Tịnh Độ Hoặc Vấn là một trong những cuốn sách phá chấp bậc nhất dành cho những ai đang nghi ngờ Pháp môn Tịnh Độ. Cuốn sách phá nghi, đặc biệt phù hợp với những người căn tánh bậc Thượng, nhất là các Thiền giả trong thời Mạt pháp.
Đọc cuốn sách này ta sẽ hiểu được tại sao chư Tổ sư khi đắc đạo đều quay lại cực lực hoằng dương Tịnh Độ. Đối với những người chấp chết cứng vào Minh Tâm Kiến Tánh, các Ngài đều một hai khuyên Thiền Tịnh Song Tu. Bởi người tu Thiền khi chưa Chứng đạo mà vô thường đến, vẫn có Cực Lạc làm nẻo chỉ quy, chẳng đến nỗi trôi lăn trong sanh tử luân hồi.
- Niệm Phật Tông Yếu – Pháp Nhiên Thượng Nhân.
- Tịnh Độ Thập Nghi Luận.
- Sắc tức thị không giảng giải.
- Chặt cây xanh cần thận trọng.
- 12 Bộ kinh Đại Thừa là những gì.
- Giàu sang phú quý do đâu mà có.
- Duyên nợ vợ chồng vốn từ nhiều đời kiếp
Tịnh Độ Hoặc Vấn
Đời Nguyên, Sư Tử Lâm Thiên Như trước tác.
Đời Minh, Ngài Vân Thê Châu Hoằng biên tập, đệ tử Quảng Tín hiệu đính.
***
Thiên Như lão nhân đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa vân, có người khách đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhân bèn mời ngồi. Ngồi lâu, ánh tịch dương xuyên qua song trúc, lò hương thiền khói sắp muốn tan. Khách bèn đứng dậy, thư thả mà hỏi.
Hỏi: Trộm nghe xưa Hòa thượng Vĩnh Minh Diên Thọ, bẩm thọ môn học đơn truyền nơi Thiều quốc sư ở núi Thiên thai, là cháu đích tôn của Ngài Pháp Nhãn. Khi Hòa thượng trụ trì chùa Tịnh Từ ở Hàng Châu, chúng có đến mấy ngàn, biện tài cơ trí như gió cuốn sấm vang, thiền lâm trong và ngoài nước đều tôn xưng Ngài là bậc đại tông trượng. Cớ sao ngoài việc nói Thiền, Ngài còn tự tu Tịnh độ, lại còn dạy người, viết sách để truyền bá pháp môn Tịnh độ ở thế gian, đồng thời còn soạn kệ Tứ liệu giản, đại để nói: “Có thiền không Tịnh độ; mười người chín lầm đường… không Thiền có Tịnh độ; muôn tu muôn người sinh.”
Xem qua những lời dạy như thế, thì Ngài đã chủ trương Tịnh độ, không ít nhiều khoan dung, tự hạ thấp môn thiền của mình, hơi quá lời tán thán Tịnh độ. Điều này rất nhiều vị sinh tâm nghi ngờ, mong Ngài giải thích cho?
*
Đáp: Lời hỏi của ông thật thích đáng. Ông nên biết Đại sư Vĩnh Minh chẳng phải là quá lời tán thán pháp môn Tịnh độ, mà thật ra lời nói của Ngài có công rất lớn đối với bên Tông cả bên Giáo. Chỉ tiếc Ngài Vĩnh Minh lược nói đại cương, mà chưa phát minh hết ý thú, nên chưa đánh tan hết các mối nghi hoặc của Thiền giả. Tôi xưa nay học về Thiền, chưa am tường mấy về giáo lý Tịnh độ, nên cũng thường xem qua mấy bộ sách Tịnh độ, nên có được chút hiểu biết Tịnh độ vốn là môn dễ thực hành, dễ chứng đắc, nhưng cũng là pháp khó nói, khó tin.
Vì thế, lúc Đức Từ phụ Thích-ca còn tại thế, Ngài vì các đệ tử mà thuyết kinh A-di-đà, đã dự biết trước chúng sinh thời Mạt pháp khó sinh lòng tin tưởng, quy hướng. Do đó, Ngài đã dẫn lời sáu phương chư Phật hiện tướng lưỡi rộng dài nói lời thành thật, để phát khởi lòng tin và phà trừ mọi nghi hoặc của chúng sinh. Ở cuối bản kinh, nhân nói việc chư Phật tán thán mình, Ngài lại tự nói: “Nên biết Ta ở đời ngũ trược ác thế, thường làm các việc khó làm, vì tất cả chúng sinh ở thế gian này mà nói pháp khó tin này, đây quả thật là điều vô cùng khó!” Đó là những lời tha thiết ân cần dặn dò, khuyến khích sách tấn các chúng sinh tin tưởng.
*
Vả lại, Đấng Đại Bi Thế Tôn rủ lòng thuyết giáo cứu đời mạt kiếp, phàm chính từ kim khẩu của Ngài nói ra, một câu một bài kệ, hàng nhân và phi nhân đều tín thọ phụng hành, chỉ riêng về pháp môn Tịnh độ, thì thế gian có sự nghi ngờ. Vì sao? Do vì giáo môn Tịnh độ rất rộng lớn, nhưng pháp tu thực rất đơn giản. Với pháp môn rất rộng lớn mà rất dễ hành trì, nên người nghe phần nhiều không thể không sinh tâm nghi ngờ.
Nơi rộng lớn là pháp môn này thâu nhiếp hết mọi căn cơ, trên đến hàng Nhất sinh bổ xứ trong địa vị Đẳng giác Bồ-tát cũng cầu sinh Tịnh độ, dưới đến hàng ngu phu ngu phụ, cùng hàng vô trí phạm đủ tội ngũ nghịch thập ác, khi lâm chung chỉ cần rủ lòng sám hối, hướng tâm về Tịnh độ, đều quyết được vãng sinh. Còn nói giản dị là pháp môn này, người tu không phải trải qua sự hành trì gian lao cực nhọc, chỉ cần chuyên tâm trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, do công đức đó mà sớm lìa bỏ cõi Ta-bà, vãng sanh về thế giới Tịnh độ, chứng đắc quả vị Bất thoái chuyển, từ đó lần đến thành Phật mới thôi.
Bởi do sự rộng lớn của pháp môn Tịnh độ như kia, sự giản đơn của pháp môn Tịnh độ như nay. Vì thế, mặc dù là kẻ trí,vẫn không thể không sinh nghi ngờ. Nay ông đã hiểu như thế, thì có thể biết những lời tán thán của đại sư Vĩnh Minh đối với pháp môn Tịnh độ là có ý sâu xa và không quá đáng lắm vậy.
*** Tịnh Độ Hoặc Vấn ***
Hỏi: Việc rộng lớn mà lại giản dị của pháp môn Tịnh độ, tôi đã từng nghe chỉ dạy. Những bậc đại trí trong Thiền tông đã gọi là kiến tánh thành Phật, thì cần gì phải cầu sinh về cõi Tịnh độ?
Đáp: Do ông chưa biết mới nói đó thôi. Chứ thật ra những bậc đại trí đạt ngộ Thiền, lại càng sinh tâm khẩn thiết cầu sinh Tịnh độ. Cổ nhân nói: “Nếu không cầu sinh Tịnh độ, thì còn cảnh nào để cầu sinh.” Do hiện nay ông chưa đạt ngộ, còn bằng ông đã đạt ngộ rồi, thì e rằng chí nguyện cầu sinh Tây phương của ông, vạn trâu kéo cũng không lại.
Hỏi: Chư Phật và các bậc Tổ sư sở dĩ xuất hiện ở thế gian là vì sự giáo hóa chúng sinh. Người tu hành vì chưa xong đại sự, còn như đại sự đã xong, thì nên nỗ lực giáo hóa, tùy loại hóa thân vào các nơi khốn khổ, không ngại đường sinh tử mà rộng độ chúng sinh. Nay kẻ đã đạt ngộ, lại mang tâm cầu sinh Tịnh độ, tức là chán khổ cầu vui, không đoái hoài gì những kẻ đang đắm trong biển sinh tử? Với việc chán khổ cầu vui như thế, hoàn toàn không phải là sở nguyện của tôi?
*
Đáp: Vừa thấy trứng không muốn đợi qua đêm mà muốn nở, tâm niệm đó quả thật là gấp gáp. Ông cho rằng người tu hành một phen sau khi tỏ ngộ, thì lậu tập hoàn toàn tiêu diệt, bèn chứng được quả vị Bất thoái chuyển sao? Ông cho rằng một phen sau khi đạt ngộ, lại không cần phải học Phật pháp, không cần phải tiếp tục tu hành để chứng đắc quả vị từ thấp lên cao sao? Ông cho rằng một phen sau khi đạt ngộ, liền có thể ngang bằng với chư Phật, có thể ra vào sinh tử, không bị các chướng duyên làm nhiễu loạn hay sao? Xét như thế, thì chư vị Bồ-tát trải qua hằng hà sa số kiếp tu lục độ vạn hạnh, cũng đều xấu hổ đối với ông.
Người xưa từng dạy: “Bồ-tát còn mê khi cách ấm, Thanh văn còn muội khi xuất thai.” Huống gì thời nay, người hiểu mỏng ngộ cạn, nói việc tự cứu mình còn chưa xong. Giả sử có chỗ đạt ngộ sâu xa, trí thông hiểu cao sáng, hạnh cùng giải tương ưng, chí nguyện muốn độ người mãnh liệt.
Nhưng ngặt nỗi, người tu hành khi chưa chứng lên quả Bất thoái, thì lực dụng chưa đầy đủ, mà muốn ở lại cõi Ta-bà ác trược này để giáo hóa chúng sinh cang cường, việc này hàng Tiên Thánh còn chưa dám hứa. Ví như người đem chiếc thuyền đóng trám chưa kỹ, chèo ra giữa biển sóng lớn để vớt người, tất yếu mình và người đều bị đắm chìm, lý do tất nhiên là như vậy.
*
Vì thế trong luận Vãng Sinh nói: “Muốn thong dong du hí nơi cõi địa ngục, tất trước phải cầu sinh Tịnh độ. Sau khi đã chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn rồi, mới trở lại sinh tử cứu khổ chúng sinh. Do nguyên nhân như thế, mà người tu hành cần phải cầu sinh Tịnh độ. Lai các bậc Tiên Thánh có nói: “Người tu khi chưa chứng được quả vị bất thoái, không thể vào cõi tục hóa độ chúng sinh. Chưa chứng được Vô sinh pháp nhẫn, cần phải thường không xa rời Phật. Ví như trẻ thơ, không thể rời mẹ, lại như chim non không thể chuyền cành.”
Nay ở cõi Ta-bà, Đức Thích-ca đã diệt độ, Đức Di-lặc chưa hạ sinh. Huống nữa cõi này bốn ác khổ thú, nhân quả dây dưa, đầy khắp ngoại đạo tà kiến, thị phi làm rối loạn. Sắc đẹp tiếng dâm hằng mê hoặc, cảnh duyên uế độc mãi phủ quanh. Hiện tại đã không có Phật để nương, lại còn bị cảnh duyên nhiễu loạn. Hàng sơ tâm ngộ đạo, mấy ai gặp cảnh ngộ như thế mà không bị thối bại.. Vì vậy, Thế Tôn đã ân cần chỉ thẳng lối về thế giới Cực lạc, là cũng bởi lý do đó.
Bởi Đức A-di-đà kia đang hiện tại thuyết pháp, thắng duyên cõi Cực lạc, đầy đủ các món thanh tịnh, lại nương vào sức Phật, nên nhẫn lực dễ thành. Quyết sớm chứng được quả vị Phật, thân cận Phật ắt được thọ ký. Sau đó trở lại cõi Ta-bà giáo hóa chúng sinh, ra vào tự tại.
*
Do bởi các nguyên nhân như thế, mà kẻ thượng căn lợi trí còn nguyện thác sinh, huống gì ông thuộc vào loại trung căn, đối với sự tu hành có đôi chút tỏ ngộ.
Ông không thấy trong kinh Quán Phật Tam-muội, Ngài Văn-thù-sư-lợi tự bày tỏ túc nhân của mình: “Ta đã chứng đắc được pháp Niệm Phật Tam-muội, thường cầu sinh về cõi Tịnh độ.” Thế Tôn bèn thọ ký cho Bồ-tát Văn-thù: “Ông sẽ được vãng sanh về thế giới Cực lạc.” Lại không thấy trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Phổ Hiền khuyến tấn đồng tử Thiện Tài cùng đại chúng hải hội, dùng mười đại nguyện làm chỗ quy hướng về thế giới Cực lạc.
Kệ nói: “Nguyện tôi khi đến lúc lâm chung. Dứt trừ tất cả điều chướng ngại. Diện kiến đức Phật A-di-đà. Liền được vãng sanh về cõi Cực lạc.” Lại nói: “Chúng hội Di-đà đều thanh tịnh. Tôi từ hoa sen nở ra. Thân thấy Đức Phật Vô Lượng Quang. Liền thọ ký tôi đạo Bồ-đề. Nhờ Đức Phật kia thọ ký rồi. Tôi hóa vô số vạn ức thân. Trí tuệ rộng lớn khắp mười phương. Khắp lợi tất cả Pháp giới.”
Ông lại không thấy bài kệ thọ ký Bồ-tát Long Thọ trong kinh Lăng-già:
Trong nước Nam Thiên trúc
Có danh đức Tỳ-kheo
Tôn hiệu là Long Thọ
Khéo phá vô tông hữu
Pháp vô thượng Đại thừa
Chứng sơ Hoan hỷ địa
Sinh về nước Cực lạc.”
*** Tịnh Độ Hoặc Vấn ***
Lại không thấy trong luận Đại thừa Khởi Tín, Bồ-tát Mã Minh có lời phát nguyện vãng sanh. Trong luận Vô Lượng Thọ, Bồ-tát Thế Thân cũng hết sức tán thán pháp môn Tịnh độ. Lại không thấy trong kinh Đại Bảo Tích, Đức Phật ấn chứng hứa khả cho vua Tịnh Phạn cùng bảy vạn người họ Thích, đồng vãng sinh nước An dưỡng. Trong kinh Thập Lục Quán, Đức Phật đã chỉ dạy phu nhân Vi-đề-hy cùng năm trăm tỳ nữ, thành tựu ý nguyện lễ bái đức Phật A-di-đà. Lại nữa, đức vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Vi-đề-hy… đều là các bậc hiện tiền chứng được Vô sinh pháp nhẫn.
Ở Tây Trúc, số vị được vãng sinh Tịnh độ như thế không thể tính xiết được. Còn ở Đông độ, có Đại sư Tuệ Viễn ở Lô Sơn, cùng những vị cao nhân kết hội Bạch Liên xã. Các bậc tôn túc trong các tông Thiên Thai, Hiền Thủ, ngoài việc tự tu Tịnh độ còn đem giáo hóa người, kẻ tăng lẫn tục, được vãng sinh Tịnh độ, số lượng như thế không sao xiết kể. Đến như hai Ngài Văn-thù, Phổ Hiền đều là bậc đại Bồ-tát; đồng tử Thiện tài và hải chúng Hoa tạng đều là những vị Thiện tri thức, sự tỏ ngộ đồng hàng với Bồ-tát thập địa. Các Ngài Mã Minh, Long Thọ cũng đều là những bậc đại tổ sư của Thiền tông.
*
Các bậc Thánh nhân trên, chỗ chứng ngộ của họ so với kẻ chứng ngộ ngày nay có được mấy người. Thế mà các Ngài, đều nguyện vãng sanh về thế giới Cực lạc, thân cận đức Phật A-di-đà. Còn ông cho rằng sau khi đã tỏ ngộ, thì không cần cầu sinh Tịnh độ. Như thế thì các bậc đại Bồ-tát như Văn-thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ… so ra đều không bằng ông.
Sao ông lại không tự xét tâm, tự lượng sức tu của mình, thật có hơn hai vị đại Bồ-tát, hai vị đại Thiền tổ đó không. Chỗ tham học các bậc Thiện tri thức, chỗ đạt ngộ Phật tánh của ông, thật có hơn đồng tử Thiện Tài và hải chúng Hoa tạng đó không. Chỗ chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn, được Phật ấn chứng có hơn đức vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Vi-đề-hy hay không.
Lại đức vua Tịnh Phạn là thân phụ của Phật, bảy vạn người họ Thích là quyến thuộc của Phật. Nếu sinh về Tịnh độ, là không có sự lợi ích, thì Phật nỡ nào đi dối trá thân phụ và bà con quyến thuộc của mình. Trước đây, nói người là chứng Vô sinh pháp nhẫn, có thể vào tục hóa độ chúng sinh, nay thân phụ và bà con của Ngài đã chứng được nhẫn lực này, thế mà đức Phật còn thọ ký cho họ vãng sinh, thì tấm lòng bảo hộ và hộ trì của Đức Như Lai, chẳng phải là thân thiết lắm sao.
*
Tôi thấy rất nhiều vị tu Thiền ngày nay, không xét liễu nghĩa của Như Lai, không rõ huyền cơ của Đạt-ma, bụng rỗng lòng không, tập quán thành cuồng vọng. Khi thấy người tu Tịnh độ, thì cười ngạo nói: “Đó là chỗ học chỗ làm của ngu phu, ngu phụ.”
Tôi cho rằng lời nói đó không phải là khinh thường các hàng ngu phu ngu phụ mà chính là khinh thường các vị Bồ-tát như Văn-thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ. Người đó tự mê chánh đạo, tự làm mất thiện căn, tự làm hại tuệ thân mà còn làm mất giống Phật, trở thành nghiệp phỉ báng chánh pháp, lại còn chiêu cảm nghiệp khinh chúng tăng. Chư Phật, chư Tổ các Ngài thấy vậy vô cùng thương xót.
Nhân đây, Hòa thượng Vĩnh Minh, vô cùng thương xót, đem hết tâm cang chủ trương pháp môn Tịnh độ, không những Ngài tự tu, mà dùng pháp Ngài để giáo hóa người khác. Cho nên, khi lâm chung, Ngài biết trước giờ chết, có các tướng đặc biệt thù thắng, như lúc trà tỳ xá-lợi từ thân tuôn ra vô số.
Nghe nói có một vị Tăng ở Phủ châu, thường ngày cung kính đi nhiễu xung quanh tháp Ngài, mọi người hỏi lý do, vị Tăng đó đáp:
*
“Nhân tôi khi bệnh nặng, thần thức đi vào minh giới, Diêm vương xét thấy dương số chưa hết, bèn cho trở về. Tôi thấy bên trái điện Diêm vương thiết bàn thờ bức tượng của một vị Tăng, Diêm vương lễ bái cung kính. Tôi hỏi vị chủ quan, vị đó đáp: “Đó là Thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ, do Ngài tu hành tinh tấn, được sinh về thượng phẩm ở cõi Cực lạc, cho nên Diêm vương họa bức tranh của Ngài để lễ bái.”
Xét đại sư Vĩnh Minh đã tỏ ngộ Thiền trực chỉ của Đạt-ma Tổ sư, lại gửi thân nơi cõi Cực lạc, do đó mà giải mở mối tình chấp của người tu Thiền và cũng làm duyên khuyến tấn cho chúng sinh trong thời mạt pháp. Vì thế tôi nói Ngài có công rất lớn đối với cả bên Tông bên Giáo là ở điểm đó.
Song chẳng phải đặc biệt chỉ có Thiền sư Vĩnh Minh mà thôi. Như Thiền sư Tử Tâm Tân có trước tác văn khuyến tu Tịnh độ, có đoạn viết: “Di-đà rất dễ niệm, Tịnh độ rất dễ sinh.” Lại nói: “Người tham thiền rất cần kiêm thêm niệm Phật. Nếu có kẻ căn cơ ngu độn, sợ e rằng đời này chưa được đại ngộ, thì cần nương tựa nguyện lực Di-đà, tiếp dẫn vãng sanh Cực lạc.” Lại nói: “Các ông nếu nhất tâm niệm Phật mà không được vãng sinh Tịnh độ, lão Tăng này xin đọa địa ngục Rút lưỡi.”
*** Tịnh Độ Hoặc Vấn ***
Lại như Thiền sư Chân Yết Liễu khi trước tác văn Tịnh độ, có nói: “Người trong tông Tào Động cần nên tu Tịnh độ, vì sao như thế. Do bởi pháp môn niệm Phật là đường tắt tu hành. Xét trong Đại tạng, pháp môn này, ngoài việc thâu nhiếp căn khí thượng thượng, còn thâu nhiếp căn cơ trung hạ: Lại nói: “Bậc đại tượng trong tông môn, đã đạt ngộ pháp bất không bất hữu, lại còn hướng về chăm chú nơi Tịnh nghiệp, thế chẳng phải sự thấy Phật của Tịnh nghiệp rất dễ so với tông môn sao?”
Lại nói: “Cho dù Phật hay Tổ, bên Giáo hay bên Thiền, đều tu Tịnh độ, đồng quy về một nguồn. Vì thế, nhập vào được môn này, thì vô lượng pháp môn đều được nhập vào.”
Đến như các Ngài Thiên Y Hoài Thiền sư. Viên Chiếu Bản Thiền sư. Từ Thọ Thâm Thiền sư. Nam Nhạc Tư Thiền sư. Pháp Chiếu Thiền sư. Tịnh Đại Từ Thông Thiền sư. Thiên Thai Hoài Ngọc Thiền sư. Lương Đạo Trân Thiền sư. Đường Đạo Xước Thiền sư. Tỳ Lăng Pháp Chân Thiền sư. Cô Tô Thủ Nạp Thiền sư. Bắc Nhàn Giản Thiền sư. Thiên Mục Lễ thiền sư…
Những bậc đại lão đó, đều là những bậc đại tông tượng trong Thiền môn. Xét ra các Ngài đều hoặc mật tu, hoặc hiển hóa phát dương tông chỉ Tịnh độ, tuy không ước hẹn mà ngẫu nhiên đồng đường. Song, chẳng phải chỉ có các bậc đại lão như thế mà thôi.
*
Tôi từng nghe một vị lão túc bên Tông môn nói: “Hợp ngũ gia tông phái, hầu hết các Thiền tăng trong thiên hạ, hoặc đã ngộ hoặc chưa ngộ, không có vị nào là không quy hướng Tịnh độ.”
Tôi bèn hỏi nguyên do, vị đó đáp: “Như Thiền sư Bách Trượng Đại Trí Hải, là vị nối pháp truyền đạo của Giang Tây Mã Tổ, những Tòng lâm trong thiên hạ, đều nương theo cách thức của Ngài mà kiến lập. Từ xưa đến nay, không có một ai dám có lời thị phi. Thanh quy trong Thiền môn đều theo Ngài chế mà thi hành, không có một người nào làm trái pháp.
Theo nghi thức thanh quy thì nghi thức cầu cho những vị Tăng bệnh nặng như sau: “Tập hợp đại chúng lại, tất cả đồng tụng một bài kệ xưng tán Phật A-di-đà, lại đồng thanh xưng tụng Phật hiệu Nam-mô A-di-đà Phật ngàn biến, rồi phục nguyện hồi hướng: “Nếu các duyên chưa hết, mong sớm được khỏe mạnh. Còn bằng số mạng khó tránh, thì được sinh về An dưỡng.” Đây chẳng phải là bằng chứng chỉ quy về Tịnh độ hay sao?
Lại xem trong nghi thức cử hành tang lễ vị Tăng có đoạn: “Đại chúng đồng niệm Phật và phục nguyện hồi hướng: “Thần siêu cõi Tịnh, nghiệp dứt cõi trần, thượng phẩm sen nở hiện kim thân, nhất sinh Phật trao phần quả ký.” Đây chẳng phải là bằng chứng chỉ quy về Tịnh độ hay sao.
*
Đến lúc trà tỳ, cũng chẳng có gì khác, vị Duy na cầm khánh cao tiếng xướng Nam-mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A-di-đà Phật và đại chúng xướng họa theo, cứ như thế mà niệm mười lần. Đây gọi là pháp thập niệm.
Xướng và đại chúng hòa xong, vị Duy-na lại hồi hướng: “Trên đây đại chúng đã xưng mười niệm, phụ giúp vãng sanh.” Đây chẳng phải là bằng chứng chỉ quy về Tịnh độ hay sao. Kể từ Thiền sư Bách Trượng trở về sau, trong Thiền môn, phàm có vị Tăng nào viên tịch, đều y theo pháp thức này cử hành tang lễ. Cho nên nói toàn thể ngũ gia tông phái, hầu hết các vị Thiền tăng trong thiên hạ, không có bất cứ vị nào mà không quy hướng về Tịnh độ, điều đó không đúng sao.
Tôi nghe những lời dẫn chứng của vị lão túc này, đều có y cứ nên không thể biện bác như thế nào được. Lại nhân những lời vị đó nói, tôi chợt ngộ ra thâm ý của Tổ sư Bách Trượng, chẳng những đầy đủ mà hoàn toàn đúng vậy. Xưa nay ông ở Tòng lâm, đích thân đã đưa biết bao nhiêu vị Tăng viên tịch. Việc hồi hướng thập niệm, trong miệng xướng lên, tai nghe rõ tiếng, không biết bao nhiêu lần. Ông đã không hiểu được ý Tổ sư lại tự thân không chánh tâm tỉnh giác, còn vọng nói kẻ ngộ đạo không nên nguyện sinh Tây phương. Quả thật sự chấp trước của ông, kẻ tu thiền trong thiên hạ e rằng không ai bằng.
*** Tịnh Độ Hoặc Vấn ***
Hỏi: Sự nhiếp cơ của pháp môn Tịnh độ, nay đã được Ngài giải thích rõ, kẻ ngu này không dám luận bàn. Nhưng tôi lại thường nghe thuyết duy tâm Tịnh độ, bản tính Di-đà, trong tâm có ý vui mừng, rồi xem trong các kinh luận, đều nói Tịnh độ là cõi Cực lạc cách xa thế giới Ta-bà này mười vạn ức Phật độ, nghĩa là đức Di-đà là giáo chủ cõi Cực lạc, như vậy, cõi kia cách đây rất xa, ngoài nghĩa duy tâm bản tánh, vấn đề này như thế nào?
Đáp: Lời hỏi của ông còn nông cạn lắm. Ông không biết chân tâm của ông rộng lớn vô cùng. Kinh Lăng-nghiêm nói: “Những núi sông, đất đai cho đến hư không ngoài sắc thân ta, đều là vật nằm trong chân tâm vô cùng sáng suốt.” Lại nói: “Chỗ xuất sinh các pháp đều từ nơi tâm hiện ra. Có cõi Phật nào nằm ngoài tâm ta.” Do đó, nên biết lý Tịnh độ duy tâm là ngoài tâm không có quốc độ, như biển cả nổi lên vô lượng bọt sóng, nhưng không có một bọt sóng nào nằm ngoài biển cả.
Lý duy tâm Tịnh độ, là ngoài tâm không có quốc độ, như vô lượng trần đều nương nơi đại địa. Lại nên biết các vị Tiên Thánh nói: “Do từ một tâm này mà có đủ bốn độ. Bốn độ là Phàm Thánh đồng cư độ, Phương tiện hữu dư độ, Thật báo vô chướng ngại độ và Thường tịch quang Tịnh độ.”
*
Cõi Phàm Thánh đồng cư độ chia làm hai loại, đó là đồng cư uế độ và đồng cư Tịnh độ. Đồng cư uế độ là như cõi Ta-bà ở trong quốc độ này, có Phàm có Thánh, mà Phàm Thánh đều có hai hạng. Hai hạng của Phàm là ác chúng sinh tức là bốn ác thú và thiện chúng sinh là người trời. Hai hạng của Thánh, là thật Thánh tức là các Thánh nhân thuộc bốn đạo quả, hàng Bích-chi-Phật, bậc lục địa trong Thông giáo, thập trụ trong Biệt giáo, Thập tín hậu tâm trong Viên giáo. Các bậc Thánh này tuy phần thông hoặc đã dứt sạch, nhưng quả báo về sắc thân vẫn còn, nên gọi là “Thật”.
Hạng “Quyền” Thánh là các vị Pháp thân và Diệu giác Phật trong cõi Phương tiện Thật báo tịch quang độ. Các Ngài vì ham muốn lợi lạc cho những kẻ hữu duyên, nên ứng hiện sinh vào cõi đồng cư, như thế đều gọi là “quyền” Thánh. Các bậc Thánh như thế cùng với hàng phàm phu đồng ở chung nên gọi là Phàm Thánh đồng cư độ.
Cõi này vì có bốn ác thú ở chung nên gọi là uế độ. Còn cõi đồng cư Tịnh độ, là như thế giới Cực lạc, mặc dù quả báo rất thù thắng, cõi Ta-bà này không thể so bì, nhưng cũng gọi là Phàm Thánh đồng cư độ. Vì sao? Bởi thế giới Cực lạc tuy không có bốn ác thú, nhưng còn có trời người, những vị đó được sinh về Cực lạc, chưa hẳn là người đắc đạo.
*
Như kinh Vô Lượng Thọ nói: “Kẻ phạm vào các trọng tội ngũ nghịch, thập ác, đến khi lâm chung, phát tâm niệm Phật sám hối, quyết được vãng sinh.” Nên biết thế giới Cực lạc, các chúng sinh tuy còn hoặc nhiễm vẫn được ở chung, hai bậc Thánh thật và quyền đồng như cảnh Ta-bà. Nhưng vì cõi này không có bốn ác thú, nên gọi là đồng cư Tịnh độ. Lại để nói rõ tướng của các cõi Tịnh, có rất nhiều sự sai khác. Như thế giới Vô Động, tuy cũng là cõi Tịnh, nhưng cõi này còn có núi Tu-di và chúng sinh còn có tướng nam nữ. Tịnh độ vốn có nhiều cõi bất đồng, uế độ cũng có nhiều chủng loại sai khác.
Cõi Phương tiện hữu dư độ là chỗ cư trú của hàng Thánh nhị thừa và ba hạng Bồ-tát đã chứng phương tiện đạo. Những vị này nếu tu hai món quán, đoạn trừ thông hoặc, dứt sạch trần sa hoặc nhưng biệt hoặc và vô minh chưa đoạn. Khi xả thân phần đoạn mà sinh ngoại giới, thọ thân pháp tánh. Tức những vị này vẫn còn chịu sự chi phối của biến dịch sinh tử. Vì thế cõi của những vị này cư trú gọi là hữu dư, bởi do họ chưa đoạn được vô minh. Gọi là phương tiện vì đó là chỗ cư trú của những hành nhân tu chứng phương tiện đạo.
Vì thế, Thích luận nói: “Ngoài tam giới có Tịnh độ, đây là chỗ cư trú của hàng Thanh văn, Bích-chi-Phật, thọ thân pháp tánh, không còn chịu sự phần đoạn của sinh tử.”
*** Tịnh Độ Hoặc Vấn ***
Còn cõi Thật báo vô chướng ngại độ. Ở cõi này, không có hàng nhị thừa, mà chỉ thuần là các bậc Pháp thân Bồ-tát cư trú. Những vị này đã phá từng phần vô minh, hiển thị pháp tánh, chứng đắc quả chân thật. Nhưng vì họ chưa đoạn hết vô minh nên còn bị chi phối của nghiệp vô lậu, thọ pháp tánh Báo thân, nên cũng gọi là Quả báo độ. Kinh Nhân Vương nói: “Tam hiền thập tánh trụ quả báo” là ý đó. Trong kinh Hoa Nghiêm thuyết minh về thế giới Nhân-đà-la võng chính là cảnh này.
Cõi Thường tịch quang Tịnh độ, là lý pháp giới như như, trí tuệ sáng suốt khắp chiếu của bậc đại giác, lấy ý đó đặt tên quốc độ, còn gọi là Pháp tánh độ. Nhưng chân như Phật tánh chẳng phải thân, chẳng phải độ, nên nói là thân độ. Lìa thân không có độ, lìa độ không có thân, gọi là thân độ. Một pháp có hai nghĩa, quán Phổ Hiền, trụ xứ Tỳ-lô-giá na gọi là Thường tịch quang. Hai cõi trước là Ứng thân, là chỗ ở của Ứng thân Phật. Cõi thứ ba vừa thuộc về Ứng thân vừa thuộc Báo thân, là chỗ ở của Báo thân Phật. Cõi thứ tư chỉ là chân thân, chẳng phải Ứng và Báo, đây là chỗ ở của Pháp thân Phật.
Lại nói: “Thường là Pháp thân, tịch là giải thoát, quang là Bát-nhã, như thế của chữ y, không có cách biệt ngang dọc, gọi đó là bí mật tạng, là chỗ du hóa của chư Phật Như Lai, chân thường cứu cánh, cõi Tịnh độ thanh tịnh cùng cực.”
*
Do quan sát tâm như thế, nghĩa là mười phương vi trần quốc độ đều là cõi nước ở trung tâm chúng ta. Ba đời hằng hà sa chư Phật đều là chư Phật ở trong tâm chúng ta. Hiểu được lý này, thì biết không có quốc độ nào mà không nương nơi tâm chúng ta kiến lập. Không có vị Phật nào mà không nương nơi bản tánh của chúng ta mà hiển hiện. Thế thì cõi Cực lạc cách xa ngoài mười vạn ức Phật độ, chẳng phải là cõi Tịnh độ nơi tâm chúng ta sao? Giáo chủ của thế giới Cực lạc chẳng phải là Đức A-di-đà ngoài bản tánh chúng ta sao.
Lại nên biết chỉ một tâm này, bao hàm mười cõi giới, thân và độ dung thông, trùng trùng vô ngại. Lại nên biết tâm, Phật và chúng sinh, ba món đó không có sự sai khác, chúng sinh và Phật tương trợ đồng hiện, niệm niệm giao tham. Do vậy mà cổ đức từng nói: “Chư Phật ở trong tâm chúng sinh, mỗi trần đều là Cực lạc. Chúng sinh trong tâm chư Phật, mỗi niệm là Di-đà.”
Lại nói: “Mười phương tịnh uế, gom về trong khoảng một sát-na. Mỗi niệm sắc tâm, bủa khắp gồm thâu nơi pháp giới.” Như thế thì biết tất cả các nước pháp đều sẵn đủ trong thể thiên chân, chẳng phải do duyên khởi mà thành lập. Một niệm đã như thế, một trần cũng như vậy. Cho nên nói: “Trong mỗi mỗi trần tất cả cõi; trong mỗi mỗi tâm tất cả tâm; mỗi mỗi tâm trần lại khắp nhau, Trùng trùng vô tận không chướng ngại; một lúc hiện rõ không ẩn hiện; Tất cả viên thành chẳng kém hơn.”
*
Nếu hạt thần châu bao trùm các báu, ví như ánh sáng lưới báu trời Đế Thích ảnh hiện khắp ngàn châu. Tâm ta đã như thế, chúng sinh và Phật đồng một thể. Như thế thì thần thức dạo chơi đến muôn quốc độ, thật là sinh ở tâm ta, gá thân nơi cửu phẩm liên đài, chẳng phải là không ở nơi sát-na sao?
Lại nói: “Thế giới Cực lạc biến khắp tất cả xứ, tuy là một mà toàn thâu. Như trên điện Đế Thích, ngàn châu trong lưới báu, ánh sáng của ngàn châu đều gom hiện vào một hạt châu và ánh sáng một hạt châu lại hiện khắp vào tất cả các hạt châu. Tuy mỗi hạt châu giao hiện lẫn nhau, lìa ra mà chẳng phân chia, ánh sáng thảy đều chiếu khắp lẫn nhau, cũng không sở tại.
Thế giới Cực lạc cũng như một hạt châu trong muôn ngàn hạt châu thế giới khác. Mười vạn ức cõi nước đều như muôn hạt châu trong một hạt châu thế giới Cực lạc. Cho đến khắp khắp cõi tam thừa Thánh nhân trời, người, cho đến các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và A-tu-la, mỗi mỗi cõi cũng không khác một hạt châu trong ngàn hạt châu và Đức A-di-đà cũng là một hạt châu trong ngàn hạt châu.
Cho nên, thấy được một vị Phật, là thấy mười phương chư Phật, cũng là thấy chín cõi chúng sinh ở mười phương. Hằng sa vi trần quốc độ, mười phương kim cổ, toàn thể đều là một hải ấn đốn viên không có gì khác.
*
Những lời dẫn giải trên đây đều là những lời di huấn của chư Phật, Tổ, Thánh hiền đã tuyên dương. Nếu hiểu được lý này, thì sẽ biết được thế giới Cực lạc là duy tâm, mỗi mỗi cõi Phật, mỗi mỗi điểm trần đều là duy tâm. Đức A-di-đà là bản tánh, mỗi vị Phật, mỗi chúng sinh đều là bản tánh. Như thế ông lại còn nghi ngờ gì nữa.
Hỏi: Đã nói tịnh và uế đều dung thông, mỗi điểm trần đều là Cực lạc. Cớ sao thế giới Ta-bà lại trở thành uế độ?
Đáp: Kẻ phàm phu do bị nghiệp hoặc chi phối, mà chính ngay nơi tịnh thành uế, còn chỗ thấy chư Phật thì uế đều thành tịnh. Chẳng lẽ cảnh quả báo của Đức Phật Thích-ca mà là quả uế trược hay sao.
Hỏi: Tôi đã tin lý duy tâm rộng lớn, hàm nhiếp tất cả, viên dung không chướng ngại. Nhưng sao còn có kẻ trệ nơi tình mê, chưa thoát nghiệp uế, thì quốc độ duy tâm, họ làm sao được thanh tịnh?
Đáp: Tâm cấu uế thì quốc độ ô trược, tâm thanh tịnh thì quốc độ thanh tịnh. Vì vậy, kinh Duy-ma nói: “Muốn được Tịnh độ trước phải tịnh tâm, tùy tâm thanh tịnh cõi Phật thanh tịnh.” Xét như thế, muốn được tịnh tâm mà bỏ pháp tu Tịnh độ, thì không còn một pháp nào thù thắng, sớm thành tựu hơn.
Tịnh Độ Hoặc Vấn: Khái quát Pháp Môn Tịnh Độ
Hỏi: Với pháp tu Tịnh độ, xin Ngài vì tôi giảng khái quát pháp môn này.
Đáp: Tịnh độ vốn vô tu, tu nhân là bởi do mê lầm mà có. Pháp vốn không có cao thấp, cao thấp là do bởi căn cơ mà ra. Căn cơ của chúng sinh luôn sai khác, nên pháp tu cũng phân ra thành nhiều loại. Tóm thâu có thể chia thành ba môn, đó là quán tưởng, ức niệm và chúng hạnh. Ba môn này đều nương vào Đức A-di-đà giáo chủ thế giới Cực lạc làm cơ sở chính yếu.
Pháp môn thứ nhất là Quán tưởng, như Quán kinh nói: “Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh. Cho nên khi tâm các ông tưởng nhớ Phật, tâm đó tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Biển chánh biến tri của chư Phật từ nơi tâm tưởng mà sinh. Vì thế các ông phải nhớ nghĩ và quán tưởng kỹ thân của Đức Phật kia.”
Đoạn kinh trên, Thiên Thai sớ nói: Câu “Chư Phật Như Lai” trở xuống, là thuyết minh về chư Phật. Câu “Thị cố đương tri” trở xuống là riêng quán đức Phật A-di-đà. Pháp giới thân là thân pháp tánh của Báo Phật. Tâm chúng sinh khi thanh tịnh thì pháp thân tự hiện, nên nói là Nhập. Như mặt trời mọc lên thì ánh sáng sẽ hiện chiếu xuống trăm sông. Đây là chỉ thân Phật tự tại, có thể tùy vật mà ứng hiện.
*
Lại pháp giới thân là thân Phật không chỗ nào không hiện, lấy pháp giới làm thể. Chứng đắc được pháp Quán Phật Tam-muội này thì vào ra đều tương ưng, nên nói Nhập tâm tưởng. Câu “Thị tâm tác Phật” là Phật nguyên vốn không, nhân vì chúng sinh tâm tịnh nên mới có. Sợ e người khác hiểu lầm là Phật bỗng nhiên có, nên gọi là “tức” và “thị”. Mới bước đầu tu hành gọi là “tức”, đến khi công viên quả mãn thì gọi là “thị.”
Diệu Tông Thích nói: “Muốn tưởng nhớ thân Phật, cần phải hiểu quán thể. Thể là bản giác, khởi thành pháp quán. Bản giác là thân pháp giới của chư Phật. Vì chư Phật không sở chứng pháp gì khác, mà toàn chứng bản tánh chúng sinh. Nếu thỉ giác có công, thì bản giác mới hiển lộ, cho nên nói pháp thân từ tâm tưởng mà sinh.
Lại đức Di-đà cùng với tất cả chư Phật vốn đồng một pháp thân, đồng một trí tuệ, sự ứng dụng đều như nhau. Hiểu được thân của đức Di-đà là hiểu được thân của tất cả chư Phật. Tỏ ngộ được tướng chư Phật là tỏ ngộ được thể Di-đà. Do đó nói rộng chư Phật để quy kết về sự quán tưởng đức Di-đà. Từ câu ‘Pháp giới thân’ trở xuống là nói về lý giải nhập tương ưng.”
Ngài Dung Tâm giải thích: “Nếu không có lời chú giải trước, thì môn quán tưởng này chẳng phải là quán Phật. Nếu không có lời chú giải sau, thì thể của chúng sinh và Phật có sai khác. Hai lối giải thích trên đã tương trợ tác thành để thuyết minh pháp quán.”
*
Diệu Tông sao lại nói: “Nay quán tâm là chẳng phải quán thẳng vào bản tánh Phật, để lần hồi thể nhập bản tánh của chư Phật sao? Vì thế, trước nói rõ Ứng thân Phật nhập vào tâm tưởng chúng ta. Kế nói thân Phật toàn là bản giác nên Ứng thân Phật hiển lộ. Biết rõ bản tính, nương ngoài nghĩa lý mà thiết lập quán pháp duy tâm.
Nếu luận bàn về Tác và Thị, tức là ba pháp quán bất tư nghì. Bởi do cả phá cả lập nên gọi là Tác, là hai pháp quán không và quán giả. Không phá không lập gọi là Thị, là quán Trung đạo. Toàn Thị mà Tác là ba đế đều phá đều lập, toàn Tác mà Thị là ba đế đều chẳng phá chẳng lập. Tức là không giả của trung gọi là Tác, khéo phá ba hoặc, khéo lập ba pháp, cho nên cảm được ba thân tròn đầy của chư Phật, khéo thành ngay quả ba thân của chúng ta. Tức trung của không giả là Thị, thì toàn hoặc là trí, toàn chướng là đức, cho nên tâm là Ứng Phật, tâm là quả Phật.
Vì thế mà biết Tác và Thị đều là một tâm. Tu ba pháp quán này là bản thể của tất cả các pháp quán, là tông chỉ huyền diệu của một bộ kinh.”
*** Tịnh Độ Hoặc Vấn ***
Lại nói: “Pháp quán này có thể làm thanh tịnh bốn cõi, như thế mới là chỗ tột cùng của bộ kinh này.” Cho đến nói: “Bộ kinh này nói việc phu nhân Vi-đề-hy, nhàm chán cõi Đồng cư uế độ, muốn được sinh về Đồng cư Tịnh độ, nên Phật bèn nói pháp quán huyền diệu, là quán tưởng y chánh trang nghiêm của cõi Tịnh độ. Ba pháp quán này thành thì mọi trần cấu đều rơi rụng. Nếu không cầu sinh về cõi Tịnh độ, thì còn cõi nào để cầu sinh.
Nên biết, chính vì để cầu sinh cõi Đồng cư Tịnh độ, nên thành lập ba pháp quán. Do vì pháp quán nhiệm mầu mới có thể phá trừ ba hoặc, không chỉ riêng cảm ứng nơi cõi Đồng cư Tịnh độ, mà tùy theo chỗ đoạn trừ lậu hoặc cạn sâu, tự nhiên sẽ cảm được ba Tịnh độ kia. Như người bệnh dùng thuốc, thân sẽ an ổn. Nếu có được thang thuốc tiên, thì không hẳn chỉ lành bệnh, mà còn được xương cốt nhẹ nhàng. Thân an ổn là dụ cho việc sinh ở cõi Đồng cư Tịnh độ. Xương cốt nhẹ nhàng là dụ cho việc sẽ sinh ba cõi Tịnh kia. Chỉ là một loại thuốc này, mà sức diệu dụng thật sâu vô cùng. Như một pháp quán huyền diệu, có thể làm thanh tịnh bốn cõi Tịnh.”
*
Lời giải rằng: Phu nhân Vi-đề-hy muốn lìa bỏ cõi uế, sinh về Tịnh độ, nên đức Phật hiển thị pháp lìa bỏ hết thảy uế, hiển thị pháp tánh Tịnh độ rốt ráo. Như ánh trăng không bị mây che, lìa bỏ hết thảy mọi bệnh quả báo. Cho nên thỉnh cầu Bồ-tát Quán Âm tuyên thuyết thần chú là có thể tiêu diệt cội gốc ba độc, đầy đủ quả báo ngũ nhãn… Do đó, pháp nhất tâm tam quán cầu sinh Tịnh độ là lấy tâm hoặc làm nhân cõi uế độ, lấy tam đế làm quả Tịnh độ. Nên biết lậu hoặc được dứt sạch là Thường tịch quang Tịnh độ, cứu chúng sinh của tam đế. Nếu lậu hoặc chưa dứt sạch, là Thật báo Tịnh độ, chứng từng phần của tam đế…
Như trên đã nói pháp nhất tâm tam quán có thể phá trừ ba hoặc, có thể làm thanh tịnh bốn độ. Nếu người nào lậu hoặc chưa phá, mà sinh về cõi An dưỡng đồng cư. Nhờ nương vào các thắng duyên của cõi này, lần hồi tiến tu thì ba độ kia có thể chứng đắc. Vả lại, Giáo tông có nói: “Ngũ trược nặng nhẹ, đồng ở Tịnh độ hay uế độ. Mà viên quán trược uế nhẹ mà cảm cõi Đồng cư, y báo và chánh báo rất nghiêm tịnh. Cũng như người nào tu giới và thực hành các điều thiện sẽ sinh về cõi An dưỡng, cảnh tướng của cõi này rất thù thắng. Cho nên tông Thiên Thai nói rằng Viên quán là định thiện.
*
Môn thứ hai là Ức niệm, là hành giả hoặc nương theo tướng hảo, hoặc trì danh hiệu Phật, gọi là Ức niệm. Môn này có đủ lý sự, như trưởng giả Giải Thoát trong kinh Hoa Nghiêm nói:
“Nếu tôi muốn thấy Đức Vô Lượng Thọ Như Lai và thế giới An dưỡng thì tùy ý liền được thấy. Tôi có thể rõ biết được tất cả các Đức Như Lai, các quốc độ trang nghiêm, thần thông nhiệm mầu… bao cảnh tướng trên đây, không từ đâu mà đến, không đi về đâu, không có xứ sở cũng không có trú xứ. Cũng như thân tôi, không thật có tới lui, đi đứng. Các Đức Như Lai kia không đi đến chỗ tôi, tôi cũng không đi đến chỗ các Ngài.
Tôi hiểu tất cả các Đức Phật cùng tâm tôi đều như mộng. Chỗ thấy như mộng từ phân biệt mà sinh. Lại thấy tất cả chư Phật đều từ tâm tôi mà khởi. Lại biết tâm tôi như nước trong chum, tỏ ngộ các pháp như hình bóng hiện trong nước. Lại biết tất cả chư Phật cảnh huyễn hóa. Lại biết chư Phật, Bồ-tát trong tự tâm, thảy đều như tiếng vang. Ví như hang trống, tùy theo âm thanh mà phát tiếng dội lại. Tôi tỏ ngộ được tâm nên có thể tùy niệm thấy Phật. Tôi thấy như thế, ức niệm như thế, chỗ thấy tất cả Đức Phật đều do từ tâm tôi.”
*** Tịnh Độ Hoặc Vấn ***
Ngài Trinh Nguyên sớ giải đoạn kinh trên rằng: “Từ câu “Vô sở tùng lai” trở xuống chính là thuyết minh lý duy tâm. Nếu ngộ được tức tâm là vô tâm, liền thể nhập vào chân như, rõ được tướng hư huyễn đều do duy tâm hiện ra, đã rõ được lý duy tâm và tức tâm là Phật. Cho nên tùy theo chỗ niệm, không đâu là không Phật.
Đoạn sau nêu ra bốn thí dụ, gồm thông (chung) và biệt (riêng), để hiển thị lý duy tâm. Bốn thí dụ đều chứa đủ bốn quán. Ví dụ thứ nhất là nói toàn thể đều duy tâm. Thí dụ thứ hai nói vì duy tâm nên không. Tụ thứ ba nói vì duy tâm nên giả,. Dụ thứ tư nói vì duy tâm nên trung. Bốn dụ đó đều viên dung vô ngại, đây là ý kinh Hoa Nghiêm.
Cảnh mộng là dụ cho lý không đến không đi. Hình bóng trong nước là dụ cho cảnh chẳng ra chẳng vào. Cảnh huyễn hóa là dụ cho lý chẳng có chẳng không. Tiếng vang là dụ cho lý chẳng hợp chẳng tan. Lại như kinh Bát-nhã dạy tu pháp Lập Phật Tam-muội, chuyên trì niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà. Pháp tu đó đại lược là; Hành giả thường nhớ nghĩ chuyên trì danh hiệu Phật A-di-đà. Ví như trong mộng thấy vàng bạc, bà con rồi sinh tâm vui mừng.
*
Ngài Vĩnh Minh nói: “Dụ cảnh mộng thấy vàng bạc, bà con là do tâm tạo ra, là có mà không, cho nên không đến không đi. Lại cảnh huyễn hóa là không thật có, thì tâm ta và Phật cả hai đều mất. Mà không phải là không có tướng huyễn, thì không hoại tâm Phật. Không và hữu đều không ngại lẫn nhau, tức là không đến không đi. Thấy khắp nơi không ngại, thấy tức là không thấy, thường khế hợp với lý trung đạo. Cho nên chư Phật thật không đi, tâm ta cũng không đến. Sự cảm ứng đạo giao đó, duy tâm tự thấy.”
Lại như trong kinh Lăng-nghiêm, Bồ-tát Đại Thế Chí nói: “Nếu con thường nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì mẹ con trải qua nhiều đời cũng không xa rời nhau. Ta do tu nhân, dùng tâm niệm Phật, mà được chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn.” Tráp Xuyên dùng lý và sự để phân tích đoạn trên: “Quán thí dụ mẹ con thường nhớ nghĩ lẫn nhau, là đồng ở sự tướng mà thôi. Quán từ Bồ-tát chứng Vô sinh pháp nhẫn, thì việc niệm Phật tâm không còn đơn lẻ, là ước về sự tướng giải thích. Niệm còn ba quán, Phật đủ ba thân, tâm phá ba hoặc, Vô sinh pháp nhẫn được dựng lập, là có thể nhập vào.”
*
Lại như trong kinh A-di-đà nói: “Chấp trì danh hiệu cho đến nhất tâm bất loạn.” Ngài Tịnh Giác giải thích: “Nhất tâm bất loạn như pháp quán huyền diệu trước, là đồng tên với chánh thọ, là định tâm, định thiện. Căn cứ vào người vãng sinh mà luận, thì có lý sự. Nếu đạt tâm này thì bốn tánh không sinh, cùng không tuệ tương ưng, đó là lý nhất tâm. Nếu tâm còn niệm, mỗi niệm mỗi niệm không gián đoạn, gọi là sự nhất tâm.”
Ngài Chân Hiết nói: “Nhất tâm bất loạn bao hàm cả lý sự. Nếu là sự nhất tâm, mọi người ai cũng có thể thực hành được. Do chấp trì danh hiệu Phật nên tâm không tán loạn, như rồng gặp nước, tợ cọp gặp núi. Đây là chỉ đoạn trong kinh Lăng-nghiêm nói nhớ Phật niệm Phật hiện tiền. Hoặc đương lai quyết định sẽ được thấy Phật, cách Phật không xa. Không cần nhờ phương tiện, mà tâm tự khai mở.
Nghĩa lý này thâu nhiếp cả căn trung và hạ. Nếu lý nhất tâm cũng chẳng phải lý gì khác, chỉ đem bốn chữ A-di-đà Phật làm chữ thoại đầu, ngày đêm sáu thời ngay đó đề khởi. Không dùng tâm có để niệm, không dùng tâm không để niệm. Không dùng tâm cũng có cũng không để niệm, không dùng tâm chẳng phải có chẳng phải không để niệm. Trước sau đều đoạn một niệm không sinh, không vượt giai tầng mà vào Phật địa.”
*** Tịnh Độ Hoặc Vấn ***
Tôi bình phẩm lời của Ngài Chân Hiết rằng: “Không dùng tâm có để niệm… văn có bốn câu, có thể phối hợp với ba pháp quán. Câu thứ nhất phối hợp không quán. Câu thứ hai phối hợp giả quán. Câu thứ ba là song ly. Câu thứ tư là song tức. Song ly song tức phối hợp trung quán, cũng bao hàm cả ý nghĩa ngăn chiếu.”
Tóm lại, chẳng phải không tu mà khế hợp với tánh, hiển nhiên đương xứ của nó là không, toàn thể tức hữu cũng chẳng phải không hữu, không thể diễn bày, không thể luận bàn, đường tâm tuyệt lộ tức gọi là Phật. Như trên tôi đã dẫn giải một số điều, gọi là ức niệm. Còn các phần lý sự, nói về lý niệm cũng là viên quán đồng. Có thể phá ba hoặc, khéo làm thanh tịnh bốn cõi. Lý này thâu nhiếp hạng chúng sinh căn cơ thượng thượng. Nói về sự tướng niệm, là gần thì cảm được Đồng cư Tịnh độ, xa thì làm nhân cho ba Tịnh độ trước.
*
Từ đây trở xuống, sự tướng không đồng, như các bộ kinh đã nói. Hoặc một đời kệ niệm, hoặc ba tháng kệ niệm. Hoặc sáng chiều thập niệm, hoặc một ngày một đêm không rời chuyên niệm. Thêm vào sức tín sâu, sức nguyện thanh tịnh, sức Phật gia bị, quyết được vãng sinh thế giới Cực lạc. Lại dưới đến hạng phàm phu tạo ngũ nghịch, thập ác, khi lâm chung niệm đủ thập niệm, cũng được vãng sinh. Đây là pháp thâu nhiếp hạng trung căn và hạ căn.
Môn thứ ba là Chúng hạnh. Như trong kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Phổ Hiền khuyến tấn Thiện Tài đồng tử cùng đại chúng hải hội phát mười đại nguyện để cầu sinh Tây phương. Mười đại nguyện đó là:
- Kính lễ chư Phật .
- Khen ngợi Như Lai.
- Rộng tu cúng dường.
- Sám hối nghiệp chướng.
- Tùy hỷ công đức.
- Thỉnh Phật chuyển Pháp luân.
- Thỉnh Phật trụ thế.
- Thường theo Phật tu học.
- Thường tùy thuận chúng sinh.
- Hồi hướng khắp cả.
*
Trong mỗi đại nguyện đều nói:
Cõi hư không hết, cõi chúng sinh hết, nghiệp chúng sinh hết, nghiệp phiền não hết, thì nguyện tôi mới hết. Nhưng cõi hư không cho đến nghiệp của chúng sinh không bao giờ hết, nên nguyện vương tôi không bao giờ hết. Hành giả mỗi niệm như thế tương tục, không có gián đoạn. Tam nghiệp thân khẩu ý không bao giờ sinh tâm mệt nhọc.
Cho đến khi lâm chung, sát-na sau cùng, tất cả các căn thảy đều tán hoại, tất cả mọi oai thế thảy đều mất hẳn. Phó tướng đại thần, nhà cửa trong ngoài, xe cộ binh ngựa, kho lẫm vàng bạc, mọi thứ đều không thể đem theo. Chỉ có nguyện vương này luôn luôn bên mình. Ở trong mọi thời, dẫn dắt ta trong khoảng sát-na liền được vãng sanh về thế giới Cực lạc.
Khi đã vãng sinh rồi, liền được thấy Đức Phật A-di-đà. Người đó thấy mình sinh trong hoa sen, được Phật thọ ký. Sau khi đã được thọ ký, trải qua vô số kiếp, hiện thân đến khắp mười phương thế giới bất khả thuyết bất khả thuyết, dùng sức trí tuệ, tùy chúng sinh tâm mà làm lợi ích. Chí đến trong biển cả đại khổ phiền não, mà cứu vớt chúng sinh. Khiến họ được xuất ly, khiến họ được vãng sanh về thế giới Cực lạc.”
*** Tịnh Độ Hoặc Vấn ***
Lại như trong kinh Pháp Hoa nói: “Nghe kinh điển, như thuyết mà tu hành, đến khi thân hoại mạng chung, liền được vãng sanh về thế giới Cực lạc. Phật A-di-đà cùng đại chúng Bồ-tát vây quanh trụ xứ. Được sinh trong hoa sen, ngồi trên tòa báu. Không bị tham dục quấy nhiễu, không bị sân nhuế ngu si não loạn, cũng không bị các cấu nhiễm, kiêu mạn, tật đố bức bách. Chứng được thần thông Bồ-tát và Vô sinh pháp nhẫn.”
Lại như trong kinh Đại Bảo Tích có nói: Người tu hành nào phát mười loại tâm, thì quyết định được vãng sinh. Đức Thế Tôn dạy Bồ-tát Di-lặc, mười loại tâm đó, chẳng phải hàng phàm phu ngu lậu, kẻ không thiện căn, người nhiều phiền não có thể phát được. Phát mười loại tâm đó là:
*
- Đối với tất cả chúng sinh luôn khởi tâm đại Từ, không làm tổn hại.
- Đối với tất cả chúng sinh luôn khởi tâm đại Bi, không gây bức não.
- Đối với chánh pháp của Phật, không tiếc thân mạng, hết lòng hộ trì.
- Đối với các pháp, khởi sức nhẫn nại, không chấp trước.
- Không tham sự lợi dưỡng, cung kính tôn trọng, tâm luôn an vui điềm tĩnh.
- Cầu chứng trí tuệ của Phật, ở trong tất cả các thời, tâm không quên lãng.
- Đối với tất cả chúng sinh, khởi tâm tôn trọng, cung kính cúng dường, không có tâm khinh thường.
- Không đắm trước thế luận, đối với Bồ-đề phần, sinh tâm quyết định.
- Gieo trồng các thiện căn, không có các tạp nhiễm, sinh tâm thanh tịnh.
- Đối với các Đức Như Lai, lìa bỏ các tướng, sinh tâm tùy niệm.
Đây là mười thứ phát tâm của Bồ-tát. Do phát tâm này, Bồ-tát quyết định được vãng sinh. Nếu người nào đối với mười thứ tâm này, thành tựu được một tâm, sinh lòng ưa muốn được vãng sanh về thế giới Cực lạc của Đức Phật A-di-đà, nếu không được vãng sanh, không bao giờ có chuyện đó xảy ra.
*
Lại như trong kinh Thập Lục Quán nói: “Muốn được sinh về nước kia, nên tu ba thứ phước. 1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng. Từ tâm không sát hại chúng sinh, tu thập thiện nghiệp. 2. Thọ trì ba pháp quy y, đầy đủ các giới, không phạm oai nghi. 3. Phát tâm Bồ-đề, tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh điển Đại thừa, khuyến tấn mọi người tu hành.
Ba món phước nghiệp này, là chánh nhân Tịnh nghiệp của ba đời chư Phật quá khứ hiện tại và đương lai.” Sớ nói: “Phước nghiệp đầu là của hạng phàm phu. Phước nghiệp thứ hai là của hàng Thanh văn và phước nghiệp sau là của hàng Bồ-tát.”
Lại như trong kinh Vô Lượng Thọ có nói ba hạng phát tâm Bồ-đề, cùng các kinh luận khác diễn bày việc tụng kinh, trì chú, xây chùa, tạo tượng, lễ bái, tán tụng, phụng trì trai giới, đốt hương rải hoa, cúng dường tràng phan bảo cái,. Phàm mỗi hạnh mỗi việc đều thuần thục, đều cầu sinh. Dùng sức tín nguyện hồi hướng, quyết định sẽ được vãng sinh. Như các điều trên tôi đã dẫn, gọi đó là chúng hạnh.
Nhưng nguyện hạnh có sự lớn nhỏ không đồng, nên có lý sự sai khác. Vả lại như mười nguyện trong kinh Hoa Nghiêm, mười loại tâm trong kinh Đại Bảo Tích, thì việc vãng sanh nơi thế giới Cực lạc, chỗ cảm được sự thù thắng so với các hạnh khác, sự hơn kém sai khác rất nhiều.
*** Tịnh Độ Hoặc Vấn ***
Hỏi: Tôi nghe nói đồng tử Thiện Tài là bậc viên đốn lợi căn, một đời chứng quả. Cớ sao Bồ-tát Phổ Hiền không khuyến sinh về thế giới Hoa Tạng, mà là khuyến khích vãng sinh thế giới Cực lạc. Ý là như thế nào?
Đáp: Trong kinh Hoa Nghiêm sớ có nêu điều này. Sớ đáp: “Sở dĩ Bồ-tát Phổ Hiền khuyến đồng tử Thiện Tài và Hải chúng vãng sanh Cực lạc vì các lý do: Vì có duyên, vì tâm niệm được chuyên nhất. Vì không lìa thế giới Hoa Tạng và vì không lìa bổn sư. “Ý là trong Hoa Tạng có các cõi Phật, nhiều như số vi trần. Thế giới Ta-bà cách thế giới Cực lạc mười muôn ức cõi, cũng không ra ngoài số sát chủng đó. Cho nên nói không lìa thế giới Hoa Tạng.
Kinh nói: “Hoặc thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ, có Bồ-tát Quán Tự Tại… cùng vi nhiễu, liền khen ngợi thân dị hóa của Đức Tỳ-lô-giá-na, cho là bổn sư.”
Lại nói: “Bồ-tát Phổ Hiền vì đồng tử Thiện Tài và hải chúng Hoa tạng, kết khuyến quy hướng cõi Cực lạc. Bởi vì đồng tử Thiện Tài là bậc tín giải viên thông, đã nhập vào trí Văn-thù, tu hạnh Phổ Hiền, phước tuệ và lý sự đều xứng hợp với pháp giới.
*
Đây là bậc đại tâm, tuy đã ngộ bản minh huyền diệu, mức chứng đồng hàng với chư Thánh. Nhưng do lực dụng chưa đầy đủ, chưa nhập thế làm lợi ích khắp chúng sinh bằng các Đức Như Lai. Vì thế tạm nương về Tịnh độ, gần gũi Đức Di-đà, mượn thắng duyên tu hành cho đến khi thành Phật. Vì thế Bồ-tát Phổ Hiền khuyến tấn đồng tử Thiện Tài và hải chúng Hoa tạng phát tâm cầu sinh Tịnh độ là ở ý đó.
Hỏi: Trong môn thứ ba Chúng hạnh, Ngài đã nói sự lý có lớn có nhỏ sai khác, chỗ cảm sinh tướng cũng đều khác nhau. Như thế, hai môn quán tưởng và ức niệm, nhân tu nếu không đồng, chỗ cảm ứng có sai khác không?
Đáp: Đều hoàn toàn khác nhau. Cho nên Ngài Vĩnh Minh nói: “Chín phẩm vãng sinh, sự không phải đồng một bực. Hoặc có kẻ nương về Hóa quốc, thấy Ứng thân Phật. Hoặc có người sinh nơi Báo độ, thấy chân thể Phật. Hoặc có vị vừa sinh một đêm, liền lên ngôi thượng địa. Hoặc có vị phải trải qua nhiều kiếp mới chứng được quả Tiểu thừa. Hoặc có vị lợi căn độn căn, hoặc định ý tán ý, hoặc ngộ đạo nhanh hay chậm, căn cơ khí chất không đồng. Hoặc hoa nở sớm muộn mà thời hạn thấy Phật có khác.”
Lại như Ngài Từ Vân nói: “Tuy phân thành chín phẩm, nhưng đó chỉ là phân khái lược. Nếu phân vi tế, thì sẽ có vô lượng phẩm.”
Để lại một bình luận