Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn Đà Ra Ni là bản chú ngắn, được trích từ “Ðại phương đẳng Ðà La Ni Kinh”. Đây là một trong thập chú công phu của Thiền Môn. Sở dĩ có chú này là bởi đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát vì thương thời mạt pháp, khi: “Các Tỳ Kheo sẽ hủy phạm bốn giới trọng và các Tỳ Kheo Ni sẽ phạm tám giới trọng.”
Ngài cầu xin Phật khai thị điều ngài hỏi rằng: “Với chỗ phạm trọng tội, phải sám hối bằng cách nào?”
Bấy giờ đức Như Lai liền nói lại: Bài chú dưới đây là Chơn ngôn của bảy đức Phật đã nói từ những đời quá khứ. Thần chú nầy nó hay diệt được các tội tứ trọng, ngũ nghịch và sẽ được vô lượng phước, nếu thành tâm thường tụng.
- Chú Như Ý Bảo Luân Vương Đà Ra Ni.
- Chú Đại Bi Tâm Đà Ra Ni.
- Chú Lăng Nghiêm.
- Chú Chuẩn Đề.
- Chú Dược Sư.
- Lục Tự Đại Minh Thần Chú.
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm.
Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn Đà Ra Ni
- Ly bà ly bà đế,
- Cầu ha cầu ha đế,
- Đà la ni đế.
- Ni ha ra đế,
- Tỳ lê nễ đế,
- Ma ha già đế,
- Chơn lăng càng đế, ta bà ha.
So sánh các bản Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn
Theo Nhị Khóa Hiệp Giải:” Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn này, đối ới những tội tứ trọng ngũ nghịch, nếu phi sám hối bằng pháp vô sanh, thì không thể dứt tội được! Thần chú nầy chính là do cả bảy đức Phật đều đã thuyết ra đúng chơn tánh; người tu tụng lấy mỗi niệm cũng đúng với chơn tánh, thì, tất chứng được lý vô sanh; như thế, sự diệt tội tỷ như nước sôi tan giá tuyết.”
Bản chú trên đây là bản do Hòa Thượng Thích Trí Thoát trì tụng, do tính phổ thông nên đưa ra làm chuẩn trì tụng. Bởi nếu có người ưa tụng chú này, vừa nghe Hòa Thượng tụng vừa tụng theo thì rất nhanh thuộc. Về các bản phiên dịch của chú, khi tôi tra lại tài liệu thì thấy có hai bản, nội dung như sau:
*
1. Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn theo Nhị Khóa Hiệp Giải thì là:
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni đế. Ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế, chơn lăn kiền, đế, tóa bà ha.
Bản này nội dung rất sát với bản của Hòa Thượng Trí Thoát tụng. Tuy một vài âm có trại đôi chút nhưng cũng không ảnh hưởng gì đến toàn cục.
2. Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn theo “Kinh Đại Phương đẳng Đà Ra Ni” do Ngài Viên Đức dịch thì chỉ có mấy câu:
Ly bà ly bà đế Cừu ha cừu ha đế Đà la ly đế Ni ha la đế Tỳ ma ly đế Sa ha.
Bản chú này không hiểu tại sao lại ngắn như vậy. Có thể do bản kinh của Ngài Viên Đức dịch chỉ có vậy, hoặc do lỗi biên tập đánh máy chăng? Cái này nếu có thiện tri thức nào duyên đọc bài này, xin chỉ giúp tôi.
Chú Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn trích từ Phẩm Hộ Giới – Kinh Đại Phương đẳng Đà Ra Ni. Kinh này thuộc Đại Tạng Kinh chánh bản. Nay xin trích đăng bản dịch này của Ngài Viên Đức cho bạn đọc cùng thưởng lãm.
*
Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn
Phẩm Hộ Giới – Kinh Đại Phương đẳng Đà Ra Ni
Bắc Lương, Sa-môn Pháp Chúng ở quận Cao Xương dịch từ Phạn ra Hán
Sa-môn Thích Viên Đức dịch thành Việt văn
*
Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi liền từ tòa đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối hữu sát đất, bạch đức Phật rằng: “Kính thưa đức Thế tôn! Sau khi Thế tôn Niết Bàn, nếu có Tỳ-khưu hủy phạm bốn trọng giới, hoặc Tỳ-khưu-ni hủy phạm tám trọng giới; nếu có Bồ-tát hoặc Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hủy phạm các giới tương ứng; khi đã phạm trọng tội rồi thì làm sao mà diệt?”
Phật dạy: “Than ôi, lành thay, Văn-thù-sư-lợi hay thưa hỏi những việc như thế! Lòng từ bi của ông quá thù thắng nên mới phát hỏi lời ấy! Nếu ông không hỏi, ta trọn không nói việc Tỳ-khưu trong đời ác đã hủy phạm giới. Lành thay, lành thay, Văn-thù-sư-lợi! Ông nay lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.
Sau khi ta Niết Bàn, nếu có ác luật nghi Tỳ-khưu hủy phạm tứ trọng giới và cứ mặc nhiên thọ sự cúng dường của đàn việt mà không biết cải hối; phải biết Tỳ-khưu đó chắc chắn phải đoạ địa ngục thọ khổ không chút nghi ngờ. Ta nay sẽ ban cho món lương dược để cứu vớt vị Tỳ-khưu trọng bịnh, sau khi ta Niết Bàn, hủy phạm bốn trọng cấm xấu hổ không phát lồ. Ông nay lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói:
*
Ly bà ly bà đế Cừu ha cừu ha đế Đà la ly đế Ni ha la đế Tỳ ma ly đế Sa ha.
Văn-thù-sư-lợi, đà-ra-ni này là quá khứ thất Phật đã tuyên nói. Chữ “thất” này không thể đếm cũng không thể tính, nói đà-ra-ni này cứu nhiếp chúng sanh. Hiện tại mười phương không thể tính, không thể đếm thất Phật cũng tuyên nói đà-ra-ni này cứu nhiếp chúng sanh. Vị lai mười phương không thể tính, không thể đếm thất Phật cũng tuyên nói đà-ra-ni này cứu nhiếp chúng sanh. Ông nay thỉnh hỏi nghĩa đà-ra-ni, ta đã nói xong. Ông hãy đem kinh đà-ra-ni này cứu nhiếp luật nghi Tỳ-khưu ở đời ác sau này, khiến cho họ kiên cố trụ thanh tịnh địa.
Thiện nam tử, Tỳ-khưu nào hủy phạm tứ trọng cấm thì phải chí tâm nhớ niệm kinh đà-ra-ni này, tụng 1.400 biến. Tụng 1.400 biến xong rồi mới một lần sám hối, thỉnh một vị Tỳ-khưu vì mình làm chứng nhơn, nơi trước hình tượng mà tự bày tỏ tội lỗi mình. Như thế lần lượt trải qua 87 ngày cần mẫn sám hối rồi, mà các giới căn không hoàn sanh, thì không có lý đó. Người kia cần mẫn sám hối trong 87 ngày xong, nếu không kiên cố tâm Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác, thì cũng không có lý đó.
*
Lại nữa Văn-thù-sư-lợi, làm thế nào biết được giới đã thanh tịnh? Nếu trong mộng thấy có sư trưởng lấy tay xoa đầu mình, hoặc cha mẹ, Bà-la-môn, kẻ kỳ cựu có đức, dạng người như vậy, hoặc cho ẩm thực, y phục, ngọa cụ, thang dược, thì biết mình được an trụ giới thanh tịnh. Nếu thấy được mỗi mỗi tướng như vừa kể, nên nói cho thầy biết như pháp diệt tội như vậy.
Lại nữa thiện nam tử, trường hợp Tỳ-khưu-ni hủy phạm tám trọng cấm, nếu muốn diệt tội thì phải thỉnh một Tỳ-khưu biết rõ luật trong ngoài, rồi trình bày tội lỗi cho Tỳ-khưu nghe, nghe xong Tỳ-khưu nên như pháp mà dạy nội ngoại luật như thế này:
A lệ ly bà kỳ la đế La đế bà Ma la đế A ma la đế Sa ha.
Thiện nam tử, nếu như pháp thọ trì đọc tụng đà-ra-ni này 97 ngày, mỗi ngày tụng 49 biến rồi sám hối một lượt, theo thầy tu hành, thì không có lý nào mà không diệt trừ được ác nghiệp.
*
Thiện nam tử, nếu ông không tin, ta nay vì ông lược nói: ta xưa vì duyên ngu hạnh nghiệp nhơn, cho nên mười phương hư không pháp giới và cõi đất lớn, núi sông, rừng cây, nghiền nát hết làm bột, nhỏ như vi trần còn có thể đếm biết được, trừ hết thảy chư Phật ra, không người nào có thể biết ta đã phạm giới. Mười phương vô biên, ta đã phạm giới cũng lại vô biên. Vi trần vô số, ta đã phạm giới cũng lại vô số. Chúng sanh vô biên, ta đã phạm giới cũng lại vô biên. Phương tiện vô biên, ta đã phạm giới cũng lại vô biên. Pháp tánh vô biên, ta đã phạm giới cũng lại vô biên.
Thiện nam tử, ta quán xét hết thảy nghiệp như vậy lại càng lo sợ. Trên đến Bồ-tát, dưới đến Thanh văn, không ai có thể cứu ta thoát những khổ báo. Suy nghĩ như vậy rồi, ta liền đi tìm cầu Kinh điển đà-ra-ni này. Tìm cầu được rồi, ta tu hành 97 ngày, mỗi ngày đọc tụng 49 biến, nghe trong hư không có tiếng nói rằng: “Lành thay, lành thay thiện nam tử, mới hay tìm cầu Kinh điển đà-ra-ni này!”
Nghe xong ta nhìn xem bốn phương, thấy có hàng hàng chư Phật hiện tiền, mỗi mỗi chư Phật đưa tay xoa đầu ta, nghe ta hối lỗi. Thiện nam tử, vì nhơn duyên đó, sau khi ta qua đời, nếu có Tỳ-khưu-ni phạm tám trọng cấm, nên phải tìm đến Kinh điển đà-ra-ni này mà đọc tụng tu hành. Nếu trong mộng thấy những việc như trên, phải biết Tỳ-khưu-ni kia đã an trụ thanh tịnh địa, đầy đủ thanh tịnh giới.
*
Lại nữa thiện nam tử, nếu có Bồ-tát thọ tám trọng cấm rồi sau hủy phạm, ôm lòng cuồng loạn, muốn tự ăn năn trình bày tội lỗi mà không có chỗ quy thú, không thể diệt tội. Những tội lỗi như thế Tăng đem hòa hợp mang ra tẩn xuất nên quá lo sợ. Kẻ có lỗi nên ở trong một tịnh thất, dọn quét trong ngoài cho thật sạch sẽ, thỉnh một Tỳ-khưu thông suốt luật nghi trong ngoài, ở trước vị ấy trình bày lỗi lầm và nói như thế này: “Tăng nay ruồng đuổi, tôi đến nơi đây, tôi nay thỉnh Thầy cũng đến nơi đây, xin Thầy giáo hóa pháp tịnh luật.”
Bà la lệ Cừu na la lệ A na la lệ Kỳ na la lệ Già na lệ A lệ na lệ A đế na lệ A đế na lệ Sa ha.
Thiện nam tử, đà-ra-ni này là chỗ hộ trì của ba đời chư Phật, cũng là bí tạng của ba đời chư Phật. Thiện nam tử, xưa ta chưa nói, nay đã nói. Xưa ta chưa làm, nay đã làm. Xưa chưa từng nghe, nay đã nghe, mở ba nhơn phương tiện này đã xong, khiến cho chúng sanh gặp ba nhơn phương tiện này mà mau ra khỏi tam giới như mù được thấy mặt trời, như con trẻ được mẹ, như chim ra khỏi trứng, như người đói được ăn, như kẻ bị trói được mở, như người lạnh được lửa, như kẻ trần truồng được áo mặc, như kẻ mê được gặp người dẫn đường, như người khát được nước.
*
Thiện nam tử, pháp vị này của ta lại cũng như vậy. Nếu trụ ở đời lâu một kiếp, hoặc bớt đi một kiếp vì các chúng sanh thọ trì đọc tụng, giải nói nghĩa ấy, vì kẻ ngu si mà nói, phải biết người đó như ta không khác, trụ nơi thanh tịnh địa. Vậy người ấy nên sanh tâm khó gặp, tự mình trình bày tội lỗi, thì không có lý gì mà trọng tội không diệt.”
Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: “Kính thưa Thế tôn, đà-ra-ni này nên đọc tụng bao nhiêu biến? Tu hành bao nhiêu ngày mới chấm dứt?”
Phật dạy: “Thiện nam tử, đà-ra-ni này nên tụng 600 biến mới sám hối một lần. Khi sám hối, nên thỉnh một vị Tỳ-khưu đứng trước mặt, mình tự trình bày tội lỗi cho vị ấy nghe, như vậy lần lượt trải qua 67 ngày, đến khi thấy được các mộng tướng kể trên. Nếu được như vậy thì biết là Bồ-tát đã trụ thanh tịnh địa, đầy đủ thanh tịnh giới.
Lại nữa thiện nam tử, nếu Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hủy phạm các cấm giới, cũng nên thỉnh một Tỳ-khưu biết rõ luật nghi trong ngoài, mình ở trước tôn tượng hoặc tôn kinh Bát-nhã, tự trình bày tội lỗi cho Tỳ-khưu nghe, Tỳ-khưu này nên dạy cho họ pháp tịnh luật:
*
Luật già la đế Mộ già la đế A đế ma la đế Uùc già la đế Bà la đế Bà tòa la yết đế Tòa la yết đế Đậu la xa yết đế Tỳ xa yết đế Ly bà yết đế Bà la lệ a lệ Kỳ la lệ a lệ Tỳ la lệ a lệ Kỳ lan lệ a lệ Đề lan lệ a lệ Tỳ la a lệ Sa ha.
Thiện nam tử, ta vì thương xót tất cả chúng sanh nên nói đà-ra-ni này. Nếu có hạ liệt Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cũng nên thọ trì đọc tụng đà-ra-ni này, tụng 400 biến mới sám hối một lượt, lần lượt như vậy trải qua 47 ngày, tự mình trình bày tất cả tội lỗi cho vị Tỳ-khưu nghe rõ. Xong hết 47 ngày, nếu thấy những điềm mộng như trên đã kể, thì biết Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di kia đã trụ thanh tịnh địa, đủ thanh tịnh giới.”
Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi và 500 đại đệ tử, tâm có chút ít nghi. Phật biết ý liền dạy rằng: “Như các ông đã nghĩ, kẻ hành giả nên tu năm việc trì các giới tánh, nghĩa là:
- Không phạm đà-ra-ni nghĩa;
- Không báng Phương Đẳng kinh;
- Không thấy lỗi của kẻ khác;
- Không tán khen Đại thừa mà hủy báng Tiểu thừa;
- Không rời bạn lành.
Thường nói với chúng sanh năm diệu hạnh như vậy, ấy là hành giả nghiệp không phạm giới tánh.
*
Lại nữa thiện nam tử, khi được mộng lành thì không được nói cảnh giới đó ra, cũng không được nói mình đã tu hành tốt xấu như thế nào. Ngày ngày nên ba thời dùng hương thơm thoa đất, sái quét sạch sẽ, cũng nên mỗi ngày tụng một biến, mỗi ngày sám hối một lần. Năm việc như thế để cho kẻ hành giả nghiệp không phạm giới tánh.
Thiện nam tử, lại có năm việc nữa:
- Tỳ-khưu nào tu hành pháp này không được cùng bạch y cúng tế quỷ thần;
- Cũng không được khinh quỷ thần;
- Cũng lại không được phá miếu thờ quỷ thần;
- Giả sử có người cúng tế quỷ thần cũng không được khinh;
- Cũng không được qua lại với người ấy.
Năm việc như vậy là nghiệp hạnh của kẻ tu hành hộ giới cảnh giới.
Thiện nam tử, lại còn năm việc nữa:
- Không được qua lại nhà của người phỉ báng kinh Phương Đẳng;
- Không được qua lại với Tỳ-khưu phá giới;
- Cũng không được qua lại nhà của Ưu-bà-tắc phá ngũ giới;
- Không được qua lại nhà của kẻ thợ săn;
- Không được qua lại với người nào thường nói lỗi của Tỳ-khưu.
Năm việc như vậy là nghiệp hạnh của kẻ tu hành hộ giới cảnh giới.
*
Thiện nam tử, lại còn năm việc nữa:
- Không được qua lại nhà của người làm nghề lột da thú;
- Không được qua lại nhà người nhuộm chàm;
- Không được qua lại nhà người nuôi tằm;
- Không được qua lại nhà người ép dầu;
- Không được qua lại nhà người đào chuột.
Năm việc như vậy là nghiệp hạnh của kẻ tu hành hộ giới cảnh giới.
Thiện nam tử, lại còn năm việc nữa:
- Không được qua lại nhà kẻ cướp;
- Không được qua lại nhà người trộm cắp;
- Không được qua lại nhà người thiêu Tăng phòng;
- Không được qua lại nhà người trộm cắp của chúng Tăng;
- Không được qua lại nhà người chỉ trộm lấy vật của một Tỳ-khưu.
Năm việc như vậy là nghiệp hạnh của kẻ tu hành hộ giới cảnh giới.
Thiện nam tử, lại còn năm việc nữa:
- Không được qua lại nhà người nuôi heo, dê, gà, chó;
- Không được qua lại nhà người xem sao, thiên văn;
- Không được qua lại nhà kẻ dâm nữ;
- Không được qua lại nhà góa phụ;
- Không được qua lại nhà người nấu rượu.
Năm việc như vậy là nghiệp hạnh của kẻ tu hành hộ giới cảnh giới.
*
Thiện nam tử, bảy khoa năm việc như trên, người tu hành nên hiểu rõ, quán sát tận nguồn gốc, nhiên hậu xa lìa. Các việc khác cũng lại như thế.
Lại nữa thiện nam tử, có hai hạng người tu hành: xuất thế tu hành và tại thế tu hành. Người xuất thế tu hành, ta không cấm những việc như trên, nhưng ta lại cấm đối với người tại thế tu hành. Vì sao? Thí như con trẻ khi mới biết đi, bà mẹ giữ gìn không cho đi xa. Giả sử đi xa hoặc bị dứt sữa mà chết; hoặc rớt trong nước mà chết; hoặc cọp beo, sư tử ăn thịt; hoặc bị các chim hung tợn làm thương tổn. Trẻ con như vậy, mẹ thường giữ gìn không để bị hại; để sau này lớn lên, nó ra làm thì mới chắc chắn thành tựu.
*
Thiện nam tử, ta cũng lại như thế, là mẹ của tất cả. Hết thảy chúng sanh tức là con ta, thường hộ trợ họ để không gặp hoạnh, mau ra ba cõi mới có thể làm xong. Nếu không ngăn giữ các con như vậy thì làm thế nào được Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác; như người mẹ kia không ngăn con thì làm thế nào con có thể khôn lớn trưởng thành?
Lại nữa thiện nam tử, nếu các đệ tử của ta thấy những người ác luật nghi không lành như trên: xem tướng tốt xấu, buôn bán đổi chác nuôi sống; một hạng không đúng đắn làm các việc ác, xả bỏ pháp của ta mà đi tham đắm các ác luật nghi; sau rồi mạng chung chịu vô lượng khổ. Ta thấy như vậy sanh tâm thương xót, vì các chúng sanh bày những phương tiện, để cho chúng sanh nương vào đấy mà ra ba cõi khổ, được vui cứu cánh. Vì vậy ta nay bày nhiều phương tiện cứu nhiếp chúng sanh khiến được cứu cánh tịch diệt Niết-bàn.”
Bấy giờ Văn-thù-sư-lợi và 500 đại đệ tử, vô lượng đại chúng hoan hỉ phụng hành.
( Thất Phật Diệt Tội Chân Ngôn Đà Ra Ni )
Tuệ Tâm 2021.
T.D viết
Bạch thầy, con có một thắc mắc. Trong kinh có đoạn:
“Thiện nam tử, lại còn năm việc nữa:
Không được qua lại nhà người nuôi heo, dê, gà, chó;
Không được qua lại nhà người xem sao, thiên văn;
Không được qua lại nhà kẻ dâm nữ;
Không được qua lại nhà góa phụ;
Không được qua lại nhà người nấu rượu.
Năm việc như vậy là nghiệp hạnh của kẻ tu hành hộ giới cảnh giới.”
và:
“Lại nữa thiện nam tử, có hai hạng người tu hành: xuất thế tu hành và tại thế tu hành. Người xuất thế tu hành, ta không cấm những việc như trên, nhưng ta lại cấm đối với người tại thế tu hành.”
Bốn việc dưới thì con có thể hiểu được, nhưng mà điều trên thì con không hiểu. Giả dụ nếu có người bà con mình nhà có nuôi chó (yêu thương, chăm sóc đàng hoàng) mình cũng không được qua lại nhà đó hay sao ạ? Con cảm ơn thầy rất nhiều.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Trong kinh Phật dạy: “Người xuất thế tu hành, ta không cấm những việc như trên, nhưng ta lại cấm đối với người tại thế tu hành. Vì sao? Thí như con trẻ khi mới biết đi, bà mẹ giữ gìn không cho đi xa. Giả sử đi xa hoặc bị dứt sữa mà chết; hoặc rớt trong nước mà chết; hoặc cọp beo, sư tử ăn thịt; hoặc bị các chim hung tợn làm thương tổn. Trẻ con như vậy, mẹ thường giữ gìn không để bị hại; để sau này lớn lên, nó ra làm thì mới chắc chắn thành tựu. Thiện nam tử, ta cũng lại như thế, là mẹ của tất cả. Hết thảy chúng sanh tức là con ta, thường hộ trợ họ để không gặp hoạnh, mau ra ba cõi mới có thể làm xong. Nếu không ngăn giữ các con như vậy thì làm thế nào được Vô thượng Bồ-đề Chánh đẳng chánh giác; như người mẹ kia không ngăn con thì làm thế nào con có thể khôn lớn trưởng thành?”
Ta học Phật phải luôn nhớ rằng: Đức Phật chế giới là để giúp ta ngăn ngừa phạm lỗi và tránh các chướng ngại trên đường tu. Ý Phật sâu xa, trí phàm phu khó mà hiểu hết được, chỉ nên ngửa mặt tin nhận hành trì là tốt nhất, bởi lời của Như Lai luôn là chân thật ngữ.
Như thắc mắc của bạn, theo chỗ ngu ý của Tuệ Tâm thì: Ngày xưa người ta nuôi vật trong nhà thường cuối cùng đều giết thịt, do đó nghiệp sát sanh và oán khí nơi những nhà ấy rất nhiều. Người tại gia trì chú, giới hạnh thường chỉ giữ được ở mức thô, còn xét ở mức tế hay vi tế, đa phần đều phạm giới! Mà trì chú thường va chạm rất nhanh vào thế giới tâm linh, nếu giới hạnh kém khuyết, rất dễ phát sanh chướng ngại, thử thách. Cho nên khi đến những nơi oán khí nhiều, dễ gặp chướng nạn! Bởi đây mà đức Phật chế giới để giúp người tại gia không bị thử thách và pháp nhanh được thành tựu vậy! Như thế, nếu bạn chỉ chuyên tu trì trú để cầu thành tựu việc gì đó, thì tốt nhất là nên nghe lời Phật dạy. Dù nhà người thân có nuôi làm cảnh, không sát sanh thì trong thời gian mình đang chuyên tu trì chú ấy, cũng không nên đến.. Còn nếu bạn chỉ tụng chơi chơi cho biết, thì có đến cũng chẳng trở ngại gì…Vài lời ngu muội, mong bạn tùy hỉ!
Nam mô A Di Đà Phật.