Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một bản kinh vô cùng quan trọng và liên quan mật thiết đến sự trường tồn của Phật Pháp. Chính vì thế Hòa Thượng Tuyên Hóa đặc biệt coi trọng kinh này, Ngài Bảo: “Trong Phật giáo có rất nhiều bản kinh quan trọng, nhưng quan trọng nhất là kinh Thủ Lăng Nghiêm. Nếu nơi nào có kinh Thủ Lăng Nghiêm đang được lưu hành, có nghĩa là chánh pháp đang còn ở thế gian. Nếu không còn kinh Thủ Lăng Nghiêm nữa, có nghĩa đã đến thời mạt pháp.
Do vậy, người Phật tử chúng ta, mỗi người cũng như tất cả: Phải đem hết sức lực, đem hết tâm huyết, đem hết mồ hôi nước mắt để giữ gìn kinh Thủ Lăng Nghiêm. Trong kinh Pháp Diệt Tận có nói rất rõ ràng: “Vào thời mạt pháp kinh Thủ Lăng Nghiêm bị hoại diệt trước hết, sau đó, các kinh khác dần dần biến mất.”
- Kinh Pháp Diệt Tận.
- Cách tụng kinh tại nhà.
- Cách niệm Phật tại nhà
- Âm đức là gì.
- Cách thay đổi vận mệnh.
- Kinh Địa Tạng.
- Kinh Thập Thiện Nghiệp.
- Chuyện nhân quả báo ứng.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm vô cùng quan trọng
Nếu như kinh Thủ Lăng Nghiêm không bị biến mất thì thời kỳ chánh pháp vẫn còn tồn tại. Do đó hàng Phật tử chúng ta phải đem tất cả tính mạng để hộ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm,; Phải đem hết tâm huyết để thọ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm; Phải đem hết hạnh nguyện để hộ trì kinh Thủ Lăng Nghiêm làm cho kinh Thủ Lăng Nghiêm mãi mãi tồn tại ở thế gian; Xiển dương sâu rộng khắp nơi, lưu truyền đến mọi ngóc ngách ở trên thế gian; Cho đến từng hạt vi trần, khắp tận hư không pháp giới. Nếu chúng ta làm được như vậy thì nay vẫn còn thời chánh pháp đang tỏa chiếu ánh sáng đại quang minh.
Tại sao lại nói kinh Thủ Lăng Nghiêm bị tiêu hủy trước tiên? Vì một điều quá chân thực, kinh Thủ Lăng Nghiêm là chân thân của đức Phật. Kinh Thủ Lăng Nghiêm là Xá lợi của đức Phật. Kinh Thủ Lăng Nghiêm là tháp miếu chân thực của đức Phật. Do vì đạo lý trong kinh Thủ Lăng Nghiêm quá chân thực, nên toàn thể ma vương đều dùng mọi cách để phá hủy kinh Thủ Lăng Nghiêm. Họ bắt đầu đưa ra những lời đồn đại, xuyên tạc, cho rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là giả mạo. Vì sao thiên ma ngoại đạo cho rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo?
Kinh Lăng Nghiêm là kính Chiếu yêu
Vì kinh Thủ Lăng Nghiêm nói quá chính xác, đặc biệt là phần nói về Bốn lời khai thị về bản tánh thanh tịnh sáng suốt (Tứ chủng thanh tịnh minh hối), phần Hai mươi lăm vị Thánh nói về pháp tu chứng viên thông, và phần Năm mươi tướng trạng ấm ma. Ngoại đạo tà giáo, yêu ma quỷ quái không thể nào chịu nổi giáo lý này. Cho nên họ kéo theo rất nhiều người thiếu hiểu biết tuyên bố rằng kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo.
Những đạo lý được đề xuất trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, một mặt đúng là chánh pháp, mặt khác lại phù hợp với đạo lý. Cho nên bọn tà ma, quỷ quái, bàng môn ngoại đạo không thể ẩn dấu tung tích được. Một số người thiếu ý thức, cụ thể là những học giả kém thông thái; Những giáo sư chuyên thu thập kiến thức tạp nham “chuyên đuổi mồi bắt bóng”; Với sự hiểu biết cực kỳ hẹp hòi và hạn chế, họ hoàn toàn bị mê muội và nhầm lẫn; Họ không có được sự uyên bác thực sự và không có trí tuệ chân thực, thế nên họ phê phán một cách hồ đồ.
Chúng ta là những người tu học Phật pháp, nên nhận thức sâu sắc về những trường hợp này. Do đó bất kỳ đi đâu chúng ta cũng phải xiển dương kinh Thủ Lăng Nghiêm.
*
Bất kỳ đi đâu chúng ta cũng nên truyền bá kinh Thủ Lăng Nghiêm. Bất kỳ đến đâu chúng ta cũng giới thiệu kinh Thủ Lăng Nghiêm cho mọi người. Sao vậy? Vì chúng ta muốn làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài ở thế gian. Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo, tôi xin có cam đoan này với qúy vị:
Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là chân thực thì dĩ nhiên chẳng có vấn đề gì, còn nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là ngụy tạo, thì tôi nguyện rằng tôi là kẻ trước tiên đọa vào Vô gián địa ngục. Vì tôi không nhận thức được Phật pháp, nhận vọng làm chân. Còn nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm là chân thực, thì tôi nguyện đời đời kiếp kiếp truyền bá đại pháp Thủ Lăng Nghiêm; Nghĩa là mọi nơi mọi lúc tôi sẽ xiển dương đạo lý chân thật của kinh Thủ Lăng Nghiêm.
Mọi người nên chú tâm vào điểm này. Nếu kinh Thủ Lăng Nghiêm không do từ kim khẩu Đức Phật nói ra, thì chẳng còn một ai có thể giảng nói được. Chẳng còn một người nào khác có thể nói được một giáo lý chính xác như kinh Thủ Lăng Nghiêm.
*
Vì thế tôi hy vọng rằng những người thiếu ý thức đã có các suy nghĩ sai lầm này, sớm thức tỉnh, dừng lại việc tạo ra cái nhân sai lạc. Nếu không sẽ chiêu cảm quả báo ở địa ngục Bạt thiệt. Bất luận học giả đó là ai, bất luận những nhà nghiên cứu Phật pháp ở bất cứ quốc gia nào; Tất cả nên nhanh chóng sửa đổi cách nhìn, nhận ra lỗi lầm của mình và tìm cách điều chỉnh. Chẳng có việc thiện nào lớn lao hơn thế nữa.
Tôi chắc rằng khi tất cả mọi người đều đọc kinh Thủ Lăng Nghiêm; Mọi người đều nghe giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm; Mọi người đều tham cứu kinh Thủ Lăng Nghiêm, thì tất cả đều sẽ chóng thành Phật đạo.
Ngài là Hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, lời của Ngài chân thật không bao giờ hư dối!
*
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
(Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm)
- Sa môn Bát thích mật đế người Trung Thiên Trúc, dịch vào đời Đường.
- Sa môn Di già Thích ca, người nước Ô Trành dịch ngữ.
- Sa môn Hoài Địch, chùa Nam Lâu, núi La Phù, chứng minh bản dịch.
- Đệ tử thọ Bồ tát giới tên Phòng Dung, hiệu Thanh Hà, chức Tiền Chánh Nghị Đại Phu đồng Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự bút thọ (nhuận bút).
- Sa-môn Thích Vân Đàm dịch Hán Văn qua Phiên Âm Việt Ngữ
*
Kệ Khai Kinh
Phật pháp rộng sâu rất nhiệm mầu.
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe được chuyên trì tụng
Nguyện rõ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Quyển 1.
Duyên Khởi
Tôi nghe như vậy: Lúc ấy Đức Phật ở tại tinh xá Kỳ Hoàn, trong thành Thất La Phiệt, với chúng đại tỷ khưu, gồm một ngàn hai trăm năm mươi người đến dự. Tất cả các vị đều là bậc đại A La Hán đã chứng quả vô lậu.
Phật tử trú trì, khéo vượt qua các cõi, thường nơi các cõi nước thành tựu các uy nghi, theo Đức Phật chuyển pháp luân, khéo kham nhận lời di chúc của Đức Phật, giữ giới luật tinh nghiêm, làm bậc mô phạm trong ba cõi. Ứng thân vô số lượng để độ thoát chúng sinh trong đời vị Lai, cứu giúp họ vượt khỏi các ràng buộc nơi cõi trần.
Các vị ấy là Đại trí Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Hi La. Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Bà Ni Sa Đà làm thượng thủ. Lại có vô lượng các bậc Bích chi, các bậc vô học và hàng sơ phát tâm cùng đến chỗ Phật. Nhằm lúc các tỷ khưu làm lễ tự tứ mãn hạ, các vị Bồ Tát trong mười phương đến cầu thỉnh giải quyết tâm nghi. Đồng kính phụng đức từ nghiêm, thỉnh cầu Phật chỉ dạy nghĩa lý thâm mật.
*
Khi ấy Như Lai trải tòa ngồi an nhiên, vì đại chúng tuyên bày ý nghĩa thâm áo. Chúng hội thanh tịnh, được điều chưa từng có. Như tiếng chim Ca lăng tần già vang khắp mười phương cõi nước. Các vị Bồ Tát nhiều như số cát sông Hằng cùng đến đạo tràng. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi làm thượng thủ.
Khi ấy vua Ba-tư-nặc nhân ngày giỗ của vua cha, thiết lễ trai nghi, thỉnh Đức Phật vào cung cúng dường. Vua đích thân nghinh đón Như Lai, dâng cúng nhiều thức ăn ngon quý. Tự mình thỉnh mời các vị Đại Bồ Tát. Trong thành cũng có các vị trưởng giả cư sĩ đồng thời thiết lễ trai tăng, mong được thỉnh Phật đến cúng dường.
Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi phân lãnh các vị Bồ Tát và A La Hán đến nhà trai chủ dự lễ cúng dường.
Chỉ có A-Nan đã nhận lời biệt thỉnh. Đi xa chưa về, nên không kịp dự vào hàng tăng chúng, không cùng các vị thượng tọa và a-xà-lê đi. Hôm ấy không có người cúng dường, A-Nan chỉ một mình trên đường về.
Lúc ấy A-Nan mang bát vào thành khất thực theo thứ tự từng nhà. Ban đầu, trong tâm mong được gặp người đàn việt cuối cùng để làm trai chủ. A-Nan không kể sang hèn, dòng dõi sang trọng, hay chiên-đà-la thấp hèn, đều thực hành tâm từ bi bình đẳng. Mong được thành tựu viên mãn công đức vô lượng cho tất cả chúng sinh.
*
A-Nan biết Như Lai quở trách Tu-bồ-đề và Đại Ca-diếp, là bậc A La Hán mà tâm không bình đẳng. A-Nan kính vâng lời khai thị không phân biệt của Đức Phật, để giúp chúng sinh thoát khỏi nghi ngờ và hủy báng. A-Nan thong thả đi qua hoàng thành rồi vào cổng, uy nghi nghiêm chỉnh theo đúng pháp hóa trai.
Khi ấy A-Nan theo thứ tự khất thực từng nhà, đi qua nhà dâm nữ. Gặp phải đại huyễn thuật Ma-đăng-già dùng thần chú Ta tì ca la tiên Phạm thiên bắt A-Nan, ép làm chuyện dâm dục. Dựa kề vuốt ve khiến A-Nan sắp hủy phạm giới thể.
Như Lai biết A-Nan bị dâm thuật kia gia hại nên thọ trai xong liền trở về. Vua cùng các quan đại thần trưởng giả cư sĩ đều theo Phật, mong được nghe pháp yếu.
Khi ấy, trên đảnh Thế Tôn phóng ra trăm đạo hào quang vô úy quý báu sáng rỡ. Trong hào quang hiện ra hoa sen báu nghìn cánh, trên đó có hóa thân Phật đang ngồi kiết già, tuyên thuyết thần chú.
Đức Phật dạy ngài Văn Thù Sư Lợi đem thần chú đến cứu A-Nan. Khiến tà chú liền bị tiêu diệt, rồi dẫn A-Nan và con gái Ma Đăng Già về chỗ Phật.
*
A-Nan đảnh lễ Đức Phật, hối hận từ vô thỉ đến nay, chỉ một hướng thích học rộng nhớ nhiều, nên chưa được toàn vẹn đạo lực. Nay A-Nan ân cần cung kính thỉnh Phật truyền dạy pháp tu xa-ma-tha (chỉ), tam-ma (quán) và thiền-na (thiền) là phương tiện vi diệu ban đầu của mười phương các đức Như Lai đã tu tập mà chứng được bồ-đề.
Khi ấy có hằng hà sa Bồ Tát, các vị Đại A La Hán, Bích Chi Phật… trong khắp mười phương, đều mong mỏi được nghe. Tất cả ngồi im lặng chờ nghe lời Phật chỉ dạy.
Khi ấy trong hội chúng, Đức Thế Tôn duỗi cánh tay màu vàng xoa đảnh A-Nan, nói với A-Nan cùng đại chúng: “Có pháp tam-ma-đề, gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm vương, đầy đủ vạn hạnh. Là pháp môn trang nghiêm vi diệu mà mười phương Như Lai đều từ đó lưu xuất, nay ông nên nghe kỹ.”
A-Nan đảnh lễ, cung kính lắng nghe lời dạy từ bi của Thế Tôn.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Vấn đáp về “Tâm”
Đức Phật bảo A-Nan: “Ông với Như Lai là anh em cùng một dòng họ. Khi mới phát tâm tu tập trong giáo pháp của Như Lai, ông thấy điểm thù thắng nào mà từ bỏ ân ái sâu nặng thế gian để xuất gia?”
A-Nan thưa: “Bạch Thế Tôn, do con thấy ba mươi hai tướng tốt thù thắng vi diệu tuyệt vời của Như Lai, hình thể sáng chói trong suốt như ngọc lưu ly.” Con thường tự suy nghĩ những tướng tốt này không phải do ái dục mà sanh ra.
Sao vậy? Vì dục khí thì thô nặng và dơ bẩn. Từ sự uế tạp và thối tha ấy giao hợp với nhau tạo thành một thứ tinh huyết hỗn tạp. Từ đó không thể sinh ra một thân thể thù thắng thanh tịnh, sáng chói vi diệu như khối vàng tía này. Do đó mà con khá́t ngưỡng, theo Phật xuất gia.
*
Đức Phật nói: “Lành thay! A-Nan, các ông nên biết tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay chịu sanh tử tương tục do vì không nhận ra chân tâm thường trụ. Thể tánh vốn trong sạch sáng suốt, mà nhận lầm các vọng tưởng. Các vọng tưởng này vốn chẳng chân thật, thế nên bị luân chuyển.”
Nay ông muốn thấu rõ quả vị vô thượng bồ-đề và phát minh chân tánh, ông phải dùng trực tâm đáp ngay lời Như Lai hỏi. Mười phương Như Lai ra khỏi sinh tử, đều nhờ trực tâm. Do tâm và lời nói đều ngay thẳng như thế, đến khoảng thời gian trước, sau, và thời kỳ trung gian tuyệt nhiên không có lời nói cong vạy.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Chấp Tâm ở trong thân
A-Nan, nay tôi hỏi ông: “Ngay khi ông vừa mới phát tâm là do ông thích ba mươi hai tướng tốt của Như Lai. Vậy ông lấy gì để thấy và ông ưa thích cái gì?
A-Nan thưa: “Bạch Thế Tôn! Sự yêu thích như thế là do tâm và mắt của con. Do mắt thấy tướng thù thắng của Như Lai nên tâm ưa thích và phát tâm nguyện xả bỏ sinh tử.”
Đức Phật bảo A-Nan: “Như ông nói, thật chỗ yêu thích là do tâm và mắt. Nếu ông không biết tâm và mắt ở đâu thì không thể nào hàng phục được trần lao.” Ví như quốc vương, khi có giặc đến xâm chiến nước mình, muốn phát binh đi trừ dẹp, thì cần phải biết giặc ở nơi đâu. Lỗi lầm là ở tâm và mắt khiến ông bị lưu chuyển. Nay tôi hỏi ông, riêng tâm và mắt nay ở chỗ nào?
A-Nan thưa: “Bạch Đức Thế Tôn, tất cả mười loài dị sinh ở trong thế gian đồng cho rằng tâm ở trong thân. Con thấy dù con mắt sen xanh của Như Lai, cũng nằm ở trên mặt.” Nay con quan sát các căn thô phù của tứ trần này, chỉ ở trên mặt con. Và cũng quán sát như vậy, thức tâm thực là ở trong thân con.
*
Đức Phật bảo A-Nan: “Nay ông hiện đang ngồi trong giảng đường cùng Như Lai, ông xem thấy vườn cây Kỳ-đà đang ở chỗ nào?”
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, giảng đường thanh tịnh nhiều tầng rộng lớn này là ở trong vườn ông Cấp Cô Độc. Còn rừng Kỳ Đà đúng là ở bên ngoài giảng đường.
Đức Phật bảo: A-Nan, nay đang ngồi trong giảng đường, trước hết ông thấy gì?
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, con nay trong giảng đường, trước hết thấy Như Lai, rồi thấy đại chúng. Như thế nhìn ra ngoài, con thấy được rừng cây.
Đức Phật bảo A-Nan: A-Nan, khi ông thấy rừng cây là nhờ vào đâu mà thấy được?
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, do các cửa của giảng đường này mở rộng, nên con ở trong giảng đường thấy suốt ra ngoài xa.
*
Đức Phật bảo A-Nan: “Như ông vừa nói, ở trong giảng đường, do cửa mở rộng, nên có thể nhìn ra thấy được vườn rừng. Liệu có người ở trong giảng đường không thấy Như Lai, mà thấ́y được vật bên ngoài không?
A-Nan thưa: “Bạch Thế Tôn, ở trong giảng đường, không thấy Như Lai, mà thấy được rừng suối là điều không thể có.”
Đức Phật bảo A-Nan Này A-Nan, ông cũng như vậy. Tâm linh của ông thông suốt rõ ràng tất cả mọi vật. Nếu tâm hiện tiền thông suốt rõ ràng, ấy thật là ở trong thân ông, thì trước hết nó phải biết được những gì trong thân ông. Liệu có nơi nào thấy được trong thân trước rồi sau mới thấy cảnh vật bên ngoài chăng?
Dù chẳng thấy tim, gan, tỳ, vị… nhưng móng tay mọc ra, tóc dài, gân chuyển, mạch đập, lẽ ra phải biết rõ. Tại sao chẳng biết? Nếu đã không biết chuyện bên trong thân, làm sao biết vật ngoài thân?
Thế nên phải biết, ông nói tâm hiểu biết này ở bên trong thân, là không hợp lý.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Chấp Tâm ở ngoài Thân
A-Nan cúi đầu đảnh lễ bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, con nghe lời khai thị của Như Lai như thế, nên nhận ra tâm con đúng là ở ngoài thân.”
Tại sao? Ví như có ngọn đèn sáng ở trong nhà. Trước tiên chắc chắn phải soi chiếu trong nhà, rồi theo cửa mở, mới chiếu ra ngoài sân. Tất cả chúng sinh sở dĩ không thấy trong thân, mà chỉ thấy ngoài thân. Cũng giống như ngọn đèn sáng để ngoài nhà, nên không thể soi chiếu trong phòng được.
Nghĩa này chắc đã rõ ràng, không có gì nghi ngờ và hoàn toàn đúng với nghĩa rốt ráo của Đức Phật. Như thế không biết có đúng chăng?
Đức Phật bảo A-Nan: “Các vị tỷ-khưu vừa rồi cùng Như Lai tuần tự khất thực trong thành Thất-la-phiệt, nay đã trở về rừng Kỳ Đà. Như Lai đã thọ trai xong, nay hỏi các tỷ khưu, khi một người ăn, các người khác có no không?”
A-Nan thưa: “Bạch Thế Tôn, không thể. Tại sao? Các vị tỷ-khưu này tuy đã chứng quả A La Hán, nhưng thân mạng không đồng. Làm sao một người ăn mà tất cả đều no được?
*
Đức Phật bảo A-Nan: “Nếu cái tâm thấy nghe hiểu biết của ông thực ở ngoài thân, thì thân tâm tách biệt nhau, tự nó không liên quan với nhau. Vậy điều gì tâm biết thì thân ắt không biết, và những gì thân biết thì tâm không thể biết.”
Nay Như Lai đưa cánh tay đâu la miên cho ông xem, khi mắt ông thấy, tâm ông có phân biệt chăng?”
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, đúng vậy.
Đức Phật bảo A-Nan: Nếu thân tâm cùng biết nhau, thế sao ông nói tâm ở ngoài thân?”
Thế nên phải biết, ông nói tâm thấy nghe hiểu biết ở ngoài thân, thật không có lý.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Chấp Tâm ở trong mắt
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy, vì chẳng thấy bên trong, nên tâm con chẳng phải ở trong thân. Vì thân tâm đều biết nhau, mà chẳng rời nhau nên tâm con chẳng phải ở ngoài thân. Nay con suy nghĩ, biết nó ở tại một chỗ.
Đức Phật hỏi: “Nay ở nơi nào?”
A-Nan thưa: “Do tâm rõ biết này chẳng biết những gì bên trong, mà lại thấy được những thứ bên ngoài. Như con suy xét, thì nó núp bên trong con mắt.”
Ví như có người lấy chén lưu ly úp lên con mắt, tuy có vật phủ lên mà mắt chẳng bị ngăn ngại. Khi mắt thấy được, liền theo đó có sự phân biệt.
Song cái tâm rõ biết của con chẳng thấy được bên trong, là vì nó ở trong con mắt. Nhưng nó vẫn thấy được vật bên ngoài rõ ràng không bị chướng ngại, là vì tâm núp sau con mắt.
*
Đức Phật bảo A-Nan: Như ông vừa nói, tâm núp sau con mắt, như con mắt núp sau chén lưu ly. Vậy người kia sau khi úp chén lưu ly lên mắt mà xem thấy núi sông, thật có thấy chén lưu ly không?
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn: Đúng thế, khi người ấy úp chén lưu ly lên mắt, thật có thấy chén lưu ly.
Đức Phật bảo: “Nếu tâm ông giống như con mắt núp sau chén lưu ly, thì khi xem thấy núi sông, sao ông không thấy con mắt?”
Nếu thấy được mắt thì mắt đồng như cảnh bị thấy. Như vậy chẳng thành nghĩa tùy thấy. Còn nếu chẳng thấy con mắt thì tại sao ông lại nói tâm hiểu biết này núp trong con mắt như con mắt núp sau chén lưu ly?
Thế nên phải biết, ông nói cái tâm hiểu biết suốt khắp núp trong con mắt giống như con mắt nấp sau chén lưu ly. Điều đó vô lý.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Chấp Tâm ở trong ngoài thân
A-Nan bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, nay con có suy nghĩ như vậy: thân thể con người, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt ở ngoài. Nơi tạng phủ thì tối, nơi khiếu huyệt thì sáng.
Nay con đối trước Phật, mở mắt thấy sáng, gọi là thấy bên ngoài, khi nhắm mắt thấy tối gọi là thấy bên trong. Nghĩa ấy đúng chăng?
Đức Phật bảo A-Nan: Khi ông nhắm mắt thấy tối, bóng tối có sẵn ở trước mắt ông hay sao? Nếu có sẵn trước mắt ông thì bóng tối ấy là ở trước mắt ông, sao lại nói ở là bên trong?
Nếu thật ở bên trong thì khi ông vào trong nhà tối không có ánh sáng mặt trời, mặt trăng hay đèn thì bóng tối trong phòng ấy là từ tam tiêu và ngũ tạng của ông hay sao? Còn nếu nó chẳng có trước mắt ông thì làm sao có nghĩa thấy?
*
Nếu bỏ qua cái thấy bên ngoài, mà cho rằng con mắt hướng vào bên trong nên thấy tối, thì khi nhắm mắt thấy tối, gọi là thấy trong thân. Vậy khi mở mắt thấy sáng sao chẳng thấy được khuôn mặt?
Nếu chẳng được thấy mặt thì chẳng có cái thấy bên trong. Nếu thấy được mặt thì cái tâm rõ biết này và con mắt phải ở ngoài hư không, làm sao ở phía trong được?
Nếu ở ngoài hư không thì nó chẳng phải là tự thể của ông, thế nay Như Lai thấy được mặt ông. Như Lai cũng là thân của ông hay sao?
Trong trường hợp đó, khi mắt ông biết thì thân ông vẫn không biết. Ắt là ông cho thân và mắt đều biết, thì phải thành hai cái biết. Tức là một thân của ông có thể thành hai vị Phật.
Thế nên phải biết, khi ông nói thấy tối là thấy trong thân, điều ấy vô lý.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Chấp Tâm ở chỗ Hòa hợp
A-Nan thưa: Con thường nghe Đức Phật dạy tứ chúng, do tâm sinh nên các pháp sinh, do pháp sinh nên các thứ tâm sinh.
Nay con suy nghĩ, thì cái thể của suy nghĩ ấy thực là tâm con, tùy chỗ hoà hợp, tâm theo đó mà có, chẳng phải ba chỗ trong, ngoài và ở giữa.
Đức Phật bảo A-Nan: Nay ông nói do pháp sanh nên các thứ tâm sanh, tùy chỗ hòa hợp, tâm tùy theo đó mà có. Tâm ấy nếu có tự thể, chắc là không có chỗ hòa hợp. Nếu không có tự thể mà hòa hợp thì cũng giống như giới thứ mười chín hòa hợp với trần thứ bảy. Nghĩa ấy không đúng.
Nếu tâm có tự thể, khi ông lấy tay gãi trên thân thì tâm ông có nhận ra cái biết từ bên trong thân ra, hay do ngoài thân mà có? Nếu từ trong thân ra thì phải trở lại thấy trong thân. Nếu từ ngoài vào thì trước hết phải thấy được mặt của ông.
A-Nan thưa: Thấy là ở con mắt, còn cái biết nơi tâm thì không phải do mắt, tâm thấy là không hợp lý.
*
Đức Phật bảo: Giả sử như mắt có thể thấy thế khi ông ở trong nhà, cái cửa có thể thấy được chăng? Cũng thế, khi người chết, mắt họ vẫn còn, lẽ ra vẫn còn thấy được vật. Nếu thấy được vật, sao gọi là chết?
Lại nữa A Nan, nếu tâm hiểu biết của ông có tự thể, thì có một thể hay nhiều thể? Nó ở nơi thân ông là khắp cả thân hay chẳng khắp cả thân?
Nếu tâm chỉ có một thể thì khi ông lấy tay gãi một chỗ trên thân thì lẽ ra các nơi khác trên thân đều có cảm giác. Nếu tất cả thân phần đều có cảm giác, thì chỗ gãi không nhất định. Nếu chỗ gãi nhất định thì nghĩa tâm có một thể là không hợp lý.
Nếu có nhiều thể thì thành ra có nhiều người. Vậy thể nào là của ông?
Nếu ở khắp thân thì như đã nói trước đây, nếu chẳng khắp thân thì khi ông xoa đầu rồi sờ chân, nếu đầu biết thì chân phải không biết. Nhưng trường hợp này không đúng với ông.
Thế nên phải biết, tùy chỗ hòa hợp, tâm theo đó mà hiện hữu là không hợp lý.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Chấp Tâm ở chính giữa
A-Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn, con được nghe khi Thế Tôn cùng với ngài Văn Thù Sư Lợi và các vị pháp vương tử bàn về nghĩa thực tướng. Thế Tôn nói: Tâm chẳng phải ở trong, cũng không phải ở ngoài.
Theo con suy nghĩ, nếu tâm ở bên trong mà không thấy được vật bên trong, còn ở ngoài thì tâm và thân chẳng biết nhau. Vì tâm không biết ở trong, nên nghĩa ở trong không hợp lý. Vì thân tâm biết nhau, nên nói tâm ở ngoài cũng chẳng phải. Nay vì thân tâm biết nhau, và lại cũng không thấy được bên trong, nên tâm chắc chắn ở giữa.
Đức Phật bảo: Ông nói tâm ở giữa, chỗ ấy hẳn là không phải bỗng dưng mà có, hoặc không có vị trí nhất định. Nay ông phải xét kỹ, điểm giữa ấy là nơi nào? Là tại cảnh bên ngoài, hay là ở trên thân?
Nếu điểm giữa ấy ở nơi thân, khi ở một bên thân thì chẳng phải là ở giữa. Nếu ở giữa thân thì đồng như ở trong thân. Nếu điểm giữa là nơi cảnh, thì điểm ấy nêu ra được hay không nêu ra được? Nếu không nêu ra được thì đồng như không có, còn nêu ra được thì điểm ấy không có vị trí nhất định.
*
Tại sao? Ví như có người cắm cây nêu để làm điểm giữa, nếu nhìn từ phương Đông thì cây nêu ở phía Tây, nếu nhìn từ phương Nam thì cây nêu ở phía Bắc. Tiêu điểm đã không rõ ràng thì tâm ông cũng thành rối loạn.
A-Nan thưa: Con nói điểm giữa, chẳng phải là hai thứ ấy. như Thế Tôn dạy, mắt gặp sắc trần, duyên sanh nhãn thức. Mắt thì có phân biệt, còn sắc trần thì vô tri. Thức phát sinh trong khoảng giữa ấy, đó chính là tâm con.
Đức Phật bảo: Tâm ông nếu ở khoảng giữa căn và trần, vậy tâm thể ấy gồm cả hai bên, hay không gồm cả hai bên?
Nếu gồm cả hai bên thì căn trần lẫn lộn. Trần thì không biết, căn thì có biết, hai thứ đối lập nhau. Chỗ nào gọi là điểm giữa? Gồm cả hai bên cũng không được, vì không phải có biết và cũng không phải không có biết, tức là không có thể tánh. Điểm giữa ấy lấy gì làm tướng?
Thế nên phải biết tâm ở chặng giữa là không có lý.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Chấp Tâm ở cái không dính mắc
A-Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn, xưa nay con thấy Phật cùng bốn vị đệ tử lớn là ngài Đại Mục Kiền Liên, Tu bồ-đề, Phú-lâu-na, Xá-lợi-phất cùng chuyển pháp luân. Đức Phật thường nói: tâm tánh hiểu biết phân biệt không phải ở trong, không phải ở ngoài, không phải ở chặng giữa, đều không có nơi chỗ. Hết thảy đều không dính mắt, đó gọi là tâm. Vậy cái không dính mắc của con có được gọi là tâm chăng?
Đức Phật bảo A-Nan: Ông nói bản tánh của tâm hiểu biết phân biệt này đều không ở tại đâu cả. Vậy các vật có hình tướng trên thế gian như hư không và các loài thủy, lục, không, hành… tất cả các vật. Cái dính mắc mà ông nói đó là hiện hữu hay không hiện hữu?
Nếu không hiện hữu thì đồng như lông rùa sừng thỏ. Sao gọi là không dính mắc?
Nếu đã có cái không dính mắc thì không thể gọi là không. Không tướng thì không. Chẳng không thì phải có tướng. Có tướng thì phải có chỗ nơi, làm sao lại nói là không dính mắc?
Thế nên phải biết tất cả cái không dính mắc mà gọi là tâm hiểu biết, là không có lý.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Vọng Tâm – Tâm Phân Biệt
Khi ấy A-Nan ở trong đại chúng, đứng dậy bày vai áo bên phải, đầu gối bên phải quỳ xuống đất, chắp tay cung kính bạch Phật:
Con là em nhỏ nhất của Thế Tôn. Nhờ Thế Tôn thương yêu, nay tuy con đã xuất gia, nhưng vẫn còn ỷ lại lòng yêu thương của Thế Tôn, do đó chỉ được đa văn mà chưa được quả vô lậu. Nên con không thể chiết phục được chú thuật Ta-tỳ-ca-la, bị nó xoay chuyển và sa vào nhà dâm, tất cả chỉ vì không biết chỗ quy hướng chân tâm.
Cúi mong đức Thế Tôn mở rộng lòng từ, thương xót chỉ dạy cho chúng con, pháp tu thiền định (xa-ma-tha), khiến cho hàng nhất-xiển-đề và miệt-lệ-xa thoát khỏi tà kiến.
Sau khi thưa thỉnh, A-Nan gieo năm vóc xuống đất, cùng toàn thể đại chúng kính cẩn đứng trông chờ được nghe lời chỉ dạy của Đức Phật.
Khi ấy từ trên cửa mặt (khoảng giữa hai chân mày) của Đức Thế Tôn phóng ra các thứ hào quang. Các hào quang ấy sáng chói như trăm ngàn mặt trời.
*
Sáu điệu chấn động khắp các cõi Phật. Mười phương cõi nước như số vi trần đồng thời hiện ra. Do oai thần của Phật, khiến các thế giới vi trần ấy hợp thành một cõi. Trong các cõi nước ấy, các vị Đại Bồ Tát ở nơi quốc độ của mình đều chắp tay lắng nghe lời Phật dạy.
Đức Phật bảo A-Nan: Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, theo các thứ điên đảo, tự nhiên tạo thành các giống nghiệp như chùm hạt ác-xoa.
Những người tu hành không thành được đạo vô thượng bồ-đề, mà chỉ thành Thanh Văn, Duyên Giác; Hoặc thành ngoại đạo, chư thiên, ma vương và quyến thuộc của ma…
Đều do không biết hai món căn bản, nên tu tập sai lầm. Họ cũng như người nấu cát mà mong thành cơm. Dù có trải qua nhiều kiếp như vi trần nhưng rốt ráo vẫn không thể đạt được những gì mong muốn.
Những gì là hai món căn bản?
*
A-nan, một là căn bản sinh tử, từ vô thỉ, chính là tâm phan duyên mà hiện nay ông và toàn thể chúng sinh nhận làm tự tánh.
Thứ hai là nguyên thể thanh tịnh của bồ đề niết bàn từ vô thỉ. Đó chính là cái thức tinh nguyên minh của ông. Hiện nay hay sinh khởi các duyên bị ông quên mất.
Do các chúng sinh bỏ quên tánh bản minh này, tuy trọn ngày mình sử dụng nó mà chẳng tự biết, nên bị trôi lăn oan uổng trong các cõi.
A-Nan, nay ông muốn biết con đường tu tập thiền định, với ước nguyện được thoát khỏi sinh tử, tôi lại hỏi ông. Như Lai đưa cánh tay sắc vàng lên, co năm ngón tay lại rồi
Đức Phật hỏi: A-Nan, Ông có thấy chăng?
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, con có thấy.
Đức Phật hỏi: Ông thấy cái gì?
A-Nan đáp: Con thấy Như Lai đưa cánh tay lên và co năm ngón lại thành nắm tay sáng chói chiếu vào tâm và mắt của con.
Đức Phật hỏi: Ông lấy cái gì để thấy?
A-Nan thưa: Cả đại chúng và con đều thấy bằng mắt.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Chấp suy nghĩ Phân biệt làm Tâm
Đức Phật bảo A-Nan; Như ông vừa trả lời, nói rằng Như Lai co năm ngón lại thành nắm tay sáng chói chiếu vào tâm và mắt ông. Mắt ông có thể thấy được, nhưng ông lấy gì làm tâm để cho nắm tay sáng chói chiếu vào?
A-Nan thưa: Đức Phật gạn hỏi tâm ở chỗ nào, nay con dùng tâm suy xét cùng tột để tìm kiếm. Con cho rằng chính cái biết suy nghĩ tìm kiếm ấy là tâm con.
Đức Phật bảo: Sai rồi A-Nan, đó chẳng phải là tâm ông.
A-Nan giật mình, rời chỗ ngồi, đứng dậy chắp tay bạch Phật: Đó chẳng phải là tâm của con, vậy thì nó là gì?`
Đức Phật bảo A-Nan: Đó là sự tưởng tượng những tướng giả dối của tiền trần, nó làm mê mờ chân tánh của ông. Do từ vô thỉ đến nay, ông nhận giặc này làm con, bỏ mất tánh nguyên thường nên phải chịu luân hồ̀i.
A-Nan bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn, con là em của Phật, vì tâm kính yêu Phật nên con xuất gia. Tâm con chẳng những cúng dường Như Lai mà còn trải qua nhiều quốc độ như cát sông Hằng, thừa sự chư Phật và thiện tri thức. Phát tâm đại dõng mãnh, làm tất cả những pháp sự khó làm là đều vận dụng tâm này. Dù con có hủy báng Phật pháp, rời bỏ thiện căn, cũng do tâm này.
*
Nay Đức Phật chỉ rõ cái ấy không phải là tâm, thì con thành ra không có tâm, như gỗ như đá. Vì ngoài cái hay biết ấy ra, con chẳng còn gì khác nữa. Sao Như Lai lại bảo cái ấy chẳng phải là tâm? Con thật kinh sợ và trong đại chúng ai cũng nghi hoặc. Cúi xin Đức Phật rủ lòng từ bi chỉ dạy cho những người chưa được giác ngộ.
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn chỉ dạy cho A-Nan và cả đại chúng, muốn cho tâm họ được vô sanh pháp nhẫn. Từ nơi toà sư tử, Đức Phật xoa đầu A-Nan rồi
Đức Phật bảo rằng: Như Lai thường nói các pháp phát sinh đều do từ tâm biểu hiện. Tất cả nhân quả và thế giới nhiều như vi trần đều nhân nơi tâm mà có thể tánh.
A-Nan, như tất cả sự vật hiện hữu trong thế giới từ ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, nút thắt …
Khi gạn xét cội gốc của nó, mỗi thứ đều có thể tánh. Cho đến như hư không cũng có tên gọi và dáng mạo.
Huống gì bản tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu này là bản chất của tất cả mọi tâm niệm mà tự nó lại không có thể tánh hay sao?
*
Nếu ông chấp chặt tánh phân biệt hiểu biết, cho đó là tâm; Thì tâm này khi rời tất cả sắc thanh, hương, vị xúc, thì tâm ấy phải riêng có toàn tánh. Như ông nay nghe pháp của Như Lai, đó là nhân âm thanh mà có sự phân biệt. Dù có diệt hết cái thấy, nghe, hiểu, biết mà giữ được sự thanh thản, lặng lẽ bên trong, đều do bóng dáng của sự phân biệt pháp trần vẫn còn.
Chẳng phải tôi bảo ông chấp cái ấy không phải là tâm. Nhưng ông phải suy xét chính chắn, nếu có một thể tánh phân biệt khi rời hẳn tiền trần thì đó chính là tâm ông.
Nếu tánh phân biệt này khi rời hẳn tiền trần mà không còn tự thể thì đó chỉ là bóng dáng phân biệt của tiền trần. Trần ấy chẳng phải là thường trụ, khi nó biến diệt thì cái tâm ấy cũng như lông rùa sừng thỏ. Ắt pháp thân ông cũng đồng như đoạn diệt. Ai là người tu chứng vô sanh pháp nhẫn?
Lúc ấy A-Nan cùng toàn thể đại chúng đều im lặng, ngơ ngác.
Đức Phật bảo A-Nan: Tất cả mọi người tu học trong thế gian, mặc dù nay đã được cửu thứ đệ định; Nhưng không hết sạch mê lầm, thành bậc A La Hán; Đều do vì chấp vào vọng tưởng sinh diệt, lầm cho đó là tính chân thực. Thế nên nay ông tuy được học rộng nghe nhiều mà chưa thành thánh quả.
*
A-Nan nghe rồi đau xót khóc lóc, gieo năm vóc sát đất, quỳ xuống chắp tay bạch Phật. Từ khi con phát tâm xuất gia theo Phật, chỉ biết ỷ lại vào oai thần của Phật. Con thường nghĩ rằng, khỏi phải nhọc công tu hành làm gì, hy vọng Như Lai sẽ ban cho con chánh định. Con không tự biết thân và tâm của Phật và con chẳng thay thế cho nhau được. Vậy nên con tự đánh mất bản tâm, tuy thân đã xuất gia mà tâm chẳng nhập đa. Con như người cùng tử bỏ cha trốn đi.
Ngày nay mới biết, tuy được nghe Phật pháp nhiều, nếu chẳng tu hành thì cũng như chưa nghe. Như người chỉ nói đến thức ăn, rốt cục chẳng được no bụng.
Bạch Thế Tôn! Nay chúng con đều bị trói buộc bởi hai thứ chướng ngại, do chẳng biết tâm tánh vốn thường hằng vắng lặng. Cúi mong Như Lai thương xót kẻ nghèo cùng cơ cực, làm phát khởi tâm nhiệm mầu sáng suốt, mở bày mắt đạo cho chúng con.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Tánh Thấy chẳng phải là Mắt
Khi ấy từ chữ vạn ở trên ngực Như Lai phóng ra hào quang báu, ánh sáng rực rỡ với trăm ngàn màu sắc, chiếu sáng đồng thời suốt khắp mười phương thế giới chư Phật nhiều như số vi trần. Hào quang ấy rót xuống trên đảnh các đức Như Lai ở các cõi Phật trong khắp mười phương. Xoay về soi đến A-Nan và toàn thể đại chúng.
Rồi Đức Phật bảo A-Nan: Nay Như Lai vì ông dựng lập pháp tràng lớn. Khiến cho tất cả chúng sinh khắp mười phương đạt được tâm tánh trong sạch, sâu kín nhiệm mầu và đạo nhãn thanh tịnh.
A-Nan, trước đây ông đã trả lời rằng thấy nắm tay chói sáng. Vậy nắm tay này nhân đâu mà có? Làm sao nắm tay trở nên sáng chói? Ông lấy cái gì để thấy?
A-Nan thưa: Thân của Phật như vàng diêm-phù-đàn sáng ngời như núi báu. Do đức tính thanh tịnh sinh ra, vậy nên có hào quang chói sáng. Con thật đã dùng mắt xem thấy năm ngón tay Phật co lại thành nắm tay, đưa lên cho mọi người xem.
Đức Phật bảo A-Nan: Hôm nay Như Lai chân thật nói với ông. Những người có trí cần phải dùng ví dụ mới được khai ngộ.
A-Nan, ví như nắm tay của Như Lai, nếu không có bàn tay thì chẳng thành nắm tay. Nếu không có mắt thì ông không thể thấy. Áp dụng ví dụ nắm tay của Như Lai và cái thấy từ mắt ông có giống nhau chăng?
*
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, đúng như vậy. Nếu không có mắt thì không thành cái thấy. Nếu đem ví dụ nắm tay của Phật so với cái thấy từ mắt của con, nghĩa ấy như nhau.
Đức Phật bảo A-Nan: Ông nói giống nhau, nghĩa ấy không đúng. Sao vậy? Nếu một người không có tay thì hẳn nhiên là không có nắm tay. Nhưng những người mù, chẳng phải họ hoàn toàn không có cái thấy.
Bởi tại sao? Ông thử ra đường hỏi những người mù mắt: Ông thấy gì không?
Các người mù chắc chắn sẽ đáp: Nay tôi chỉ thấy một màu tối đen trước mắt, ngoài ra không thấy gì khác. Theo nghĩa ấy mà quán xét thì đã rõ. Người mù thấy màu tối đen phía trước, chứ cái thấy của họ đâu có thiếu mất.
A-Nan thưa: Cái duy nhất mà người mù có thể thấy được trước mắt là màu tối đen. Sao có thể gọi là thấy được?
Đức Phật bảo A-Nan: Có gì khác nhau giữa màu tối đen mà người mù thấy được và màu tối đen mà người sáng mắt nhìn thấy khi họ ở trong phòng tối?
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, đúng vậy. Hai màu tối đen, một do người ở trong phòng tối thấy và một do người mù thấy không có gì khác nhau.
*
Đức Phật bảo: A-Nan, nếu người mù chỉ thấy được màu tối đen khi bỗng dưng được sáng mắt lại, thấy được đủ loại sắc tướng. Ông gọi đó là do mắt thấy. Và khi người ở trong phòng tối kia, chỉ thấy phía trước hoàn toàn tối đen, bỗng dưng thấy được mọi vật nhờ có đèn sáng. Lẽ ra nên gọi đèn thấy là đúng hơn.
Nếu cái thấy do đèn thì đèn đã có được cái thấy, nên chẳng gọi là đèn; Và nếu là đèn thấy thì quan hệ gì đến ông?
Thế nên phải biết, đèn làm hiển lộ các vật thể. Còn cái thấy đó là do ở mắt, chứ không phải đèn. Khi mắt nhận rõ các vật thể thì tánh thấy đó chính là tâm, chẳng phải là mắt.
Mặc dù A-Nan và đại chúng được nghe đức Phật chỉ dạy như vậy. Nhưng tâm chưa được khai ngộ nên vẫn im lặng, mong Như Lai dùng lời từ bi chỉ dạy thêm. Nên đứng chắp tay, lắng lòng trông chờ Đức Phật thương xót chỉ bày.
Khi ấy, Đức Thế Tôn duỗi cánh tay đâu-la miên sáng chói, xoè năm ngón tay, bảo A-Nan cùng toàn thể đại chúng:
Khi mới thành đạo, Như Lai đến vườn Lộc uyển, có dạy cho năm anh em tỷ khưu A-nhã Kiều-trần-như cùng ông và tứ chúng rằng: Tất cả chúng sinh bị mê hoặc bởi khách trần phiền não nên chẳng được giác ngộ, chẳng chứng quả A La Hán. Lúc đó các ông nhân đâu mà được khai ngộ, thành tựu quả vị thánh?
*
Rồi A-nhã Kiều-trầ̀n-na đứng dậy bạch Phật: Nay hàng trưởng lão trong đại chúng, chỉ riêng con được danh hiệu là Giải. Nhờ ngộ được nghĩa hai chữ khách trần mà thành tựu quả vị.
Bạch Thế Tôn, như người du khách dừng chân nghỉ lại một quán trọ bên đường để ngủ qua đêm hoặc chỉ ăn một bữa. Khi việc lưu trú hoặc ăn uống đã xong, họ liền chuẩn bị hành lý lên đường, không ở lại nữa. Nếu họ thật là người chủ thì chẳng phải đi đâu.
Như thế mà suy sét, người chẳng dừng nghỉ lâu gọi là khách, người dừng trụ lâu gọi là chủ. Do không dừng trụ, nên có nghĩa là khách.
Lại như khi mưa vừa mới tạnh, mặt trời lấp lánh trên cao; Tia sáng chiếu vào nhà thông qua khe cửa, làm hiện rõ các hạt bụi trong hư không. Bụi trần lay động, còn hư không thì yên lặng.
Thế nên con suy nghĩ, trong lặng gọi là hư không lay động là trần. Do lay động mà có nghĩa là trầ̀n.
Đức Phật bảo: Đúng như thế!
Khi ấy ở trong đại chúng, Như Lai co năm ngón tay lại, co rồi lại mở, mở rồi lại co.
Đức Phật hỏi A-Nan rằng: – Nay ông thấ́y gì?
A-Nan thưa: Con thấy bàn tay bách bảo luân của Như Lai, xoè ra nắm lại giữa hội chúng.
*
Đức Phật bảo A-Nan: Ông thấy tay Như Lai xoè ra nắm lại trong đại chúng. Đó là tay Như Lai xoè ra nắm lại, hay cái thấ́y của ông có xoè ra nắm lại?
A-Nan thưa: Bàn tay báu của Thế Tôn có xoè nắm trong đại chúng. Con thấy bàn tay của Như Lai tự xoè ra nắm lại, chớ chẳng phải tánh thấy của con có xoè nắm.
Đức Phật hỏi: Cái nào động, cái nào tịnh?
A-Nan thưa: Bàn tay Phật không dừng nghỉ. Còn tánh thấy của con còn chẳng có ý niệm về sự yên tĩnh, làm sao còn có động?
Đức Phật đáp: Đúng như vậy!
Bấy giờ từ trong lòng bàn tay, Như Lai phóng ra một đạo hào quang báu chiếu đến vai bên phải của A-Nan.
A-Nan liền quay đầu qua bên phải để nhìn.
Đức Phật lại phóng hào quang khác qua phía vai bên trái.
A-Nan liền quay đầu về bên trái để nhìn.
Đức Phật bảo A-Nan: Nay đầu ông tại sao lay động?
*
A-Nan thưa: Con thấy Như Lai phóng đạo hào quang báu chiếu vào vai bên phải rồi vai bên trái của con, nên đầu con tự lay động.
Đức Phật bảo: A-Nan, khi ông nhìn hào quang của Như Lai, đầu ông xoay qua hai bên vai, thì đầu ông động hay cái thấy của ông động?
A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, chính đầu con động, bởi tánh thấy của con còn không có ý niệm dừng chỉ, làm sao có động?
Đức Phật nói: Đúng như vậy!
Khi ấy Đức Phật lại bảo khắp đại chúng: Giả sử có người khác gọi cái động là trần, cái không dừng trụ gọi là khách.”
Các ông lưu ý rằng chính đầu của A Nan dao động chứ cái thấy không dao động. Các ông cũng để ý rằng tay Như Lai có co mở, chứ cái thấy không co mở.
Tại sao nay các ông vẫn còn nhận cái động làm thân và nhận các cảnh làm hiện thể? Nên từ đầu đến cuối, các ông ở trong niệm niệm sinh diệt. Các ông bỏ mất chân tánh, làm những việc điên đảo. Đã đánh mất tâm tánh chân thật rồi, còn nhận vật làm chính mình, nên chính mình bị trôi lăn theo vòng lưu chuyển.
(Kinh Lăng Nghiêm – Hết quyển 1)
T viết
Nam Mô A Di Đà Phật! Thưa thầy con lằm độc kinh có được không ạ, xin thầy chỉ dẫn cho con, con xin đội ơn thầy ạ.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Kinh sách không như sách vở thế gian, đặc biệt là một bộ kinh quan trọng bậc nhất của Phật pháp như kinh Lăng nghiêm. Bạn muốn đọc tụng phải tắm rửa, đánh răng, thay quần áo sạch sẽ. Kinh sách phải đặt nơi cao ráo, sạch sẽ, không được đặt bừa bãi nơi giường chiếu, bàn ghế…Kinh đọc tụng, phải giữ thân tâm trang nghiêm mà ngồi hoặc quỳ đọc tụng. Lúc đọc kinh tránh khởi suy nghĩ bậy bạ, tránh hơi thở của mình xông vào kinh; lúc hắt hơi hay trung tiện, phải chạy ra ngoài…giữ được như thế sẽ không phạm phải cái lỗi bất kính và khinh nhờn!
Lê Gia Ngọc viết
Kính bạch thầy Tuệ Tâm con ở đài Loan không thỉnh được kinh tiếng Việt Nam nên con dùng điện thoại đọc kinh của thầy viết và lúc đọc thì con nằm như vậy con có tội nặng nề rồi con sợ hãi vô cùng.con theo sự chỉ dẫn của thầy mà tự ở nhà hành trì pháp môn tịnh độ.khi hành trì con vệ sinh sạch sẽ rồi mới cúng nước thắp hương lễ Phật sau đó ngồi ngay ngắn dưới bàn thờ niệm Phật có khi chân tê quá con quỳ gối niệm Phật con chân thành cầu đạo chánh pháp để được sớm về cực lạc thế giới thành tựu phật đạo để có được năng lực cứu độ chúng sanh.mà giờ phạm tội nằm đọc kinh bằng điện thoại con sợ hãi vô cùng sợ nhất là bị cản trở đường tu vì con cô độc lẻ loi tự tìm hiểu trên mạng về pháp môn tịnh độ rồi hành trì không thầy dạy bảo không bạn đồng môn viết đến đây nước mắt con rơi rồi.con phúc mỏng nghiệp dầy quá
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Bạn ở trong hoàn cảnh ấy mà phát được cái tâm học Phật, căn lành thật là hiếm có, nên cố gắng niệm Phật hằng ngày chớ quên. Chúng ta là phàm phu, lại sanh nhằm thời mạt pháp, khi chưa biết Phật pháp thì ai nấy đều tạo tội như nhau cả thôi! Cái lỗi nằm đọc kinh ấy lỡ phạm, nay mình biết rồi thì sám hối. Nếu chí tâm sám hối thì vạn tội đều được tiêu trừ. Trong kinh Phật dạy: “Chí tâm niệm Phật một câu sẽ được tiêu trừ trọng tội trong 80 ức kiếp sanh tử”; lại “Niệm Phật một câu phước sanh vô lượng. Lạy Phật một lại tội diệt hà sa”. Lời Phật chân thật không hư dối, nay bạn biết lạy Phật niệm Phật, thiết nghĩ không cần phải lo lắng gì nữa!
Về Kinh Thủ Lăng Nghiêm, bạn đọc được kinh này là đã gieo nhân lành nhiều đời nhiều kiếp, không phải tự nhiên đâu! Năm xưa Tổ Trí Giả suốt 18 năm ngoảnh mặt về Tây lễ lạy, chỉ cầu được nhìn thấy Kinh này mà không được toại nguyện. Nói thế để biết rằng: Nếu chẳng có phước duyên huân tập trong nhiều đời nhiều kiếp, ắt không thể nào gặp được Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Nay bạn gặp được kinh, cũng nên đọc qua để mà biết. Pháp đọc kinh không có chi đặc biệt, chỉ ở nơi tâm chí thành cung kính mà thôi. Đọc kinh bằng điện thoại chỉ cần thân tâm sạch sẽ, rồi ngồi ngay ngắn đọc là đúng pháp.
Về Pháp môn Tịnh Độ. Người học Phật do chẳng chịu đọc nên không biết rằng đây là diệu pháp duy nhất để ra khỏi sanh tử trong thời mạt. Kinh, luật, luận như rừng biển, như Đại dương sâu không thấy đáy. Nếu ai chịu đọc ắt không khỏi sanh tâm kinh sợ mà cắm đầu niệm Phật cầu vãng sanh. Nay bạn đủ nhân duyên gặp rồi, hãy xem sáu chữ hồng danh như sanh mạng của mình, chấp chặt vào tâm mà niệm hằng ngày là chắc chắn được vãng sanh.
Mong bạn tinh tấn hành trì. Nam mô A Di Đà Phật.
Lê Gia Ngọc viết
Nam Mô A Di Đà Phật. con thành kính cảm ơn thầy dạy bảo ngay lúc này con xin sám hối nguyện từ nay về sau đọc kinh thì rửa tay sạch sẽ ngồi ngay ngắn đọc. bạch thầy Tuệ Tâm con rất sợ lạc vào rừng Pháp nên nay có duyên được học pháp môn tịnh độ mừng không kể xiết. Con không có thầy thế độ dạy bảo chỉ học theo trên mạng rồi hành trì con chỉ biết nương tựa vào Phật lực từ bi xót thương cứu độ. con nguyện đời này kiếp này không dám tạp tu. chỉ ôm chặt lấy lục tự hồng danh Nam Mô A Di Đà Phật không quẹo phải không quẹo trái một mực chạy thẳng trối chết về Tây Phương cực lạc quốc. Con rất sợ bị cản trở đường tu. Con từng bị khủng bố tâm linh nó nghiến răng nói tao không cho mày tu con sợ hãi quá nên lúc đang nằm biết là bất kính không được xưng niệm Phật ra lời nhưng vì vừa bị lạnh vừa sợ hãi con la lớn tiếng Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát con hét niệm ít phút sau thì trên bàn thờ Mẹ Quan Thế Âm phóng luồng hào quang sáng chói chiếu phủ toàn thân con và nó biến mất. Gần đây con lại bị quấy nhiễu con sợ hãi niệm hồng danh Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát và lại được Mẹ phóng quang nó biến mất. Con sợ lắm thầy Tuệ Tâm ơi. sợ nhất là bị cản trở đường tu con thành tâm sám hối mọi tội lỗi nghiệp chướng từ vô thỉ kiếp cho đến giờ phút này đã trót tạo ra làm đau khổ cho chúng sanh nên bị nhiều oan gia trái chủ đến quấy nhiễu. Tạ ơn công đức các bài viết của thầy giúp con hiểu thêm về sự chân thành sám hối nương tựa hồng danh oai lực Phật để hóa giải với oan gia trái chủ. Con được ngủ ngon đã 3 ngày 20,21,22/4/2022
Đêm nay không biết ra sao con vẫn còn sợ hãi nên luôn để đèn sáng lúc ngủ rất chói mắt buộc phải uống thuốc ngủ mới ngủ được con nằm niệm thầm Nam Mô A Di Đà Phật cho đến lúc ngủ say. Con van xin thầy xót thương từ bi công phu xong thầy hồi hướng thì hồi hướng cho con không còn bị cản trở đường tu nữa.đó là đại trọng Ân con xin đội ân thầy Tuệ Tâm con pháp danh Chiếu Minh. Nam Mô A Di Đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Chúng ta vô thỉ kiếp đến nay trôi lăn trong sanh tử luân hồi, ác nghiệp gieo với chúng sanh vô lượng vô biên. Ngày nay có phước duyên học Phật nên họ tìm đến đòi nợ, chỉ nên an nhẫn sám hối cùng niệm Phật, hồi hướng công đức cho Pháp giới chúng sanh để cứu chuộc lại lỗi lầm. Lại chỉ nên phát tâm từ bi thương họ, thương mình, vô thỉ kiếp đến nay oan oan tương báo lẫn nhau, biết bao giờ mà dứt được nợ. Rốt cuộc đều kéo nhau xuống Địa ngục cả mà thôi!
Oan gia trái chủ đến tìm có mặt hại và lợi. Về hại, họ hiện các tướng trạng khiến ta kinh sợ, thấp thỏm, lo lắng không an. Về lợi, họ khiến ta vì lo sợ mà tinh tấn hành trì. Xét đến cùng, họ cũng chính là Thiện Tri Thức của ta. Bởi nếu không có họ ắt giờ này ta đang quay cuồng trong dục lạc, mà say sưa trong ngũ dục thì chẳng mấy người chịu để chữ Phật lọt qua tai, nói chi đến tinh tấn tu hành! Vậy cho nên bạn đừng kinh sợ, cũng đừng khởi tâm chống trái, chỉ nên khởi tâm từ bi cùng biết ơn họ mà niệm Phật. Cứ siêng năng niệm Phật một thời gian rồi mọi chuyện sẽ ổn cả mà thôi.
Pháp niệm Phật hay niệm Quán Thế Âm, lúc nằm hoặc ở nơi bất tịnh chỉ nên niệm thầm. Nhưng nếu trong trường hợp khẩn cấp thì niệm to tiếng không có lỗi gì, bạn cứ yên tâm nhé! Bạn chép vào thẻ nhớ bài niệm Phật sáu chữ của Thầy Trí Thoát, hễ lúc đi ngủ thì cắm tai nghe, vừa nghe niệm Phật vừa ngủ là tốt nhất, chớ nên dùng thuốc ngủ, hại vô cùng! Vừa nghe niệm Phật vừa ngủ tuy thời gian ngủ ít, nhưng lại khỏe và sáng suốt hơn rất nhiều. Tuệ Tâm nhiều năm nay vẫn dùng cách này nên mới chỉ cho bạn vậy.
Cách đây chưa lâu, có một Vị gặp trường hợp tương tự như bạn. Vị ấy tụng chú Lăng Nghiêm, lạy Lương Hoàng Sám…Đủ mọi pháp, nhưng vì dụng cái tâm đối kháng chớ chẳng phải tâm từ bi, nên chướng nghiệp càng trầm trọng hơn. Sau Tuệ Tâm khuyên Vị ấy sám hối và chuyên tu niệm Phật, hồi hướng công đức cho pháp giới chúng sanh mới được an ổn.
Cầu mong Tam Bảo gia bị cho bạn sớm được an vui. Nam mô A Di Đà Phật.
Lê Gia Ngọc viết
Con ăn chay không ăn trứng gà trực tiếp nhưng ăn thực phẩm chay của đài loan làm thường có trứng họ nói trứng gà đó không có trống là trứng chay. Kính bạch thầy Tuệ Tâm dạy bảo cho con biết điều đó có tội không
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Ăn chay giúp tăng trưởng tâm Từ Bi. Bạn không ăn trứng là đúng, có trống hay không trống thì cũng chẳng nên ăn. Tuy nhiên tu tập cũng phải uyển chuyển theo cảnh thuận nghịch của thế gian, không thể khăng khăng chấp chết cứng một pháp. Trong hoàn cảnh của bạn, nếu chủ động nấu ăn được thì tốt, như không chủ động được thì có gì ăn nấy, đồ chay của họ có trứng thì mình cứ ăn, không sao cả đâu. Mình không chấp chết cứng thì tránh được phiền não. Thời gian nghĩ về thực phẩm có trứng hay không ấy, để niệm Phật tốt hơn nhiều!
Lê Gia Ngọc viết
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính bạch thầy Tuệ Tâm con vừa được cảm ứng muốn thưa rõ với thầy. Con có được pháp danh Chiếu Minh là lúc còn ở Việt Nam con thường xuyên đi cúng dường Tam Bảo ở một chùa thuộc quận 8 TP HCM. lúc đó con đi chùa cúng dường Tam Bảo và thiết lễ cúng dường trai tăng là muốn được phước báu giàu sang chứ hoàn toàn không hiểu biết tí gì về Phật pháp, sau đó thì quy y Tam Bảo theo lời các Thầy mà không hề biết cái gì là quy y Tam Bảo. Thậm chí muốn thờ Phật con cũng khởi niệm Phật nào lớn nhất để con thỉnh về thờ. Sau khi qua buổi lễ quy y con hỏi Thầy phải làm gì nữa thì thầy dạy con hàng ngày tụng chú Đại Bi và Kinh Phổ Môn. Thầy cho con quyển kinh Hán âm và con thờ Phật Thích Ca với Phật Quan Thế Âm. Lúc đó vô tri nên con mời Thầy ở chùa Vạn Hải cũng Q8 gần nhà con lại tụng kinh khai quang điểm nhãn theo người ta thường nói. Giờ nghĩ lại thấy mình lúc đó vô tri quá. Sau đó con vâng lời thầy mỗi ngày trì chú Đại Bi 5 biến, tụng kinh Phổ Môn 1 biến, tụng chứ chẳng hiểu Kinh dạy gì vì là Kinh hán âm.
Hành trì được mỗi tối mấy ngày thì có ngày con dâng nước thắp hương xong, chuẩn bị lạy Phật tụng kinh quay đầu nhìn lại thấy 1 người nam mặc áo thun trắng quần gin (quần bò) màu xanh ngồi xếp bằng. Con sợ rung lên lập cập tụng kinh xong rồi chạy xuống lầu từ đó mỗi sáng thức dậy dâng nước thắp hương cúng Phật rồi nhanh chân chạy xuống lầu bỏ hẳn việc trì tụng.
Sau này qua đài loan rồi, lúc buồn con lướt mạng xem được kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni do Sư Thích Thiền Tâm dịch nghĩa việt ngữ con mới rõ oai lực bất khả tư nghì của chú Đại Bi tiếc nuối vô cùng nếu lúc trước hiểu biết thì dũng mãnh trì chú chắc có ích cho vong nam nhân đó rồi. Thầy Tuệ Tâm dạy con có phước lành mới biết được pháp môn tịnh độ có lẽ nhờ ơn ba của con giúp đỡ con. Ba con ăn chay niệm Phật và rất muốn con ăn chay theo người. con nhớ lúc con 6 tuổi 1 ngày mùng 15 trời mưa lất phất mà ba con đong 1lít đèn dầu (quận 8 lúc đó thường cúp điện) bắt con dắt em trai 3 tuổi đi bộ trong mưa trời tối om từ hẻm 23 đường Âu Dương Lân đến cúng dường Tam Bảo chùa gần trường Khánh Bình
2. Bạch thầy Tuệ Tâm con xin hỏi phải chăng đây là phúc báu lớn nên bây giờ con được may mắn thọ trì pháp môn tịnh độ? Năm 2014 con điện thoại liên lạc với một thầy xin xuất gia và nói ý nguyện muốn tu pháp môn tịnh độ nhưng thầy ấy từ chối không cho. con buồn lắm nên tự tìm hiểu trên mạng tự tu lung tung hồi hướng thì cũng tìm hiểu trên mạng rồi chắp vá lại của nhiều bài thành bài hồi hướng cộng thêm tâm nghĩ gì nói nấy. Ba con mất lúc con 13 tuổi mẹ mất lúc con vừa qua đài loan 21 ngày.chị gái mà con yêu thương nhất mất năm chị ấy mới 36 tuổi. Giờ đây con tin sâu luật nhân quả theo lời Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni dạy lại có duyên đọc được lời dạy bảo tu hành pháp môn tịnh độ của thầy Tuệ Tâm con vui mừng khôn xiết nguyện trọn đời cố gắng hết sức mình giữ giới tinh nghiêm và tinh tấn hành trì. con rất tủi thân phúc mỏng nghiệp dầy không thầy dạy bảo không bạn đồng môn khích lệ. Lại thường bị thế giới tâm linh quấy nhiễu có khi chiến đấu với họ suốt đêm với vũ khí là hồng danh Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát . sáng mệt mỏi rã rời có ánh mặt trời chiếu vào phòng mới ngủ được bình an.nhờ đọc bài bình luận của thầy viết trong bài về hạn tam tai con mới viết lời cảm ơn thầy dạy như nước Cam Lộ rưới vào tâm con. con không dám sân hận họ phá con tu hành nữa mà thành tâm sám hối cầu xin họ tha thứ cho con. công phu xong con hồi hướng cho họ khóc xin Phật A Di Đà tiếp dẫn tất cả họ về cõi cực lạc. Ngày 20,21,22/4âl tháng 5dl năm 2022 này con ngủ ngon nhưng đêm nay không biết ra sao lòng con vẫn còn sợ hãi nhiều lắm chỉ biết khóc xin Phật bảo hộ con. Nam Mô A Di Đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuyết rơi nhiều ngày mới thành được băng, muốn băng tan ắt cũng phải nắng ráo trong thời gian tương ứng. Nghiệp lực của chúng sanh cũng như vậy, không thể trong một sớm một chiều mà có thể chuyển hóa ngay được. Phải biết rằng nghiệp lực của chúng ta tạo ra trong từ vô thỉ kiếp đến nay là vô lượng vô biên. Bởi thế kinh Hoa Nghiêm bảo: “Nếu nghiệp lực mà có hình tướng thì ngay cả hư không cũng không thể nào mà chứa đựng cho nổi.” Bạn dụng công sớm được chút an, ấy là nhờ lực gia bị của Tam Bảo mà có. Hãy cố gắng bền bỉ hành trì, chớ vội vàng bộp chộp mà chướng nghiệp lại trổ thêm ra. Cố gắng lên nhé!
Lê Gia Ngọc viết
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính bạch thầy Tuệ Tâm con tha thiết chân thành cảm tạ ân đức của thầy dạy bảo con thực hành theo linh nghiệm vô cùng. đêm qua(23/5/22) con dũng cảm thử tắt đèn và đã được ngủ rất ngon đến sáng hơn 5 giờ đài loan tức hơn 4g Việt Nam mới thức dậy, bây giờ con chuẩn bị công phu hành trì vậy là đã được 4 đêm ngủ bình yên khỏe khoắn lắm. con cảm tạ thâm sâu ân Phật từ bi gia hộ, cảm tạ ơn thầy Tuệ Tâm dạy bảo con trong bài viết về hạn tam tai phần bình luận của thầy con đã kính tin và thực hành giờ nhận được sự linh nghiệm nhiệm mầu con vui mừng khôn tả xin cung kính tri ân thầy Tuệ Tâm. Nam Mô A Di Đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm cũng thấy mừng cho bạn! Nếu cứ tinh tấn niệm Phật theo đúng chánh hạnh và giữ giới không cầu danh lợi, ắt sau này sẽ giúp đỡ được cho rất nhiều người. Mong bạn vững bước hành trì, đặng sau này còn báo ân Tam Bảo!
Lê Gia Ngọc viết
Nam Mô A Di Đà Phật
Con cung kính cảm tạ ân Phật gia hộ
Cung kính cảm tạ ân thầy Tuệ Tâm dạy bảo
Lòng tri ân của con đối với Phật và thầy Tuệ Tâm không thể dùng ngôn từ diễn tả được. Con chân thành tha thiết đa tạ thâm ân ạ. Nam Mô A Di Đà Phật
T viết
Nam Mô A Di Đà Phật! Con tu tịnh độ con muốn phóng xanh cứu vật có được không ạ. Xin thầy chỉ dẫn cho con.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Được bạn ạ, kể cả bạn không tu gì thì cũng nên phóng sinh. Phóng sinh tăng thọ, công đức vô lượng vô biên, lại giúp ta tăng trưởng tâm Từ bi trên đường Đạo, rất nên làm. Tuy nhiên phóng sinh cũng phải tùy hoàn cảnh mà làm. Không nhất thiết cứ phải ngày lễ hay ngày rằm mùng 1. Hễ mình có điều kiện, lúc nào cũng có thể phóng sinh được. Khi phóng sinh chỉ cần niệm Phật cho chúng nghe là được nhé.
T viết
Nam Mô A Di Đà Phật! Con hiểu rồi ạ. Con xin tri ân công đức trên thầy ạ, con chúc thầy mạnh khỏe thân tâm thường an lạc ạ .
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Mai Trà viết
Nam mô A Di Đà Phật !
Con xin hỏi lúc phóng sinh niệm Phật là niệm như thế nào ạ
– Nam mô A Di Đà Phật hay
– Om Mani Padmi Hum ạ
Con xin file tải Kinh Thủ Lăng Nghiêm với ạ
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Nên niệm Phật, niệm “Nam mô A Di Đà Phật” là tốt nhất. Bạn xem chủ đề về phóng sinh ở đây nhé: Cách phóng sinh tại nhà đúng pháp và Nghi thức Phóng sinh – Tứ Minh Tôn giả.
Bản Pdf trên mạng có nhiều, bạn tìm tải nhé. Tuệ Tâm giờ hơi lẩm cẩm cẩm, mấy file không biết cất ở đâu nên tìm chẳng được. Mong bạn tùy hỉ!
nguyễn minh công viết
thầy cho con xin file tải kinh thủ lăng nghiêm với ạ
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm đã gửi mai cho bạn.
Thiện Nhuận viết
Con Tụng Kinh Thủ Lăng Nghiêm có được chứ ạ
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Nếu bạn có thể giữ giới mà y như pháp trì tụng thì còn gì bằng nữa!
Lê Gia Ngọc viết
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính bạch thầy Tuệ Tâm con đã hành trì buổi tối xong. 3 tiếng đồng hồ kiêm luôn lễ Phật niệm Phật. con không hề có ý muốn khoe công phu mà vì muốn bạch rõ với thầy vì muốn cảm tạ ơn thầy ân cần khuyên dạy bảo con cố gắng tinh tấn hành trì tâm đừng cầu danh lợi để sau này giúp được nhiều người và báo ơn Tam Bảo. Kính bạch thầy con xin vâng lời thầy dạy ạ. Lúc trước con thường xuyên đi cúng dường Tam Bảo phóng sinh làm nhiều từ thiện với bố thí. đi nhiều bệnh viện cho tiền giúp bệnh nhân trị liệu (con chân thật nói chứ tâm con hoàn toàn không có ý khoe khoang xin Phật chứng minh cho con) nhưng lúc đó vô tri con chỉ cầu mong được giàu sang phú quý. Nay xin vâng lời thầy dạy bảo con nguyện từ nay về sau nếu làm được điều gì thiện lành xin hồi hướng công đức cho con sớm được vãng sanh về cõi Cực Lạc để mau chóng chứng được thánh quả chứ ở cõi Ta bà này rất khó tu thành chánh quả lắm, về cực lạc mới mong sớm được chứng quả ạ. Lúc đã có được năng lực khả năng cứu độ chúng sinh. Con nguyện không thành Phật chỉ thường hành Bồ Tát đạo. Nguyện trở lại cõi Ta bà mãi mãi phụng sự Phật pháp phụng sự chúng sanh hoằng dương pháp môn tịnh độ. Nỗ lực hết mình cứu độ tất cả chúng sanh thọ trì hồng danh Nam Mô A Di Đà Phật để được tiếp dẫn tất cả chúng sanh về Tây Phương trước nạn Tam Tai đến. thầy Tuệ Tâm viết thời nay đã là trụ kiếp thứ 9 trụ kiếp thứ 10 tam tai sẽ đến. nghĩ đến đây nước mắt con rưng rưng.( Phải bắt buộc mình cố gắng tinh tấn công phu để sớm được về cực lạc) Nếu còn dù chỉ 1 chúng sanh nào chưa thành Phật thì con đợi họ thành Phật rồi con mới thành Phật. Lòng thành xin Phật chứng minh gia hộ cho con sớm được toại nguyện ạ. hồi nãy hành trì xong đến phần hồi hướng con có phát nguyện này với Phật. Đa tạ thầy Tuệ Tâm đã xót thương con mà ân cần khuyên dạy. Nam Mô A Di Đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Bạn tinh tấn hành trì, thật là hiếm có. Cầu mong Tam Bảo gia bị cho bạn vững bước trên đường tu! Về hồi hướng công đức, bạn đang hiểu sai về Pháp hồi hướng. Công đức trong Phật pháp không như pháp thế gian. Phàm khi ta làm được bất cứ việc thiện lành nào, như tùy hỉ, phóng sinh, từ thiện, cho đến niệm Phật. Khi hồi hướng phải hồi hướng cho Pháp giới chúng sanh cùng lìa khổ được vui, đồng vãng sanh Tịnh Độ mới là đúng pháp. Do tâm hồi hướng lớn nên dù việc thiện nhỏ cũng có được công đức lớn lao. Còn như chỉ hồi hướng cho chính mình thì công đức ấy rất nhỏ nhoi, lại phạm cái lỗi thiếu tâm từ bi: “Mình tịnh tu công đức lớn mà chẳng biết thương xót chúng sanh”, chướng ngại do đó phát sanh rất nhiều!
Ở miền bắc trước đây có một Phật tử tại gia học Phật rất tinh tấn, tụng kinh, trì chú, niệm Phật…gì cũng tu. Những việc như in kinh, ấn tống, cúng dường, phóng sanh từ thiện…vị ấy làm nhiều không kể xiết, ai gặp cũng sanh tâm kính ngưỡng. Tuy nhiên về sau vị này gặp rất nhiều chướng nghiệp, từ bệnh tật ốm đau, cho đến bị các chúng sanh vô hình quấy phá chẳng được an yên. Việc này khiến vị ấy hoang mang đã đành, lại khiến những người quen biết cũng hoang mang theo; người chẳng hiểu đạo thấy thế lại sanh tâm hủy báng, bảo rằng: Do học Phật làm thiện mà bị như thế!
Về sau có một Phật tử đem việc này hỏi một bậc chân tu, Ngài ấy bảo: “Đây là do tích lũy quá nhiều công đức mà chẳng biết thương xót hồi hướng cho chúng sanh. Do tâm nhỏ hẹp không tương ưng với Pháp, trái với tinh thần từ bi và lợi tha của đạo Phật, nên bị chư Hộ Pháp can thiệp quở trách. Mục đích của Hộ Pháp là để vị này nhận ra được sai lầm khi dụng tâm tu hành, chớ không phải do quỷ thần quấy nhiễu! Chỉ cần vị này hễ mỗi lần làm được chút công đức gì, đem hồi hướng cho pháp giới chúng sanh thì công đức sẽ to lớn hơn, chướng nghiệp do đó cũng không cầu mà tự hết.” Bạn xem thêm bài “Cách hồi hướng công đức” để nắm rõ hơn nhé. Nam mô A Di Đà Phật.
Lê Gia Ngọc viết
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính bạch thầy Tuệ Tâm. Từ trước đến nay con hành trì xong thì đều hồi hướng như vầy : con hồi hướng trước cho đạo vô thượng bồ đề trên đền bốn ơn nặng dưới cứu khổ 3 đường. Cửu Huyền thất tổ, tổ tiên ông bà cha mẹ anh chị em con cái chồng vợ lục thân quyến thuộc nhiều đời nhiều kiếp và đến kiếp này, các vị oan gia trái chủ , các chúng sanh mà con đã trót lỡ não hại vì bất cứ lý do gì. các vị chủ nợ tài vật của con, các vị có ơn với con. Các vị mà con từng quen biết cùng với khắp pháp giới chúng sanh này được lìa khổ an vui vĩnh viễn thoát ly đau khổ . những người còn sống cầu xin Phật gia hộ cho họ kết duyên cùng Phật đạo tu hành Phật đạo thành tựu phật đạo. Những người đã chết con cầu xin Phật A Di Đà tiếp dẫn tất cả họ về cõi cực lạc quốc để họ được vĩnh viễn thoát ly đau khổ tu thành chánh quả cứu độ chúng sanh. Rồi sau đó con sám hối ăn năn và cầu nguyện cho mình ạ. Con tìm hiểu các bài hồi hướng của các bậc sư phụ, tiền bối rồi chắp vá lại mà hồi hướng như thế cộng thêm tâm nghĩ gì nói nấy.
Kính bạch thầy Tuệ Tâm con ngu tri và không có thầy dạy bảo tự tìm hiểu trên mạng rồi tự hồi hướng như thế con đã sai rồi sao. Xin thầy Tuệ Tâm dạy bảo con rõ ạ con xin đội ân thầy
Nam Mô A Di Đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm thấy trong phần bình luận của bạn có đoạn: “Nay xin vâng lời thầy dạy bảo con nguyện từ nay về sau nếu làm được điều gì thiện lành xin hồi hướng công đức cho con sớm được vãng sanh về cõi Cực Lạc để mau chóng chứng được thánh quả chứ ở cõi Ta bà này rất khó tu thành chánh quả lắm, về cực lạc mới mong sớm được chứng quả ạ. Lúc đã có được năng lực khả năng cứu độ chúng sinh. “ nên nhắc để bạn tránh các chướng ngại trên đường tu mà thôi. Về pháp hồi hướng, thực ra khi ta nguyện hồi hướng công đức cho pháp giới chúng sanh là đã thâu nhiếp hết chúng sanh trong mọi cõi giới, tổ tiên, oan gia, quyến thuộc…rồi. Cho nên đọc bài hồi hướng bạn chép ở trên cũng được, mà chỉ cần ngắn gọn cho pháp giới cũng được, không có trở ngại gì.
Mong bạn tinh tấn hành trì. Nam mô A Di Đà Phật.
Lê Gia Ngọc viết
Nam Mô A Di Đà Phật
Con xin cung kính đa tạ thâm ân thầy Tuệ Tâm dạy bảo ạ
Lê Gia Ngọc viết
Nam Mô A Di Đà Phật
Kính bạch thầy Tuệ Tâm những lời viết tối hôm qua và bây giờ khi thầy đọc xong xin khỏi đăng lên phần bình luận. Con vì quá biết ơn thầy nên muốn thưa rõ mọi chuyện với thầy (vì không có cách gì riêng liên lạc với thầy nên buộc phải viết trong phần bình luận) sợ có người mới sơ phát tâm học Phật chưa trải qua chuyện tâm linh sẽ sanh hoài nghi mà phạm tội. bạch thầy con vâng lời thầy tối qua con không uống thuốc ngủ dũng cảm tắt đèn và đã được ngủ yên rất tốt đến 6g5p đài loan 5g5p Việt Nam mới thức dậy, người cảm thấy rất khỏe không bị ngầy ngật vì thuốc ngủ. Con tha thiết cảm ơn Phật gia hộ tha thiết cảm ơn thầy dạy bảo ạ Nam Mô A Di Đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Việc đăng bình luận không sao đâu bạn, nó cũng giúp ích cho nhiều người. Bạn sớm được Tam Bảo gia bị, thật tốt lành biết bao!
Nam mô A Di Đà Phật.
Lê Gia Ngọc viết
Nam Mô A Di Đà Phật con cung kính đa tạ thầy Tuệ Tâm