Kinh Duy Ma Cật là bản kinh với mênh mông các cảnh giới, ý văn sâu thăm thẳm, nhưng lại vô cùng dễ đọc. Đây là bản kinh do Ngài Tuệ Sỹ, sau khi dày công nghiên cứu, đối chứng các bản kinh khác nhau, rồi chọn dịch cho hậu học chúng ta bản chuẩn chỉnh nhất – Bản của Pháp sư Cưu Ma La Thập.
Như Ngài Tăng Triệu bảo: “Duy-Ma-Cật bất tư nghị kinh, đấy là tên gọi chỉ cho chỗ tuyệt diệu tận cùng của huyền vi tạo hoá. Ý chỉ của nó u huyền như vực thẳm, không thể thăm dò bằng ngôn tượng. Đạo lý ấy siêu việt ba không, không phải là chỗ luận nghị của Nhị thừa. Khi biểu lộ thì vượt lên trên quần số; là cảnh giới dứt tuyệt hữu tâm. Mịt mờ vô vi mà không gì là không tác vi. Không dễ gì biết vì sao như nhiên, mà vẫn có thể như nhiên. Đấy là chỗ bất tư nghị.”
*
Tôi mỗi lần đọc kinh lại thấy xót thương những người không hiểu Đạo, dám ngược ngạo loan truyền tà kiến, bảo Duy Ca Mật sở thuyết là ngụy kinh. Thương họ thân ở nhân gian mà một phần thần thức đã ở nơi địa ngục đã đành; lại xót biết bao nhiêu Phật tử sơ cơ, do tin lời xằng bậy, hủy báng kinh mà trầm luân ở tam đồ, chẳng biết thọ khổ bao nhiêu kiếp mới lại được thân người.
Than ôi, chúng sanh cang cường khó độ, lại thời mạt, tà thần ác quỷ lộng hành, chánh pháp suy vi, không người tu chứng, nên người người hoan hỉ dạo chơi trong lưới của ma vương mà chẳng tự biết, thật đau lòng buốt ruột xiết bao !!!
- Kinh Lăng Nghiêm.
- Kinh Lương Hoàng Bảo Sám.
- Phẩm Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát.
- Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo.
- Kinh Vu Lan Báo Hiếu.
- Kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni.
- Cách tụng kinh tại nhà.

Kinh Duy Ca Mật – Tiểu dẫn lịch sử truyền dịch các bản Hán.
Được ấn hành trong Đại chánh hiện tại, trước sau có tất cả ba bản Hán dịch. Bản dịch sớm nhất do Chi Khiêm, tựa đề “Phật thuyết Duy-Ma-Cật kinh”, thực hiện trong khoảng niên hiệu Hoàng vũ thứ 1 (222) dưới thời Ngô Tôn Quyền, đến giữa niên hiệu Kiến hưng (253) thời Ngô Tôn Lượng. Bản dịch này hình như không còn được lưu hành dưới thời Tăng Hựu.
Bản dịch do Cưu-Ma-La-Thập được kể là bản thư hai, gần 200 năm sau đó.
Theo mục lục của Tăng Hựu, giữa bản dịch của Chi Khiêm và của Cưu-Ma-La-Thập còn có ít nhất hai bản nữa đã được lưu hành.
Theo đó, kế tiếp theo “Phật thuyết Duy-Ma-Cật kinh” do Chi Khiêm dịch, là “San Duy-Ma-Cật kinh” 1 quyển, do Sa-môn Trúc Pháp Hộ, thực hiện trong khoảng niên hiệu Thái thủy, Tấn Vũ Đế (265), đến khoảng niên hiệu Vĩnh Gia năm thứ 2, đời Tấn Hoài Đế (308), cùng lúc với nhiều kinh điển khác, mà Tăng Hựu nói là do Trúc Pháp Hộ sang Tây Vực tìm được bản Phạn mang về. Tuy vậy, Tăng Hựu cũng cho biết ý kiến là, Pháp Hộ cắt xén bớt một số kệ trong bản dịch cũ của Chi Khiêm được xem là hơi rườm rà.
*
Bản dịch tiếp theo đó nữa là “Dị Duy-Ma-Cật kinh” do Trúc Thúc Lan, thực hiện dưới thời Tấn Huệ Đế, niên hiệu Nguyên Khang năm thứ 1 (291).
Khoảng trên dưới 10 năm sau, cũng trong thời Tấn Huệ Đế, Sa môn Chi Mẫn Độ tập hợp hai bản dịch trước đó, của Trúc Pháp Hộ và Trúc Thúc Lan, biên tập thành một hiệp bản, tựa đề là “ Hiệp Duy-Ma-Cật kinh”, 5 quyển.
Như vậy, theo liệt kê của Tăng Hựu, về các bản dịch cổ, hay được gọi là “cựu dịch”, trước sau có tất cả 4 bản. Nếu kể luôn cả hiệp bản do Chi Mẫn Độ biên tập, có tất cả 5 bản.
Trong liệt kê của Pháp Kinh, chỉ kể có 4:
- Duy-Ma-Cật, 3 quyển, Chi Khiêm dịch, đời Ngô, niên hiệu Hoàng Vũ.
- Duy-Ma-Cật kinh, 1 quyển, Trúc Pháp Hộ dịch, đời Tấn.
- Dị Duy-Ma-Cật kinh, 3 quyển, do Trúc Thúc Lan, đời Tấn Huệ đế.
- Duy-Ma-Cật sở thuyết kinh, 3 quyển, do Cưu-Ma-La-Thập, đời Hậu Tần, niên hiệu Hoằng Thủy.
*
Các bản dịch nêu trên, trừ bản của Chi Khiêm, đến nay đều không còn được lưu hành. Tuy nhiên, Tăng Hựu cũng ghi lại được bài tựa của Chi Mẫn Độ viết cho “Hiệp Duy-Ma-Cật kinh.” Qua bài tựa này, cùng với bài tựa của Tăng Triệu, cũng như vị trí của Tăng Triệu trong sự hoằng truyền tư tương Tánh Không tại Trung quốc, cho thấy ngay từ đầu khi bản dịch của Chi Khiêm mới được phổ biến, tư tưởng Duy-Ma-Cật đã có tầm ảnh hưởng nhất định.
Thêm vào đó, nhiều bản dịch, kể cả hiệp bản, cũng cho thấy những nỗ lực của các dịch giả và các nhà nghiên cứu, cố gắng truyền đạt nội dung uẩn áo của Duy-Ma-Cật bằng phương tiện ngôn ngữ, mà như chính trong đối thoại giữa Duy-Ma-Cật và Văn-thù thể hiện rất sinh động qua những biểu tượng phong phú hình tượng văn học lãng mạn để vượt qua giới hạn mà ngôn ngữ không thể vượt qua.
Trong các bản dịch, bản do La-thập được truyền bá rộng rãi nhất, với rất nhiêu bản chú giải khác nhau qua nhiều thế hệ khác nhau.
*
Khi La-Thập đang ở Cô Tạng, một thanh niên trí thức tìm đến. Đó là Tăng Triệu. Bấy giờ chưa đầy 30 tuổi. Ngay vừa gặp gỡ và trao đổi lần đầu tiên, La-Thập rất trân trọng không những tài năng văn học và cả về tư tưởng uyên áo của người thanh niên này.
Trước đó, Tăng Triệu rất hâm mộ tư tưởng Lão Trang, nghiền ngẫm lẽ huyền vi của Đạo đức kinh. Nhưng Triệu cũng từng than thở: “ Đẹp thì đẹp thật. Nhưng vẫn chưa thể tận thiện chỗ u vi mờ mịt của Thần minh.” Sau đó, nhân gặp kinh Duy-Ma-Cật, bản cựu dịch, cảm thấy bị lôi cuốn, nói rằng, “Bây giờ mới biết đâu là chỗ quay về.”
Rồi Triệu xuất gia. Vào luc tuổi chưa quá hai mươi, mà danh tiếng đã khiến nhưng thanh niên cùng thế hệ cảm thấy phải ganh tị vì sở học quảng bác, tư tưởng sâu sắc, tài biện luân bén nhọn không dễ có người đương nổi.
*
La-thập đến Trường an năm 401. Bấy giờ Triệu mới 27 tuổi. Dưới sự hỗ trợ, và cũng là đại tín thí rất ngưỡng mộ La-thập, của Dao Hưng (366-416) vua nước Hậu Tần, La-thập khởi đầu sự nghiệp phiên dịch vĩ đại tại Trung quốc cùng với người môn sinh xuất sắc và cũng là người trợ thủ đắc lực trong công trình phiên dịch; đó là Tăng Triệu.
Văn dịch của La-thập được các thế hệ nghiên cưu Phật học Hán tạng rất hâm mộ vì sự lưu loát và trong sáng, trong đó không thể không kể đến sự đóng góp không nhỏ của Tăng Triệu. “Duy-Ma-Cật-sở thuyết kinh” do La-thập dịch là một trong những đóng góp rất sáng giá của Tăng Triệu. Ngoài nội dung vừa uyên áo, vừa bao la hoằng vĩ, cùng với rất nhiều hình tượng văn học mang đầy tính chất lãng mạn, Duy-Ma-Cật nhanh chóng chinh phục tình cảm của rất nhiều văn thi sỹ Trung quốc qua nhiều thế hệ khác nhau.
Tuy nhiên, nếu đối chiếu bản dịch của La thập và bản do Huyền Trang dịch lại sau này này, người đọc có thể thấy không có hình thái ngôn ngữ nào có thể phu diễn tận cùng sâu thẳm nội dung của Duy-Ma-Cật. Giới hạn cuối cùng của sự diễn đạt ngôn ngữ, là sự im lặng. Sự im lặng này trở thành nguồn rung động bất tuyệt cho nhiều sáng tạo nghệ thuật, từ thi ca cho đến hội họa.
*
Bản dịch Việt này chủ yếu y trên bản Hán của La-thập. Nhưng đồng thời cũng có sự đối chiếu với bản của Huyền Trang. Những dị biệt về dịch ngữ, cũng như về phong cách dịch, sẽ được ghi ở phần cước chú.
Mặt khác, rất nhiều đoạn cần phải tham khảo giải thích, hay bình chú của La-thập và Tăng Triệu, cũng như sớ giải của Khuy Cơ. Chính yếu, đây là hai hệ tư tưởng khác nhau; tiếp thu nội dung của Duy-Ma-Cật từ hai nhãn quang khác nhau. Những tham khảo này cũng được ghi lại trong phần cước chú.
Ở đây cũng cần phải thừa nhận rằng, có những nếp gấp của tư tưởng mà ngôn ngữ Hán, vốn rất dị ứng với các ý tưởng siêu hình, không thể chuyển tải trung thực tiếng Phạn, là loại hình ngôn ngữ giàu chất siêu hình và luận lý. Vì vậy, những khi cảm thấy cần thiết, dịch giả chua thêm một vài từ ngữ Sanskrit. Tất nhiên, không có bản Sanskrit nào hiện được lưu hành. Do đó, các từ gốc Sanskrit nơi phụ chú chỉ là những ức đoán có tính cách gợi ý. Rất mong đọc giả không xem đó là nguyên ngữ tuyệt đối chính xác của các Hán dịch.
*
Song song với bản dịch này, là “Pháp thoại Duy-Ma-Cật”, giới thiệu nội dung các Chương của Duy-Ma-Cật, sẽ được in thành tập sách riêng biệt. Tập Pháp thoại này chỉ có mục đích nêu những điểm mà bản dịch không thể chuyển tải hết.
Người xưa đã nỗ lực rất nhiều để đi sâu vào nguồn mạch tưởng của Duy-Ma-Cật, và từ đó cũng đã toả sáng những ảnh tượng diệu kỳ của sự sống, của con người và thế giới sinh động của con người.
Cho đến ngày nay, những ảnh tượng ấy cũng còn là chất liệu sáng tạo nên những giá trị tuyệt vời của sự sống. Thiên nữ tán hoa vẫn hiện diện ngay giữa trái tim rung động của mỗi chúng sinh theo nhịp rung động của sự im lặng bao la, từ cõi tịch mặc vô ngôn của thực tại.
Quảng Hương Già-lam, mùa An cư, 2546
Tuệ Sỹ
Kinh Duy Ca Mật – Tự Của Tăng Triệu
Duy-Ma-Cật bất tư nghị kinh, đấy là tên gọi chỉ cho chỗ tuyệt diệu tận cùng của huyền vi tạo hoá. Ý chỉ của nó u huyền như vực thẳm, không thể thăm dò bằng ngôn tượng. Đạo lý ấy siêu việt ba không, không phải là chỗ luận nghị của Nhị thừa. Khi biểu lộ thì vượt lên trên quần số; là cảnh giới dứt tuyệt hữu tâm. Mịt mờ vô vi mà không gì là không tác vi. Không dễ gì biết vì sao như nhiên, mà vẫn có thể như nhiên. Đáy là chỗ bất tư nghị.
Sao vậy?
Thưa, Thấnh trí vốn vô tri, mà muôn vàn phẩm loại đều được soi tỏ. Pháp thân vốn vô tượng, nhưng lại ứng hiện theo từng hình tướng đặc thù. Vần điệu chí cao thì vẫn không lời, mà thư tịch huyền vi khắp nơi quảng bá. Thiện quyền bí ẩn thì không toan tính, mà động tĩnh thảy tương ưng sự thể.
Do vậy mà có thể cứu vớt tổng thể quần sinh, phơi bày vật để hoàn thành trách vụ. Lợi, được thấy khắp thiên hạ, với ta thì vô vi; kẻ mê hoặc trông thấy mà cảm được ánh chiếu. Nhân đó gọi là Trí. Quán, ứng theo hình, thì gọi là Thân; liếc nhìn thư tịch huyền vi, bèn bảo đó là Ngôn. Thấy sự biến động mà bảo đó là Quyền. Thế thì, chỗ chí cực của Đạo, há có thể bằng Hình, Ngôn, Quyền, Trí, mà nói lên được cảnh vực thần diệu của nó sao?
*
Vả, chúng sinh mãi ngủ vùi, phi ngôn thì lấy gì để đanh thức? Đạo không vận chuyển đơn côi. Đạo hoằng do người. Cho nên, Như Lai sai Văn-thù nơi phương khác; triệu Duy-ma từ quốc độ kia; cùng tụ hội Tỳ-da-ly để chung truyền Đạo ấy.
Điểm thuyết minh của Kinh này, để thống hợp vạn hạnh, thì lấy quyền trí làm chủ; trồng cội đức, thì lấy sáu độ làm rễ; cứu vớt kẻ ngu khờ mê hoặc thì lấy từ bi làm đầu. Cực điểm của ngữ tông, thì lấy bất nhị làm cửa. Chúng thuyết này đều là gốc của bất tư nghị vậy.
Cho đến như, mượn tòa của Phật Đăng Minh; xin cơm từ Hương thổ; tay đón căn nhà đại thiên bao trùm cả vũ trụ. Đấy là dấu tích của bất tư nghị vậy. Không dấu tích, không sao hiển bày bản nguyên. Bản và tích tuy sai thù, mà là Nhất thể bất tư nghị vậy. Do đó, sai thị giả nêu đó làm tiêu danh.
Đấng Thiên vương của nước Đại Tần vốn thần minh tuấn kiệt, siêu việt thế thường, tầm huyền vi riêng minh tỏ ngộ. Mở rông nền thống trị chí tôn trên cả vạn cơ; hiển dương Đạo hoá truyền xuống nghìn đời sau. Rồi mkối khi tìm đến thưởng ngoạn kinh điển này, cho rằng đây là am thất cho tinh thần trú ngụ. Nhưng tiếc vì bản dịch của Chi Khiêm để cho lý bị nghẽn bởi văn, thường sợ tông chỉ huyền vi rơi mất vì người dịch.
*
Vận của Trời cõi bắc mà được vận chuyển thông suốt là có lý do vậy. Vào niên hiệu Hoăng Thỉ thứ 8, tuế thứ thuần hỏa (AD. 406), mệnh sai Đại tướng quân Thường Sơn Công, Hữu tướng quân An Thành Hầu, cùng với 1.200 Sa-môn nghĩa học, tại Trường An Đại Tự, thỉnh La-Thập trùng dịch chính bản.
Thập, bằng cái lượng cao hơn đời, tâm mờ chân cảnh, đã suốt hết trong cõi tuần hoàn, lại rành các địa phương ngữ. Khi ấy, tay cầm Phạn bản, miệng tự tuyên dịch. Kẻ tục, người đạo chăm chăm. Một lời, lặp lại ba lần. Hun đúc thành tinh vi, cốt cầu giữ cho được ý Thánh. Văn giản dị mà hài hoà. Ý chỉ uyển chuyển mà rõ ràng. Ngôn từ vi ẩn sâu xa thật là sáng tỏ.
Tôi vào cái tuổi còn kém trí, mà may được dự nghe. Tuy tư duy chưa vươn tới lẽ huyền, nhưng cũng có thể hiểu được ý văn một cách sơ lược. Rồi theo chỗ được nghe mà làm chú giải, tóm tắt ghi thành lời. Chỉ thuật chớ không phải sáng tác.
*
KINH DUY MA CẬT SỞ THUYẾT
Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu-Ma-La-Thập
Việt dịch: Hoà Thượng Thích Tuệ Sỹ
*
Kinh Duy Ma Cật: Chương I – Quốc Độ Phật
*
Tôi nghe như vậy.
Một thời, Phật ở trong vườn Am-La trong thành Tỳ-Da-Li cùng với đại chúng gồm tám ngàn Tỳ-kheo, ba mươi hai ngàn Bồ-tát, là những vị được mọi người biết đến, đã thành tựu Đại trí và bản hạnh, đã được xác lập bởi oai thần của chư Phật;
là thành trì hộ Pháp, thọ trì Chánh Pháp, có khả năng cất tiếng rống của sư tử vang dội khắp mười phương, là những người bạn không đợi mời gọi của mọi người, đem an lạc đến cho mọi người, kế thừa và làm rạng rỡ Tam bảo không để đoạn tuyệt, hàng phục các ma oán, chế ngự các tà đạo; đã hoàn toàn thanh tịnh; vĩnh viền lìa các cái và triền;
tâm thường an trụ nơi giải thoát vô ngại; có niệm, định, tổng trì, biện tài không gián đoạn; bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, định và tuệ, cùng năng lực của phương tiện, tất cả đều được thành tựu; đạt đến pháp nhẫn bất khởi vốn vô sở đắc.
Các ngài có thể tùy thuận mà quay bánh xe không thối chuyển; có năng lực giải thích mọi hiện tượng; biết rõ căn tính của mọi chúng sinh, bao trùm cả đại chúng mà đắc pháp vô úy. Các ngài tu dưỡng tâm bằng công đức và trí tuệ, lấy đó điểm trang cho thân tướng thù thắng, vứt bỏ mọi thứ trang sức trần gian.
*
Thanh danh lồng lộng của các ngài cao hơn núi Tu-di.Tín tâm của các ngài thâm sâu kiên cố như kim cương. Bảo vật chánh Pháp của các ngài lấp lánh soi rọi, và tuôn xuống những trận mưa cam lộ. Âm thanh của các ngài vi diệu bậc nhất trong mọi thứ âm thanh.
Các ngài thâm nhập duyên khởi, đoạn trừ các tà kiến, hoàn toàn thoát ly mọi đối đãi nhị nguyên, không còn tập khí tàn dư. Các ngài tuyên dương chánh Pháp một cách không sợ hãi như sư tử gầm rống; những điều được thuyết giảng vang dội như sấm. Không thể đánh giá các ngài vì các ngài vượt ngoài mọi giá trị nhân gian. Các ngài tích lũy kho tàng Chánh Pháp như những thuyền trưởng tài ba thu hoạch ở biển cả.
Các ngài tinh thông yếu nghĩa của các Pháp; hiểu rõ căn cảnh của chúng sinh, chỗ đi và chỗ đến của chúng cũng như các sở hành của tâm tư của chúng. Các ngài đã đạt gần trí tuệ tự tại của chư Phật, sở đắc mười lực, vô úy, và mười tám bất cộng.
Tuy đã đóng chặt cánh cửa dẫn xuống các cõi bất hạnh, các ngài vẫn hiện thân trong năm đường làm vị đại lương y để điều trị các thứ bịnh, theo bịnh mà cho thuốc khiến cho bình phục; thành tựu vô biên công đức, trang hoàng vô lượng cảnh giới chư Phật. Mỗi chúng sinh đều được lợi ích lớn khi nhìn thấy và được nghe các ngài, vì hành vi của các ngài đều không vô ích. Các ngài đã thành tựu đầy đủ công đức như vậy.
*
Danh xưng của các ngài là: Đẳng Quán Bồ tát, Bất Đẳng Quán Bồ tát, Đẳng Bất Đẳng Quán Bồ tát, Định Tự Tại Vương Bồ tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ tát, Pháp Tướng Bồ tát, Quang Tướng Bồ tát, Quang Nghiêm Bồ tát, Đại Nghiêm Bồ tát, Bảo Tích Bồ tát, Biện Tích Bồ tát, Bảo Thủ Bồ tát, Bảo Ấn Thủ Bồ tát, Thường Cử Thủ Bồ tát, Thường Hạ Thủ Bồ tát, Thường Thảm Bồ tát, Hỷ Căn Bồ tát, Hỷ Vương Bồ tát, Biện Âm Bồ tát, Hư Không Tạng Bồ tát;
Chấp Bảo Cự Bồ tát, Bảo Dõng Bồ tát, Bảo Kiến Bồ tát, Đế Võng Bồ tát, Minh Võng Bồ tát, Vô Duyên Quán Bồ tát, Huệ Tích Bồ tát, Bảo Thắng Bồ tát, Thiên Vương Bồ tát, Hoại Ma Bồ tát, Điện Đức Bồ tát, Tự Tại Vương Bồ tát, Công Đức Tướng Nghiêm Bồ tát, Sư Tử Hống Bồ tát, Lôi Âm Bồ tát, Sơn Tướng Kích Âm Bồ tát, Hương Tượng Bồ tát, Bạch Hương Tượng Bồ tát;
Thường Tinh Tấn Bồ tát, Bất Hưu Tức Bồ tát, Diệu Sanh Bồ tát, Hoa Nghiêm Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Đắc Đại Thế Bồ tát, Phạm Võng Bồ tát, Bảo Trượng Bồ tát, Vô Thắng Bồ tát, Nghiêm Độ Bồ tát, Kim Kế Bồ tát, Châu Kế Bồ tát, Di-lặc Bồ tát, Văn-thù-sư-lợi Pháp vương Tử Bồ tát. Cả thảy là ba mươi hai ngàn vị như vậy.
Ngoài ra còn có mười ngàn Phạm Thiên, như Đại Phạm Thiên Thi-khí, từ bốn thiên hạ về chỗ Phật để nghe Pháp.
Có mười hai ngàn Thiên đế khắp bốn phương về dự hội.
*
Và chư quỷ thần đại-oai-lực, long thần, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la và Ma-hầu-la-già cũng về dự.
Về dự hội còn có nhiều tì kheo, tì kheo ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.
Bấy giờ Phật nói pháp cho vô lượng trăm nghìn đại chúng đang cung kính vây quanh Ngài. Như ngọn núi Tu-di nổi lên giữa đại dương, Phật ngồi ung dung trên bảo tòa sư tử, chói lọi che trùm tất cả các đại chúng đang đến.
Luc bấy giờ con trai của một vị trưởng giả, tên Bảo Tích, cùng với năm trăm người con của các trưởng giả khác, cầm năm trăm tàn lọng được trang hoàng bằng bảy loại ngọc quí, đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ sát chân Phật, rồi dâng tất cả tàn lọng ấy cúng dường Phật.
Phật đã dùng thần lực siêu việt gom hết số tàn lọng đó làm thành một cái duy nhất che rợp cả ba nghìn đại thiên thế giới. Chiều kích dài rộng của các thế giới này thảy đều ánh hiện trong đó.
Và trong ba nghìn đại thiên thế giới này, hết thảy núi Tu-di, núi Tuyết, núi Mục-chân-lân-dà, núi Ma-ha-mục-chân-lân-đà, Hương sơn, Bảo sơn, Hắc sơn, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, cùng với biển, sông, suối, mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú, cung điện chư thiên, cung điện các rồng, tất cả đều ánh hiện trong lọng báu. Và khắp trong mười phương chư Phật, và chư Phật đang thuyết pháp, cũng thảy đều ánh hiện trong đó.
*
Khi đại chúng được chứng kiến thần lực của Phật, đều tán dương sự kiện hy hữu chưa từng thấy, cùng chắp tay lễ Phật và chiêm ngưỡng tôn nhan không rời mắt.
Rồi thì, Bảo Tích, con trai của trưởng giả, đến trước Phật, đọc bài kệ ca ngợi:
Con kính đảnh lễ Ngài,
Vị dẫn đạo chúng sinh bằng con đường tịch tĩnh.
Mắt trong vắt, dài rộng như sen xanh;
Tâm tịnh, đã vượt các thiền định;
Lâu dài tích chứa nghiệp tịnh,
Danh xưng không thể lường;
Đã thấy Đại Thánh, bằng thần biến,
Hiện khắp mười phương vô lượng cõi;
Trong đó, chư Phật diễn nói Pháp;
Hết thảy hội chúng đều thấy nghe.
Pháp lực của đấng Pháp vương vượt thắng hết.
Thường đem tài sản Pháp ban cho tất cả;
Khéo hay phân biệt các pháp tướng,
Mà đệ nhất nghĩa chẳng dao động.
Đã được tự tại trong các pháp
Nên con đảnh lễ Pháp vương này.
Không nói pháp hữu, cũng không phi hiện hữu;
Bởi do nhân duyên các pháp sanh.
*
Vô ngã, không tạo tác, không người thọ báo.
Nhưng nghiệp thiện ác không hề mất.
Dưới cội bồ-đề bắt đầu đánh bại Ma,
Được cam lộ diệt, thành giác đạo.
Đã không tâm ý, không thọ hành,
Mà lại chiết phục các ngoại đạo.
Ba lần chuyển luân trong Đại thiên;
Pháp luân bản lai thường thanh tịnh,
Trời, người đắc đạo, do đây chứng;
Tam bảo do đó hiện thế gian.
Bằng Pháp mầu này cứu chúng sinh;
Đã thọ, không thối, thường tịch nhiên.
Là bậc đại y vương diệt trừ lão, bịnh, tử.
Con đảnh lễ công đức vô biên của biển Pháp.
Chê, khen chẳng động, như Tu-di;
Lòng từ trải rộng cho người hiền lẫn kẻ ác.
Tâm hành bình đẳng như hư không,
Ai nghe mà không kính phục con người cao quý này?
Nay dâng Thế Tôn lọng hèn mọn,
Trong đó, ánh hiện cho con Tam thiên giới;
Với cung điện Trời, rồng, quỷ thần,
Càn-thát-bà lẫn của Dạ-xoa;
Và hết thảy mọi vật trên thế gian.
Đấng Mười lực từ tâm hiện biến hoá;
*
Đại chúng thấy việc hy hữu, tán thán Phật.
Nay con đảnh lễ đấng Chí tôn trong ba cõi.
Đại chúng quy ngưỡng Đại Pháp vương,
Tâm tịnh, quán Phật, ai cũng vui.
Mỗi người tự thấy Phật trước mặt;
Ấy do thần lực pháp bất cộng.
Phật bằng một âm diễn thuyết Pháp;
Chúng sinh tùy loại đều hiểu được;
Đều nói Thế Tôn cùng tiếng của mình;
Ấy do thần lực pháp bất cộng.
Phật bằng một âm diễn thuyết Pháp;
Chúng sinh mỗi mỗi theo chỗ hiểu,
Đều được thọ hành, đại lợi ích;
Ấy do thần lực pháp bất cộng.
Phật bằng một âm diễn thuyết Pháp;
Có kẻ nghe sợ, có kẻ vui,
Có kẻ chán bỏ, kẻ hết nghi;
Ấy do thần lực pháp bất cộng.
Cúi lạy đấng Mười lực, Đại tinh tấn;
Cúi lạy đấng đã đạt vô sở uý;
Đảnh lễ bậc trụ pháp Bất cộng;
Đảnh lễ Đại đạo sư của tất cả;
Đảnh lễ đấng dứt mọi trói buộc;
Đảnh lễ đấng đến bờ bên kia;
*
Đảnh lễ đấng cứu độ thế gian;
Đảnh lễ đấng thoát vòng sinh tử.
Biết lẽ đến, đi của chúng sinh,
Thâm nhập vạn pháp, được giải thoát,
Không vướng thế gian, như hoa sen,
Thường khéo thâm nhập hạnh không tịch,
Thấu đạt pháp tướng không trở ngại;
Cúi lạy đáng vô sở y như hư không.
Đọc kệ xong, Bảo Tích thưa với Phật:
“Bạch Thế Tôn, năm trăm người con của các trưởng giả này đã phát tâm tầm cầu giác ngộ tối thượng chánh đẳng chánh giác, nguyện được nghe sự thanh tịnh của quốc độ Phật. Xin Thế Tôn chỉ dạy chúng con những việc làm của Bồ tát dẫn đến quốc độ thanh tịnh.”
Phật bảo:
“Lành thay, Bảo Tích! Con đã vì chư Bồ-tát hỏi những việc làm vì quốc độ thanh tịnh của Như lai. Hãy lắng nghe và suy nghĩ. Ta sẽ nói cho con nghe.”
Bảo Tích và năm trăm thanh niên trưởng giả chăm chú nghe. Phật dạy:
*
“Bảo Tích, loại của chúng sinh là quốc độ Phật của Bồ tát. Vì sao như vậy? Vì Bồ tát tùy theo loại chúng sinh được giáo hoá mà tiếp nhận quốc độ Phật; tuỳ theo loại chúng sinh được điều phục mà tiếp nhận quốc độ Phật; tuỳ theo loại quốc độ nào thích hợp để chúng sinh thâm nhập trí của Phật mà tiếp nhận quốc độ Phật; tuỳ theo loại quốc độ nào thích hợp để chúng sinh làm trỗi dậy căn tính của Bồ tát mà tiếp nhận quốc độ Phật.
Là vì sao? Vì Bồ tát tiếp nhận quốc độ thanh tịnh chỉ vì lợi ích của chúng sinh. Ví như một người có thể xây dựng đền đài nhà cửa trên khoảng đất trống, tuỳ ý không trở ngại; nhưng không thể xây dựng như vậy ở giữa hư không. Cũng vậy, Bồ tát vì muốn thành tựu chúng sinh mà ước nguyện tiếp nhận quốc độ Phật. Ước nguyện tiếp nhận quốc độ Phật không thể tìm thấy giữa hư không.
“Bảo Tích, con nên biết, trực tâm là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh không dua vạy sẽ tái sanh vào đó.
“Thâm tâm là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào có đủ đầy công đức sẽ tái sanh vào đó.
“Bồ-đề tâm là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, hết thảy chúng sinh tầm cầu Đại thừa sẽ tái sinh vào cõi đó.
*
“Bố thí là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào có thể ban phát sẽ tái sinh vào đó.
“Trì giới là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh tu hành mãn nguyện mười thiện nghiệp đạo sẽ tái sanh vào đó.
“Nhẫn nhục là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào trang nghiêm bằng ba mươi hai tướng tốt sẽ tái sanh vào đó.
“Tinh tấn là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào cần mẫn thực hiện mọi công đức sẽ tái sinh vào đó.
“Thiền định là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào nhiếp tâm không tán loạn sẽ tái sinh vào đó.
“Trí tuệ là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh chánh định sẽ tái sinh vào đó.
“Bốn vô lượng tâm là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào thành tựu từ, bi, hỷ, xả sẽ tái sinh vào đó.
“Bốn nhiếp pháp là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào được nhiếp phục bởi giải thoát sẽ tái sinh vào đó.
“Phương tiện là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh nào biết diệu dụng phương tiện một cách vô ngại đối với hết thảy các pháp sẽ tái sinh vào đó.
*
“Ba mươi bảy đạo phẩm là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, chúng sinh có đủ niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn, giác chi, và chánh đạo, sẽ tái sinh vào đó.
“Tâm hồi hướng là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, quốc độ sẽ trang nghiêm đầy đủ công đức cao quý.
“Diễn thuyết để diệt trừ tám nạn là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, quốc độ sẽ không ba ác, tám nạn.
“Tự mình giữ giới, không phê bình người phá giới là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, quốc độ không nghe danh từ phạm cấm.
“Mười thiện là tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, sẽ không yểu mạng, sẽ giàu có, cuộc sống phạm hạnh, nói lời chân xác, ngôn ngữ dịu dàng, quyến thuộc không ly tán vì khéo hòa giải tranh chấp; lời nói tất lợi lạc cho người, không đố kỵ, sân hận, giữ gìn chánh kiến, sẽ tái sanh vào đó.
*
“Như vậy, Bảo Tích, tùy theo trực tâm ấy mà Bồ tát mới có thể phát khởi hành. Tùy theo sự phát khởi hành mà được thâm tâm. Tùy theo thâm tâm mà ý được điều phục. Tùy theo sự điều phục ý mà hành được như thuyết. Tùy theo hành như thuyết mà có thể hồi hướng. Tùy theo hồi hướng như vậy mà có thể diệu dụng các phương tiện.
Tùy theo phương tiện thích hợp thành tựu chúng sinh. Tùy theo sự thành tựu chúng sinh mà quốc độ Phật thanh tịnh. Tùy theo sự thanh tịnh của quốc độ mà thuyết Pháp thanh tịnh. Tuỳ theo sự thuyết pháp thanh tịnh mà trí tuệ thanh tịnh. Tùy theo trí tuệ thanh tịnh mà tâm thanh tịnh. Tùy theo tâm thanh tịnh mà hết thảy công đức đều thanh tịnh.
“Cho nên, Bảo Tích, nếu Bồ tát muốn làm thanh tịnh quốc độ, hãy làm thanh tịnh tự tâm. Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh.”
Bấy giờ, nương theo oai thần của Phật, Xá-lợi-phất chợt nghĩ: “Khi tâm của Bồ tát thanh tịnh thì quốc độ Phật thanh tịnh. Vậy há tâm của đức Thế Tôn không thanh tịnh hay sao mà quốc độ Phật này chẳng hề thanh tịnh?”
*
Phật biết ý nghĩ ấy, nói với Xá-lợi-phất:
“Ý ngươi nghĩ sao, mặt trời, mặt trăng há không tịnh chăng khi người mù chẳng thấy chúng sáng?”
Xá-lợi-phất đáp:
“Bạch Thế Tôn, đó là tại lỗi của người mù chứ không phải tại mặt trời mặt trăng không sáng.”
Phật nói:
“Này Xá-lợi-phất, do bởi tội của chúng sinh nên không thấy vẻ trang nghiêm thanh tịnh của quốc độ Phật; đó không phải do lỗi của Như lai. Xá-lợi-phất, cõi đất này của Ta thanh tịnh nhưng ngươi không nhận thấy đó thôi.”
Khi ấy, Phạm Thiên Loa Kế nói với Xá-lợi-phất:
“Chớ nghĩ rằng quốc độ này không thanh tịnh. Vì sao? Vì tôi thấy quốc độ Phật Thích-ca thanh tịnh, chẳng khác gì cung điện của trời Tự tại.“
Xá-lợi-phất bảo:
“Tôi thấy cõi này nào là gò nỗng, hầm hố, chông gai, toàn đất và đá; cái gì cũng nhơ bẩn.”
Phạm Thiên bảo:
“Là vì tâm của nhân giả có thấp có cao, chưa y theo tuệ của Phật, nên thấy cõi đất này bất tịnh. Xá-lợi-phất, vì Bồ tát bình đẳng với hết thảy chúng sinh, thâm tâm thanh tịnh, nương theo trí tuệ của Phật, nên có thể nhìn thấy cõi Phật này thanh tịnh.”
*
Bấy giờ, Phật ấn ngón chân của Ngài xuống đất. Ba nghìn đại thiên thế giới bỗng hóa rực rỡ với muôn vàn châu báu quí hiếm, trang nghiêm như cõi tịnh độ của Phật Bảo Trang Nghiêm, được trang hoàng bằng vô lượng công đức mà hội chúng ca ngợi là chưa từng thấy. Hơn nữa, mọi người đều thấy mình được ngồi trên một tòa sen lộng lẫy.
Phật nói với Xá-lợi-phất:
“Hãy quán sát vẻ thuần tịnh trang nghiêm của quốc độ này.”
Xá-lợi-phất thưa:
“Bạch Thế Tôn, con chưa từng thấy và nghe về đất Phật thanh tịnh trang nghiêm như vầy.”
Phật nói:
“Cõi Phật này của Ta thường thanh tịnh như vậy. Nhưng hiển hiện các thứ xấu xa uế tạp là để dẫn dắt những người căn trí thấp kém. Cũng giống như thức ăn của chư thiên có muôn màu hiển hiện tùy theo công đức của người ăn. Cho nên, Xá-lợi-phất, người có tâm thanh tịnh sẽ thấy đất này thanh tịnh.”
Khi Phật hiển hiện toàn vẻ trang nghiêm thanh tịnh của quốc độ này, năm trăm người con của các trưởng giả cùng đi với Bảo Tích chứng vô sanh pháp nhẫn,và tám mươi bốn ngàn người phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phật thâu lại thần túc, tức thì thế giới trở về hiện trạng cũ. Ba mươi hai ngàn chư thiên và người từng mong cầu quả vị Thanh-văn, thấy rõ tính vô thường của các pháp hữu vi, dứt lìa những cáu bẩn trần lao, được sự minh tịnh của con mắt pháp. Tám ngàn tì kheo không còn chấp thủ các pháp, dứt sạch các lậu, được giải thoát.
Để lại một bình luận