng vào khoảng, độ sáu mươi tầm. Dựng cờ xong rồi, vua phát xả tâm, cho Bà La Môn, lập hội vô già[xviii], làm việc bố thí, một cách bình đẳng.
  20. Trong thế gian nầy, các hàng Phạm Chí[xix], có đến nghìn người, được cờ báu nầy, tích tắc hư bể. Bồ tát thấy thế, Ngài tự niệm rằng, sự việc thế tục, đều như thế cả. Đều bị sinh tử, khổ đau ràng buộc. Do đó Ngài liền, nghĩ đến xuất ly. Mong đạo tịch diệt, bỏ tục xuất gia. Xuất gia chứng đạo, cứu vớt chúng sinh, ra khỏi luân hồi, sinh, già , bệnh, chết.
  21. Ngày đức Từ Tôn, hưng khởi đại nguyện, đã có số người, tám vạn bốn ngàn, sinh tâm yếm ly, tu theo phạm hạnh. Đêm mới phát tâm, xả tục xuất gia, Ngài đã chứng được, ngôi đẳng giác địa. Có cây Bồ đề, tên là Long Hoa, cao bốn do tuần, tươi tốt sum sê. Cành lá che rợp, tỏa ra bốn bên, sáu câu lô xá. Từ Thị đại bi, thành ngôi cháng giác, dưới gốc cây nầy.
    *
  22. Đối với loài người, Từ Thị đại bi, là bậc tối thắng, Ngài đủ tám thứ, âm thanh cõi Phạm[xx]. Thuyết pháp độ sinh, bỏ các phiền não. Khổ, nơi sinh khổ, tất cả trừ diệt. Tu tám chính đạo[xxi], lên bờ Niết Bàn. Ngài vì các hàng, thanh tín nam nữ, nói bốn chân đế[xxii]. Được nghe pháp rồi, dốc lòng vâng giữ.
  23. Trong vườn Diệu Hoa, chúng họp đông đảo. Đầy đủ quyến thuộc, hàng trăn do tuần. Hướng Khư Luân Vương, nghe pháp thâm diệu, bỏ hết trần lao, tâm thích xuất gia. Không tiếc thứ gì, trong nơi hoàng cung. Chỉ dốc một lòng, mong cầu xuất ly. Và cả quần chúng, tám vạn bốn nghìn, cũng đều theo vua, xuất gia tu đạo. Lại cả trẻ nhỏ, dòng Bà la môn, số đông ắt có, tám vạn bốn nghìn, nghe vua bỏ tục, cũng cầu xuất gia. Cả quan Chủ Tạng, tên là Thiện Tài, và nghìn quyến thuộc, cũng cầu xuất gia. Nàng Tỳ Xá Khư, bảo nữ trong cung, cùng những tùy tùng, tám vạn bốn nghìn, đều cầu xuất gia. Cho đến con số, trên trăm nghìn người, thiện nam, thiện nữ, nghe Phật nói pháp, cũng cầu xuất gia.
    *
  24. Ngài là một bực, Thánh chủ từ bi, được người và trời, cung kính tôn trọng. Quán tất cả tâm, của chúng sinh rồi, tuyên diễn pháp yếu. Ngài bảo đại chúng, các vị nên biết, với lòng từ bi, của Phật Thích Ca, đã dạy các vị, tu theo chính đạo, do đó các vị, sinh trong pháp tôi. Với nhân duyên trước, hoặc dùng hương hoa, tràng phan lọng tán, trang nghiêm đẹp đẽ, cúng dường Mâu Ni, nên được sinh vào, pháp hội của Tôi. Hoặc dùng các thứ, uất kim trầm thủy, các loại đất bùn, thơm tho sạch sẽ, dùng để xây cất, và để tô trát, cúng dường vào ngôi, tháp Phật Mâu Ni. Do nhân duyên ấy, sinh trong pháp Tôi. Quy y Phật , Pháp. Tăng, cung kính thân cận, tu mọi thiện hạnh, sẽ được sinh vào, pháp hội của Tôi. Hoặc trong Phật pháp, thọ trì học xứ, khéo giữ không phạm, sẽ được sinh vào, pháp hội của Tôi. Với tứ phương tăng, cúng áo, món ăn, cùng những thuốc tốt, sẽ được sinh vào, pháp hội của Tôi. Trong bốn kỳ chay, hoặc tháng thần thông[xxiii], thụ trì tám giới[xxiv], sẽ được sinh vào, pháp hội của Tôi. Hoặc dùng ba thông, như thần cảnh ký, và giới giáo thụ[xxv], giáo đạo Thanh Văn, diệt trừ phiền não, để được dự vào, pháp hội Long Hoa.
    *
  25. Hội đầu thuyết pháp, độ các Thanh Văn, khỏi phiền não chướng. Số người được độ, chín mươi sáu ức. Hội hai, thuyết pháp, độ các Thanh Văn, qua biển vô minh. Số người được độ, chín mươi bốn ức. Hội ba, thuyết pháp, độ các Thanh Văn, điều phục thiện tâm. Số người được độ, chín mươi hai ức.
  26. Ba lần chuyển pháp, nhân thiên thuần tịnh, đem chúng đệ tử, vào thành khuất thực. Vào Diệu Trành thành, đường xá nghiêm sạch. Trời cúng dường Phật, rải hoa mạn đà, các thiên chúng khác: Tứ vương, Phạm vương . . . , cúng dường hương hoa, quanh thân đại bi. Chư Thiên đức lớn, dâng y phục đẹp. Các vật cúng dường, của các chư thiên, phất phới thành ấp, tràn ngập đường xá. Mục đích các vị, cung kính chiêm ngưỡng, bậc đại y vương, ra đời hóa độ. Hương hoa diệu bảo, khắp chốn, khắp nơi, ai bước chân lên, như bước lên nệm, bông đâu-la-miên[xxvi]. Tràng phan âm nhạc, la liệt bên đường.
    *
  27. Vua trời Đế Thích, cùng chúng nhân thiên, tán thán công đức, bậc đại Từ Tôn: Nhất tâm kính lễ, bậc Thiên Thượng Tôn. Nhất tâm kính lễ, bậc Sĩ Trung Thắng[xxvii]. Lành thay Thế Tôn, thương xót thế gian. Có uy đức lớn, làm cho chúng ma, quy tâm đỉnh lễ, tán ngưỡng Đạo Sư. Thiên chúng Phạm vương, quyến thuộc vây quanh, dùng tiếng Phạm Âm, xiển dương diệu pháp.
  28. Trong thế giới này, nhiều A la hán, trừ bỏ lậu nghiệp, lìa hẳn phiền não. Nhân, Thiên, Long Thần, Càn Thát, Tu la, La sát, Dược Xoa. . . hoan hỷ cúng dường.
  29. Đại chúng khi ấy, dứt chướng, trừ hoặc, siêu việt sinh tử, tu hạnh thanh tịnh, đại chúng khi ấy, không ham của báu, vô ngã, ngã sở, tu hạnh thanh tịnh. Đại chúng khi ấy, xé lưới tham ái, tĩnh lự hoàn toàn, tu hạnh thanh tịnh. Đại chúng khi ấy, xé lưới tham ái, tĩnh lự hoàn toàn, tu hạnh thanh tịnh.
    *
  30. Thế Tôn Từ Thị, thương xót hữu tình, thuyết pháp độ sinh, trong sáu vạn năm, hóa trăm vạn ức, qua biện phiền não.
  31. Có duyên đều độ, rồi nhập Niết Bàn. Thế Tôn Từ Thị, sau nhập Niết Bàn, chính pháp còn lại, được sáu vạn năm.
  32. Ở trong pháp ta, thâm tâm tín thụ, trong ngày sau này, được gặp Từ Thị. Nếu người thông tuệ, nghe nói việc này, ai không vui mừng, mong gặp Từ Thị. Người cầu giải thoát, gặp hội Long Hoa, cúng dường Tam bảo. Đừng nên phóng dật.
  33. Bấy giờ Thế Tôn, vì Xá Lợi Tử, và cả đại chúng, nói và ghi nhận, sự việc sau này, của đức Từ Thị. sau đó lại bảo, ngài Xá Lợi Tử, nếu có thiện nam, và thiện nữ nào, nghe được pháp này, thụ trì đọc tụng, và vì người khác, diễn nói chính pháp, như nói, tu hành, cúng dường hương hoa, viết chép kinh quyển. . ., thì những người ấy, về đời sau này, quyết định sẽ được, gặp đức Từ Thị, và trong ba hội, nhờ ơn cứu độ.
  34. Khi đức Thế Tôn nói bài tụng rồi, ngài Xá Lợi Tử, và cả đại chúng, hoan hỷ tín thụ, đỉnh lể vâng làm.
*

(Kinh Di Lặc Hạ Sanh Thành Phật – Hết)

Ghi Chú:

[i] Kinh Di Lặc hạ Sinh Thành Phật là quyển kinh số 455, trong Đại Chính Tân Tu Đại tạng Kinh, Kinh này do ngài Nghĩa Tịnh dịch từ chữ Phạm ra chữ Hán.

Theo Đại tạng, kinh Di Lặc có 6 quyển:
– Phật thuyết Quán Di Lặc Bồ tát thượng sinh Đâu Suất thiên kinh,
– Phật thuyết Di Lặc Hạ Sinh kinh,
– Phật thuyết Di Lặc Hạ Sinh thành Phật kinh, do ngài Cưu Ma La thập dịch.
– Phật thuyết Di Lặc Hạ Sinh thành Phật kinh, do ngài Nghĩa Tịnh dịch.
– Phật thuyết Di Lặc đại thành Phật kinh,
– Phật thuyết Di Lặc lai thời kinh.

Nay tôi dịch quyển kinh do ngài Nghĩa Tịnh dịch từ chữ Hán sang Việt nhưng theo lối văn tụng, để chư Phật tử dễ trì tụng.

Đại ý kinh này đức Phật nói về sự giáng sinh và thành Phật tại cõi Sa Bà sau này của đức Phật Di Lặc, Di Lặc (Maitreya) tiếng phạm phiêm âm là Mai đế Lệ v.v.. Đây là tên họ của Ngài, Trung Hoa dịch nghĩa là Từ Thị, Ngài tên là A Dật Đa, Trung Hoa dịch nghĩa là “ Vô Năng Thắng”.

*

[ii] Đoạn văn trên nói về phần tựa, nói rõ 6 yếu tố chứng tín là: xác tính, người nghe, thời gian, chủ trì, nơi chốn và đại chúng nghe pháp. Còn đoạn văn từ số (2) trở xuống thuộc phần chính tông trong kinh.

[iii] Do tuần (yojana), còn phiên âm là Du Tuần, du xà na, du thiện na. Đây là thước đo của Ấn Độ xưa. Theo bộ Tây Vực Ký quyển 2, một do tuần là 40 dậm (lý), có chỗ nói là 30 dậm. Theo Tự điển Đoàn Trung Còn thì một dậm là 576 mét. Một Do tuần bằng 8 Câu lô xá (hay câu xá). Một câu xá là 500 cung. Một cung là 4 trửu ( trửu, chứ không phài chẩu). Trửu là khuỷu tay. Một trửu (khuỷu tay) là 24 đốt ngón tay.

[iv] xem nơi số 3.

[v] Nghĩa trang: trong kinh này, chữ Hán là Thi Lâm ( có nơi in lầm là Thị Lâm) “Thi” là xác chết, “Lâm” là rừng, tức nơi để xác người chết. Do đó tôi dịch là “ nghĩa trang” cho tiện.

[vi] Thất bảo: 7 thứ ngọc báu tức là kim, ngân, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não.

[vii] Da La (Tàrà) Đây là một loại cây ở Đông Ấn Độ. Theo bộ Tây Vực Ký thì cây này cao 780 thước (không rõ thước tây hay thước Trung Hoa xưa) , quả chín đỏ ăn được.

[viii] Bát âm: tám thứ âm thanh . Bộ Từ Hải cho biết bát âm là : Kim (vàng) , thạch (đá), thổ (đất) , cách (da thuộc), ty (tơ tằm), mộc (gỗ cây), bào (cây bàu), trúc (tre).

*

[ix] Tứ Minh: gọi chung 4 bộ sách Veda của Ấn Độ 1- Thọ minh (Rig Veda) 2- Tự minh (yajur-veda) 3- Bình minh (Sama-Veda) 4- Thuật minh ( Artharva-Veda).

[x] Huấn giải, Thanh minh: Đây nói về sự dạy dỗ, giảng giải (huấn giải). Còn thanh Minh tức ngôn ngữ, văn tự học, là một trong 5 môn học của Ấn Độ xưa gọi là ngũ minh.

[xi] Đâu Suất (Tushita): Một trong cõi trời thuộc Dục giới, Đâu Suất trung Hoa dịch nghĩa là :“ Tri túc, Hỷ túc, Diệu túc, Thượng túc”. Nội viện là nơi tu thanh tịnh của các bậc đã chứng thánh quả. Bồ tát Di Lặc đang thuyết pháp trên cung trời này. Sau này Ngài giáng sinh xuống nhân gian. Ngoại viện là nơi dành cho chư thiên được phúc báo, hưởng thụ, dục lạc.

[xii] Ba cõi: Cõi Dục, Cõi Sắc, Cõi Vô Sắc

[xiii] Đế Thích: Tiếng phạm, phiên âm đủ là Thích Ca Đề Hoàn Nhân Đà La (Sakra Devanam Indra). Thích Ca là tên họ, dịch nghĩa là “Năng” Đề Hoàn dịch nghĩa là “Thiên” trời. Nhân Đà La dịch nghĩa là Đế “Vua”. Tức là vị vua ở trên trời , dòng họ Thích Ca. Vua Đế Thích làm chủ cõi trời Dục giới thứ hai, là cõi trời Đao Lợi, Trung Hoa gọi là cõi trời thứ 33.

[xiv] Lưỡng túc tôn: Chỉ cho đức Phật , là bậc tôn kính, đầy đủ phước đức và trí tuệ.

[xv] Niết bàn: (nirvana): Trung Hoa dịch nghĩa là “ Diệt, Tịch diệt, Diệt độ, Vô vi, An Lạc, Giải thoát”. có nghĩa là vị tu hành đã diệt trừ hết những phiền não, ra khỏi cảnh rừng vô minh tăm tối

[xvi] Xem nơi số 6.

*

[xvii] Tầm: thứ thước đo, trong thời cổ Trung Hoa, theo bộ Từ Hải thì tám thước (xích) là một tầm.

[xviii] Vô già : nghĩa là không bị che mờ, ngăn cách, phân biệt. Đây là nói về tổ chức bố thí mốt cách bình đẳng, không phân biệt giai cấp hay thiên vị….

[xix] Phạm Chí tức là Bà la môn.

[xx] Phạm Âm: Âm thanh của cõi trời Phạm thiên thanh tịnh, nên ví âm thanh của Phật như phạm âm. Phật có 8 loại âm thanh:

1- Cực hảo âm: đức của Phật rộng lớn, nói lên khiến người nghe vào đạo.

2- Nhu nhuyễn âm: đúc của Phật từ bi, nói lên người nghe vui vẻ

3- Hòa thích âm: đức Phật dùng lý trung đạo, nói lên, đem lại sự điều hòa, thích hợp cho người nghe.

4- Tôn tuệ âm: đức của Phật là bậc tôn kính, người nghe tôn trọng, trí tuệ mở tỏ.

5- Bất nữ âm: đức của Phật ra khỏi thế dục, âm thanh của Phật nói lên, thiên ma ngoại đạo đều quy phục.

6- Bất ngộ âm: trí của Phật viên minh, soi tỏ không lầm, nói lên, người nghe bỏ tà kiến.

7- Thâm viễn âm: đức Phật chứng ngộ và đạt tới ngôi vị cao, Ngài nói lên, dù xa hay gần, lớn nhỏ, nghe được sẽ chứng được lý luận thâm.

8- Bất kiệt âm: đức Phật là bậc đã chứng được cực quả, hành nguyện của Ngài vô tận, nên âm thanh của Ngài nói ra thao thao vô tận, người nghe hiểu được chân nghĩa của lời nói và sẽ chứng được quả vị thường trụ vô tận

*

[xxi] Tám chính đạo: 8 con đường chân chính; chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm, chính định.

[xxii] Bốn chân đế: tức là Tứ đế; Khổ, Tập, Diệt , Đạo.

[xxiii] Tháng thần thông: Đây chỉ về ba tháng trai giới, tức tháng giêng, tháng 5, tháng 9. Trong 3 tháng ấy, chư thiên dùng thần túc thông, xem xét các nơi, nên chữ Hán gọi là “ Thần thông nguyệt, thần túc nguyệt, hay Thần biến nguyệt” .

[xxiv] Tám giới: Tức là bát quan trai giới: không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục, không nói dối, không uống rượu, không trang sức, không nghe hát, không ngồi giường cao, rộng đẹp, và không ăn phi thời.

[xxv] Ba thông: trong kinh Phật hay nói về “Tam minh” và “lục thông”, Tam minh : Túc mệnh minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh, Lục thông: Thần túc thông, Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mệnh thông, Lậu tận thông. Chính văn của bài kệ này viết: “ Hoặc dĩ tam chủng thông, thần cảnh, ký giáo thụ”. Văn kệ này quá thu gọn và coi như có hàm nghĩa khó luận bàn. Theo thiển kiến của chúng tôi, phỏng luận “thần cảnh” tức là thần túc thông, ký là nghi nhớ, có lẽ ám chỉ cho “ túc mệnh thông” chăng. Còn chữ “ giáo thụ” có nghĩa là dạy, trao, có lẽ là “thiên nhĩ thông” chăng ? (xin các bậc cao minh chỉ giáo).

[xxvi] Đâu la miên (Tùla): Một loại cây có bông, khi nở ra những lọn bông rất mềm.

[xxvii] Sĩ trung thắng: Đây là lời tôn xưng đức Phật là một bậc hay là một người hơn tất cả trong loài người.

5/5 - (3 bình chọn)
  • Chia sẻ lên Facebook
  • Chia sẻ lên Twitter
  • Chia sẻ lên LinkedIn

Bài viết liên quan

Tam Thừa Phật giáo là gì?
Nghi thức trì tụng Ngũ Bộ Chú
Nghi thức trì tụng Ngũ Bộ Chú
Tam Quy Ngũ Giới giảng giải
Tam Quy Ngũ Giới giảng giải

Chuyên mục: Kinh Sách Phật Pháp

Bài viết trước « Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Bồ Tát
Bài viết sau Kinh Đại Phước Đức »

Reader Interactions

Bình luận

    Để lại một bình luận Hủy

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

  1. Nguyễn viết

    14/10/2022 lúc 00:51

    Nam mô a di đà phật!
    Năm nay mình thấy rất nhiều vi nói nay đang thời cuối kỳ mat pháp tức Phật Di Lặc sẽ ha sanh
    Lại còn có người nói Đức Phật Di Lặc đả ha sanh rồi, và có những vi thay không còn niem phật A Di Đà nữa mà niem Phật Di Lặc
    Mình thấy thật xót xa,nghe đến đoạn bảo không còn niem phật A Di Đà nữa mình thấy thật buồn

    Bình luận
    • Tuệ Tâm viết

      14/10/2022 lúc 08:42

      Nam mô A Di Đà Phật!
      Bất kỳ đức Phật nào khi xuất thế cũng đều thị hiện tám tướng thành đạo. Lúc đản sanh thì tam giới xuất hiện vô số điềm lành. Đa phần người ta không biết những điều ấy nên bị hàng ngoại đạo và tà đạo lường gạt. Thời mạt pháp, đạo đời hỗn loạn, ma quỷ lộng hành, biết làm sao được!

      Bình luận

Sidebar chính

Phá mê & Sanh tín

Hiểu Luật Nhân Quả như thế nào là đùn với lời Phật dạy

Hiểu Luật Nhân Quả như thế nào là đúng với lời Phật dạy

25/11/2024 35 Bình luận

Hiểu Luật Nhân Quả như thế nào là đùn với lời Phật dạy

Đức Phật thuyết Pháp bằng ngôn ngữ gì

18/06/2024 15 Bình luận

Cách cúng đầu năm mới, cúng tất niên

Cách Cúng Đầu Năm Mới

01/12/2021 61 Bình luận

Niệm Phật Tông Yếu-Pháp Nhiên Thượng Nhân

Niệm Phật Tông Yếu – Pháp Nhiên Thượng Nhân

24/10/2021 37 Bình luận

Trùng Tang chỉ là trò lừa bịp

Trùng Tang: Là thật hay cú lừa xuyên thế kỷ nhân danh Tâm Linh

27/09/2021 27 Bình luận

Đồng bóng còn gọi là Đồng cốt

Sự thật về Đồng bóng

13/04/2021 20 Bình luận

Lời Phật dạy về Hiếu đạo

Lời Phật dạy về Hiếu đạo

06/04/2021 31 Bình luận

A La Hán

A La Hán và 18 La Hán là ai

16/01/2021 6 Bình luận

Phật tử tại gia

10 điều quan trọng Phật tử tại gia cần biết.

31/12/2020 13 Bình luận

Cách thay đổi vận mệnh

Cách thay đổi vận mệnh

11/03/2020 32 Bình luận

Bài viết nổi bật

Mang thai nen tung kinh dia tang

Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện

30/10/2020 742 Bình luận

Cách niệm Phật tại nhà

Cách niệm Phật tại nhà

09/04/2020 534 Bình luận

Cách giải nghiệp phá thai

Cách giải nghiệp Phá thai

22/05/2019 381 Bình luận

Nghi thức niệm Phật chuẩn nhất

Nghi thức niệm Phật chuẩn nhất – Pháp sư Huệ Tịnh soạn

12/08/2019 283 Bình luận

Chép hồng danh Phật

Chép Hồng Danh Phật – Công đức lớn, dễ thực hành

24/09/2021 186 Bình luận

Thủ dâm

Thủ dâm tác hại khôn lường

29/08/2019 161 Bình luận

Ấn Tống Kinh Tượng Phật

  • Máy niệm Phật đặt nghĩa trang Máy niệm Phật ngoài trời
    Được xếp hạng 5.00 5 sao
    0 ₫
  • Tượng Phật A Di Đà để trên xe Ô Tô Tượng Phật để xe Ô tô cực đẹp
    Được xếp hạng 5.00 5 sao
    0 ₫
  • Ấn Tống Kinh A Di Đà Kinh A Di Đà 0 ₫
  • Ấn Tống Tượng Phật A Di Đà Thờ Cúng Tại Nhà Tượng Phật A Di Đà Thân Vàng Tịnh Tông - 70 cm
    Được xếp hạng 4.90 5 sao
    0 ₫
  • Ấn Tống Kinh Vô Lượng Thọ Phật Kinh Vô Lượng Thọ
    Được xếp hạng 5.00 5 sao
    0 ₫

Bản quyền © 2025 · Kinh Nghiệm Học Phật