Tuy nhiên, lỗi lầm xấu ác của con người có thể theo nơi sự việc biểu hiện mà tu sửa; cũng có thể dựa trên sự suy xét đạo lý mà tu sửa; lại cũng có thể ngay từ trong tâm ý mà tu sửa. Mỗi phương cách tu sửa như vậy đòi hỏi công phu khác nhau, mà hiệu quả cũng khác nhau.
Chẳng hạn như ngày trước thường giết hại sinh mạng, nay giữ giới không giết hại; hoặc như ngày trước thường nóng giận, nay cố ngăn giữ không còn nóng giận. Những sự tu sửa như thế là theo nơi sự việc biểu hiện mà tu sửa. Tu sửa theo cách như vậy là cố sức kiềm chế sự việc đã biểu lộ ra bên ngoài, nên thật hết sức khó khăn; nhưng cội gốc của những lỗi lầm ấy rốt cuộc vẫn còn nguyên đó; trừ bỏ nơi này lại nảy sinh nơi khác, thật không phải phương cách rốt ráo để tu sửa triệt để mọi lỗi lầm.
Người khéo léo hơn trong việc tu sửa lỗi lầm thì khi sự việc còn chưa biểu lộ ra bên ngoài đã sớm suy xét đạo lý của sự việc ấy. Chẳng hạn như đối với việc giết hại sinh mạng, liền suy xét theo đạo lý rằng: “Trời đất luôn có đức hiếu sinh, muôn loài đều tham sống sợ chết. Nay ta giết hại loài vật để nuôi dưỡng thân mình, làm sao có thể tự thấy an ổn trong lòng?
*
Hơn nữa, con vật bị giết kia, đã bị đâm chém cắt xẻo; rồi lại bị cho vào nồi nước sôi, chảo dầu nóng, đau đớn thống khổ thấu tận xương tủy. Ta lại dùng thân xác nó để nuôi dưỡng mình; dẫu có bày ra thành trăm món ngon lạ, ăn qua khỏi miệng cũng đều tiêu mất. Trong khi đó, chỉ cần canh rau đơn sơ cũng đủ no bụng, vì sao phải giết hại sinh mạng của muôn loài, làm tổn hại đến phước đức của mình?”
Lại suy xét đến việc hết thảy muôn loài có máu thịt, khí chất, cũng đều có linh tính, tri giác. Đã có linh tính, tri giác thì đối với loài người chúng ta cũng là cùng một bản thể. Nay tự thân ta đã không thể tu tập thành bậc chí tôn chí đức để muôn loài phải tôn kính, gần gũi nương cậy ta; lẽ nào lại còn xuống tay giết hại sinh mạng của chúng; khiến chúng phải đem lòng oán hận, căm thù ta không sao nói hết?
Suy xét được thấu đáo những điều như thế thì khi nhìn thấy món ăn, do giết hại mà có, ắt phải hết sức đau lòng, không thể nào nuốt trôi qua khỏi cổ.
Hoặc như trước đây vốn thường nóng giận, liền suy xét rằng: “Đối với người có chỗ cư xử kém cỏi chẳng bằng ta, xét về tình thì nên khởi lòng thương xót họ mới đúng; đối với người làm việc trái lý lẽ xúc phạm ta thì đó là sai trái của họ, nào có liên quan gì đến ta?” Nghĩ như thế thì thấy thật không có gì để giận dữ cả.
*
Lại suy xét rằng, trong thiên hạ chẳng có bậc hào kiệt nào lại tự mãn luôn cho mình là đúng; cũng không có học thuyết nào dạy ta oán ghét người khác. Công hạnh có điều chưa đạt được đều là do phước đức tự thân ta chưa tu tập đúng mức, chưa đủ cảm hóa người khác; ta cần phải lấy những điều đó để tự phản tỉnh, suy xét về bản thân mình. Như vậy thì khi có người đến phỉ báng, làm nhục, liền xem đó như sự cọ xát, rèn luyện giúp đá thô thành ngọc quý; như thế ắt phải vui mừng đón nhận, làm sao có thể nổi giận?
Hơn thế nữa, nếu ta bị phỉ báng mà không nổi giận, thì những lời xúc phạm ấy dù có nhiều đến đâu cũng chỉ như kẻ đốt lửa giữa khoảng không, rốt cuộc cũng phải tự lịm tắt. Bằng như nghe lời phỉ báng mà nổi giận thì cho dù hết lòng khéo léo biện bạch cũng chẳng khác nào con tằm mùa xuân nhả tơ làm kén, ngày càng tự trói chặt lấy chính mình. Như vậy, sự nóng giận chẳng những là vô ích mà còn gây hại nữa.
Đối với với hết thảy những lỗi lầm xấu ác khác cũng đều dựa theo đạo lý mà suy xét như thế. Nếu sự suy xét đạo lý đã được rõ ràng sáng tỏ thì mọi lỗi lầm xấu ác đều sẽ tự chấm dứt.
*
Thế nào là tu sửa lỗi lầm ngay từ trong tâm? Đó là tự xét rằng: Lỗi lầm xấu ác của con người có vô số nguyên nhân, nhưng hết thảy đều do tâm tạo tác. Nếu trong tâm mình an nhiên bất động thì lỗi lầm dựa vào đâu mà sinh khởi? Người tu học phương pháp sửa lỗi này, đối với những lỗi lầm xấu ác như háo sắc, tham danh, tham tiền của, dễ nóng giận v.v… Không cần thiết phải truy đuổi tìm kiếm đối trị từng loại, chỉ cần một lòng chuyên chú làm thiện; lúc nào cũng duy trì ý niệm chân chánh, thì bao nhiêu ý niệm tà vạy xấu ác sẽ tự nhiên không thể khởi lên làm ô nhiễm.
Ví như khi mặt trời rực sáng giữa không trung, các loài yêu ma quỷ quái thảy đều trốn mất. Đây là phương pháp sửa lỗi chân truyền tinh tế nhất. Mọi lỗi lầm đều do tâm tạo tác, nên cũng do nơi tâm mà sửa đổi. Ví như việc đốn trừ loài cây độc, phải trực tiếp chặt phá ngay vào gốc rễ; đâu cần phải đốn tỉa từng cành nhánh, ngắt bỏ từng chiếc lá?
*
Nói chung thì phương pháp đối trị lỗi lầm ngay từ trong tâm là vượt trội và hiệu quả hơn hết. Đang khi tu tập giữ tâm thanh tịnh, nếu trong tâm vừa khởi động niệm xấu ác liền tức thời rõ biết; rõ biết rồi thì niệm xấu ác đó liền tự nhiên không còn nữa.
Bằng như chưa đủ sức để tu tập theo phương pháp trị tâm, thì nên dùng phương pháp suy xét rõ ràng theo đạo lý để trừ bỏ lỗi lầm.
Nếu vẫn chưa đủ sức dùng phương pháp suy lý, thì nên dùng phương pháp đối trị theo sự việc sai trái đã biểu hiện.
Nếu như sử dụng phương pháp trị tâm cao nhất, đồng thời kèm theo những phương pháp còn lại; như vậy cũng chẳng có gì sai lầm. Nhưng nếu chỉ biết sử dụng những phương pháp kém hiệu quả, mà không biết đến phương pháp vượt trội hơn, thì thật là khờ dại.
*
Cho nên, khi phát nguyện sửa đổi lỗi lầm xấu ác, thì giữa nơi sáng rõ nên cầu được bạn tốt nhắc nhở; ở chỗ u tối khuất lấp nên nguyện có quỷ thần soi xét chứng minh. Hết lòng sám hối những tội lỗi đã qua, ngày đêm không chút giải đãi buông lung. Trải qua một tuần, hai tuần, cho đến một tháng, hai tháng, ba tháng… ắt phải có hiệu quả ứng nghiệm.
Chẳng hạn như cảm thấy tinh thần điềm nhiên, thư thái khoáng đạt; hoặc cảm thấy như trí tuệ khai mở, hốt nhiên sáng suốt; hoặc có những lúc rơi vào cảnh rối ren phiền nhiễu nhưng cảm xúc, suy nghĩ đều suốt thông không vướng mắc; hoặc có những lúc gặp kẻ oán thù nhưng có thể bình tâm đổi giận làm vui; hoặc mơ thấy nôn mửa ra vật đen tối; hoặc mộng thấy các bậc hiền thánh ngày trước hiện đến dắt dẫn ân cần; hoặc mơ thấy mình đi lại nhẹ nhàng trên hư không, hoặc mộng thấy những thứ như cờ phướn, lọng quý, đủ mọi cảnh tượng thù thắng tốt đẹp…
Hết thảy những điều như thế đều là biểu hiện của việc đã dứt trừ được lỗi lầm xấu ác. Tuy nhiên, không được bám chấp vào những thành tựu như thế mà vội khởi tâm cao ngạo tự mãn. Vì như thế sẽ ngăn trở ta không thể tiến bộ thêm nữa.
*
Xưa có người tên Cừ Bá Ngọc, khoảng năm 20 tuổi đã thấy rõ được những lỗi lầm xấu ác trước đây của mình, và dứt trừ sửa đổi được hết thảy. Sang đến năm 21 tuổi mới biết những sự cải hối trước đây của mình thật ra vẫn chưa dứt hết được. Sang năm 22 tuổi thì ông nhìn lại năm 21 tuổi; quan sát những việc đã qua] như trong giấc mộng, lại tiếp tục sửa lỗi. Cứ như thế năm này sang năm khác, ông vẫn kiên trì tuần tự sửa lỗi. Cho đến năm 50 tuổi vẫn còn nhìn lại thấy được lỗi lầm của năm 49 tuổi.
Việc học sửa lỗi của người xưa là như thế. Chúng ta đều là những kẻ phàm tục tầm thường, những điều lỗi lầm xấu ác tích tụ dẫy đầy không kể xiết; thế mà khi nhìn lại những việc đã qua lại thường chẳng thấy được lỗi lầm chi cả! Ấy là bởi tâm mê muội nên mắt bị che mờ.
*
Tuy nhiên, con người khi lỗi lầm xấu ác quá sâu nặng cũng có những biểu hiện có thể thấy được. Chẳng hạn như tinh thần u ám, bế tắc, nói trước quên sau; hoặc không duyên cớ gì nhưng trong tâm vẫn thường phiền não, bực dọc; hoặc đối diện với người hiền lương quân tử thì cảm thấy hổ thẹn ngượng ngùng; hoặc được nghe những lời bàn luận chân chánh nhưng lại không vui thích; hoặc thường bị rơi vào cảnh làm ơn mắc oán; hoặc đêm nằm mộng thấy những chuyện điên đảo trái nghịch…
Nếu nặng nề quá có thể sinh ra nói năng lộn xộn, tâm thần bất định… Hết thảy những điều như vậy đều là biểu hiện của việc làm xấu ác. Nếu thấy có một trong những biểu hiện như thế thì phải lập tức phát tâm mạnh mẽ phấn chấn. Phải quyết lòng dứt bỏ lỗi cũ, dựng xây đời mới.
Mong sao người đọc hiểu đúng được những điều như trên để không tự dối mình.
Liễu Phàm Tứ Huấn: Tích Chứa Điều Lành
Kinh Dịch nói: “Nhà nào tích chứa điều lành ắt có thừa niềm vui.” Thuở xưa, họ Nhan mang con gái gả cho Thúc Lương Hột; vì xét thấy tổ tiên nhiều đời của ông này từng tạo nhiều phước đức, do đó tin chắc rằng con cháu về sau ắt phải được hưng thịnh, tốt đẹp.
Đức Khổng tử khi ngợi khen vua Thuấn là bậc đại hiếu có nói rằng: “Tông miếu tổ tiên được thờ kính, con cháu nhiều đời gìn giữ phước lành.” Những lời như thế đều là sự luận giải rốt ráo, rõ ràng. Nay ta lại thử đem những chuyện có thật đã qua để chứng minh cho lập luận này.
Quan Thiếu sư họ Dương, tên Vinh, quê ở huyện Kiến Ninh, tổ tiên nhiều đời làm nghề chèo thuyền đưa người sang sông để sinh sống. Gặp lúc trời mưa lâu, nước sông suối dâng cao; dòng chảy rất xiết, cuốn trôi cả những vùng dân cư; người chết đuối cứ theo dòng sông mà trôi xuống. Những thuyền khác đều tranh nhau vớt lấy tài sản quý giá trôi trên sông, chỉ riêng ông cố và ông nội của Thiếu sư, hai người đều hết sức lo việc cứu người, hoàn toàn không vớt lấy một chút tài vật nào. Người trong làng đều cười chê họ là ngu dại.
*
Đến khi cha của Thiếu sư sinh ra, gia đình dần dần khá giả lên. Bỗng có vị thần hóa hình thành một đạo nhân đến bảo người nhà rằng: “Tổ phụ các người có âm đức lớn, con cháu sẽ được giàu có vinh hiển. Nên cải táng mộ tổ phụ vào chỗ đất này…” Nói rồi chỉ cho một chỗ đất. Người nhà y theo chỉ dẫn của đạo nhân mà cải táng. Chỗ ấy sau này các thầy địa lý đều gọi là gò bạch thố.
Về sau sinh ra Thiếu sư, năm 20 tuổi đỗ tiến sĩ, làm quan tước vị lên đến Tam công. Ông cố và ông nội của Thiếu sư đều được triều đình truy tặng quan tước như vậy. Con cháu về sau đều được hưng thịnh, tốt đẹp, cho đến nay vẫn còn nhiều người hiền đức.
Liễu Phàm Tứ Huấn: Chuyện Dương Tử Trừng
Dương Tự Trừng người huyện Ngân, ban đầu vốn chỉ là một viên thư lại trong nha huyện. Ông luôn giữ lòng nhân hậu, thi hành pháp luật một cách công bình. Quan huyện khi ấy là người nghiêm khắc. Một hôm Quan tùy tiện dùng roi đánh một người tù đến nỗi máu chảy đầy sân, thế mà vẫn chưa hết cơn giận.
Họ Dương quỳ xuống xin tha. Quan huyện nói: “Người này vi phạm pháp luật, làm trái đạo lý. Ta làm sao có thể không tức giận?”
Tự Trừng khấu đầu thưa rằng: “Tăng tử có nói: ‘Bề trên lỗi đạo, dân chúng phóng túng buông thả đã lâu; như hiểu được tình cảnh đó thì khi xét xử tội trạng nên thương xót họ; chớ lấy việc trừng phạt được tội ác làm vui.’Theo như lời ấy thì vui còn không được, huống chi lại nổi giận?”
Quan huyện nghe lời ấy rồi liền thôi không giận nữa.
*
Nhà Tự Trừng rất nghèo, nhưng có ai mang quà biếu đến đều tuyệt đối không nhận. Gặp lúc thiếu lương thực, tù nhân phải chịu đói, ông thường tìm đủ mọi cách để có cho họ ăn. Ngày kia, có thêm một số tù nhân mới được giải đến đang đợi cho ăn; gặp lúc nhà ông đã gần hết gạo, nếu mang cấp cho tù nhân thì cả nhà phải chịu đói; nếu giữ gạo lại ăn thì những người tù kia thật đáng thương.
Ông liền đem việc ấy bàn với vợ. Vợ ông hỏi: “Những người tù ấy từ đâu chuyển đến?”
Ông đáp: “Từ Hàng Châu đến, dọc đường đã phải chịu đói rất lâu, thấy rõ sắc mặt xanh lè!”
Nhân đó, vợ chồng ông liền lấy hết số gạo còn lại trong nhà, nấu cháo mang đến cho tù nhân ăn.
Về sau, ông sinh được 2 người con trai. Con trưởng là Dương Thủ Trần, con thứ là Dương Thủ Chỉ; cả 2 đều làm quan Lại Bộ Thị lang ở 2 vùng Nam (kinh) và Bắc (kinh). Lại có 2 người cháu nội, cháu lớn làm quan đến chức Hình Bộ Thị lang; cháu nhỏ làm quan Liêm Hiến ở tỉnh Tứ Xuyên. Họ đều là những vị quan có danh tiếng. Ngày nay, các ông Sở Đình, Đức Chính đều là con cháu của Dương Tự Trừng.
Liễu Phàm Tứ Huấn: Tạ Đô
Trong khoảng niên hiệu Chính Thống, Đặng Mậu Thất cầm đầu nổi loạn ở Phúc Kiến; những kẻ có học và dân thường cùng theo hưởng ứng rất đông. Triều đình cử quan Đô hiến là Trương Giai, từ huyện Ngân kéo quân về phía nam để chinh phạt. Trương Đô hiến dùng mưu bắt được giặc loạn; sau đó liền cử viên Đô sự họ Tạ thuộc Bố Chánh ty, của tỉnh Phúc Kiến, đi truy lùng bắt giết những kẻ theo giặc loạn.
Tạ Đô sự cố sức điều tra được danh sách những người đã theo giặc. Sau đó, đối với những gia đình nào không có tên trong danh sách liền kín đáo sai người đến trao cho một lá cờ nhỏ bằng vải trắng; dặn họ vào ngày quân binh truy quét thì cắm lá cờ ấy trước cửa. Tạ Đô sự lại nghiêm cấm quân lính không được giết người bừa bãi. Nhờ vậy mà cứu sống được đến hàng vạn người không phải chết oan.
Về sau, con trai của Tạ Đô sự là Tạ Thiên thi đỗ Trạng nguyên, làm quan đến chức Tể tướng. Cháu nội là Tạ Phi cũng đỗ Thám hoa.
Liễu Phàm Tứ Huấn: Họ Lâm ở Phúc Kiến
Ở huyện Bồ Điền thuộc tỉnh Phúc Kiến có nhà họ Lâm. Đời trước có một lão bà ưa thích làm điều thiện, thường làm bánh bột gạo rồi đem bố thí cho người; ai đến xin cũng cho, không chút phiền hà. Có một vị tiên hóa hình làm đạo nhân, sáng nào cũng đến xin đến 6, 7 cái bánh. Lão bà ngày nào cũng đưa cho. Trải qua 3 năm đều đặn như vậy.
Vị tiên thấy được tấm lòng chân thành của bà rồi, liền nói: “Ta ăn bánh của bà đã 3 năm, biết làm sao đền đáp? Sau nhà bà có một chỗ đất đẹp. Kkhi nào bà mất đi, dặn trước người nhà hãy chôn cất bà nơi ấy. Con cháu về sau sẽ được hưởng quan tước nhiều như số hạt mè trong một thăng mè.”
Người con trai theo lời mẹ dặn, chôn cất lão bà nơi chỗ đất ấy. Ngay đời sau đó đã có 9 người đỗ đạt. Trải qua nhiều đời sau nữa thì những người quyền quý quan tước trong họ ấy rất nhiều. Tỉnh Phúc Kiến có lưu truyền câu tục ngữ rằng: “Không có họ Lâm thì không lập được bảng vàng”. Ý nói không một khoa thi nào lại không có người họ Lâm đỗ đạt.
Liễu Phàm Tứ Huấn: Phùng Trác Am
Cha của quan Thái sử Phùng Trác Am khi còn học ở trường huyện, vào một ngày mùa đông cực kỳ rét buốt, dậy sớm đến trường học; giữa đường bỗng nhìn thấy một người bị ngã nằm trong đống tuyết. Đến sờ vào thì thấy đã bị tê cứng đến nửa người rồi. Ông liền cởi chiếc áo ấm đang mặc ra đắp cho người ấy, rồi đưa về nhà cứu sống.
Sau đó, ông mộng thấy một vị thần bảo rằng: “Ông cứu được một mạng người, có tâm chí thành, nay ta sai Hàn Kỳ đến làm con ông.” Nhân đó nên đến khi sinh con trai liền đặt tên là Phùng Kỳ, sau mới lấy hiệu là Trác Am.
Liễu Phàm Tứ Huấn: Họ Ưng ở Triết Giang
Quan Thượng thư họ Ưng người Đài Châu thuộc tỉnh Chiết Giang. Thuở còn thanh niên học tập trong vùng núi. Vùng ấy ban đêm có bọn ma quỷ tụ tập kêu rú, thường khiến mọi người kinh sợ, nhưng riêng ông không chút sợ sệt.
Một đêm nọ, ông nghe tiếng quỷ nói: “Có một phụ nữ kia vì chồng đi xa đã lâu không về. Cha mẹ chồng nghĩ là con mình đã chết nên ép cô ấy phải lấy chồng khác. Cô ấy không chịu nên đêm mai sẽ thắt cổ tự tử ở nơi ấy. Vậy là ta có người thế thân rồi.”
Họ Ưng nghe biết được tên người phụ nữ trong câu chuyện. Ông liền ngầm bán ruộng nhà được 4 lượng bạc; rồi viết một bức thư giả làm thư của người chồng gửi về nhà, kèm theo cả 4 lượng bạc. Cha mẹ chồng của người phụ nữ kia được thư. Họ xem chữ viết không phải của con mình nên nghi ngờ, nhưng rồi lại nghĩ: “Thư có thể giả, nhưng tiền làm sao giả được?” Vì thế, họ cho rằng con mình vẫn bình an không xảy ra chuyện gì. Người phụ nữ kia nhờ vậy không bị ép lấy chồng khác.
*
Về sau, người chồng quay về, vợ chồng lại được đoàn tụ như xưa. Một đêm, họ Ưng lại nghe quỷ nói với nhau: “Ta đã sắp có người thế thân. Chỉ do gã tú tài này phá hỏng chuyện của ta.”
Có con quỷ gần đó hỏi: “Sao mày không hại nó?”
Quỷ kia đáp rằng: “Thượng đế thấy người này tâm địa tốt lành, nên đã truyền lệnh ghi âm đức cho ông ta sau này sẽ làm quan Thượng thư. Tao làm sao có thể hại được?”
Họ Ưng nghe như vậy càng thêm nỗ lực; việc thiện ngày càng làm được nhiều hơn, phước đức càng thêm sâu dày. Gặp năm mất mùa đói kém, ông liền mang gạo của nhà ra cứu giúp cho người đói; gặp người thân thích có việc nguy cấp, ông liền ân cần giúp đỡ họ vượt qua; gặp những hoàn cảnh trái nghịch, ông thường quay lại tự xét lỗi mình rồi vui vẻ chấp nhận. Con cháu của ông đỗ đạt thành danh, tính đến nay số lượng rất nhiều.
Liễu Phàm Tứ Huấn: Chuyện nhà Từ Thức
Huyện Thường Thục thuộc tỉnh Giang Tô có người tên Từ Thức, hiệu Phượng Trúc. Cha ông vốn là người giàu có. Gặp một năm mất mùa đói kém, cha ông là người trước tiên trong toàn huyện đề xướng việc hủy bỏ không thu tô của nông dân; sau đó lại mang lúa gạo trong nhà ra phân phát cứu giúp người đói thiếu.
Đến đêm nghe tiếng quỷ thần nơi cửa trước hô to rằng: “Ngàn vạn lần quyết không lừa dối, tú tài nhà họ Từ sẽ đỗ cử nhân.” Nhiều đêm liên tiếp đều nghe tiếng hô to như vậy.
Năm ấy, Phượng Trúc dự kỳ thi Hương quả nhiên đỗ cử nhân. Cha ông nhân đó càng nỗ lực làm thiện, ngày càng nhiều hơn, không chút biếng trễ. Những việc như tu sửa cầu đường, cúng dường trai tăng, cứu giúp người nghèo đói… cho đến hết thảy những việc mang lại lợi ích cho người khác, ông đều cố hết sức làm.
Về sau lại nghe tiếng quỷ thần hô to nơi cửa trước rằng: “Ngàn vạn lần quyết không lừa dối! Cử nhân nhà họ Từ sẽ làm quan đến chức Đô Đường.”
Về sau, Phượng Trúc quả nhiên làm quan đến chức Tuần phủ Lưỡng Chiết.
Liễu Phàm Tứ Huấn: Đồ Khang Hy
Có viên Chủ sự bộ Hình tên Đồ Khang Hy là người quê ở phủ Gia Hưng, thuộc tỉnh Chiết Giang. Một đêm nọ, ông vào trong ngục, thận trọng tra hỏi tỉ mỉ trường hợp của từng người tù. Qua đó phát hiện được một số người vô tội. Ông không lấy đó làm công lao của riêng mình, liền bí mật viết hết lời khai của các tù nhân thành văn bản, trình lên quan Thượng thư bộ Hình.
Sáng sớm hôm sau khi xét xử tội nhân, quan Thượng thư dựa theo những lời ông đã báo lên mà tra hỏi. Hết thảy tù nhân đều khâm phục nhận chịu; nhờ đó làm rõ và phóng thích được hơn mười người bị oan. Bấy giờ, qua sự việc ấy, dân chúng ở kinh đô đều ca tụng quan Thượng thư là người sáng suốt.
*
Đồ Khang Hy lại thưa với quan Thượng thư rằng: “Ngay ở chốn kinh thành mà còn có nhiều người dân bị oan ức; dân chúng bốn phương số nhiều đến hàng triệu người, lẽ nào lại không có những kẻ bị oan? Vì thế, cứ 5 năm một lần triều đình nên cử một vị quan Giảm hình,về các địa phương, tra xét sự thật các vụ án để phán xử lại cho công bằng.” Quan Thượng thư trình tấu đề nghị ấy lên triều đình, được chuẩn y. Bấy giờ, Đồ Khang Hy cũng được đề cử làm một trong số các quan Giảm hình.
Đêm nọ, Đồ Khang Hy mộng thấy một vị thần bảo rằng: “Mạng số của ông vốn không có con. Nay ông đề nghị việc giảm hình rất hợp lòng trời. Ngọc Đế ban cho ông 3 người con, về sau đều sẽ được áo tía đai vàng.”
Đêm ấy, vợ ông có thai rồi sinh ra con trai là Đồ Ứng Huân. Sau lại sinh được Đồ Ứng Khôn, Đồ Ứng Tuấn. Cả ba người con ấy sau đều được quan tước hiển vinh.
Liễu Phàm Tứ Huấn: Bao Bằng
Phủ Gia Hưng, thuộc tỉnh Chiết Giang, có người tên Bao Bằng, tự là Tín Chi. Cha ông làm quan Thái thú Trì Dương, sinh được 7 người con. Bao Bằng là con út, làm rể nhà họ Viên ở huyện Bình Hồ. Ông Bao Bằng với cha tôi có giao tình hết sức thân mật. Ông học rộng tài cao nhưng đi thi nhiều lần không đỗ. Do đó về sau chú tâm vào Phật học và Lão học.
Một hôm, ông dạo chơi ở Mão Hồ về phương đông, bỗng gặp một ngôi chùa làng có pho tượng Quán Âm. Tượng đứng trong chùa mà bị nước dột thấm ướt hết. Ông lục trong túi còn được 10 lượng bạc, liền trao hết cho thầy trụ trì để tu sửa mái chùa. Thầy trụ trì nói việc này tốn kém nhiều mà tiền như vậy quá ít, e không thể làm được. Bao Bằng liền lấy ra bốn xấp vải Tùng; lại soát trong rương hành lý được bảy cái áo vải kép loại tốt, chỉ vừa mới mua, liền trao tất cả cho thầy trụ trì.
*
Người hầu có ý ngăn cản, Bao Bằng liền nói: “Chỉ cần thánh tượng Bồ Tát không bị hư hoại, ta dù không mặc áo cũng chẳng hề gì.”
Thầy trụ trì cảm động rơi nước mắt, nói: “Đem tiền, vải, áo cúng dường, cũng không phải việc khó làm; nhưng tâm chí thành như ông thật không dễ có!”
Khi việc tu sửa ngôi chùa đã hoàn thành, Bao Bằng lại đưa cha mình cùng đi đến viếng chùa, nghỉ đêm lại đó. Ông mộng thấy có vị hộ pháp đến cảm tạ và nói: “Con ông sẽ được hưởng lộc ở đời.”
Về sau, con trai ông là Bao Biện, cháu nội là Bao Sanh Phương, đều đỗ đạt làm quan vinh hiển.
Liễu Phàm Tứ Huấn: Nhà Chi Lập
Huyện Gia Thiện, thuộc tỉnh Chiết Giang, có người tên Chi Lập. Cha ông trước đây là một viên thư lại giúp việc hình án trong huyện. Có người tù vô tội nhưng bị hãm hại phải chịu tội tử hình. Ông thấy vậy thương xót, muốn tìm cách xin cho được sống. Người tù nhân lúc vợ vào thăm nói với vợ rằng: “Ông Chi có lòng tốt cứu giúp, tôi thật hổ thẹn không biết lấy gì báo đáp. Ngày mai nàng hãy mời ông ấy đến nhà chơi, xin được đem thân hầu hạ chăn gối. Nếu ông ấy chấp nhận thì tôi có thể giữ được mạng sống.” Người vợ khóc mà vâng lời.
Hôm sau, khi ông Chi đến nhà, người vợ tự mình ra hầu rượu, nói rõ ý chồng mình. Ông Chi không chấp nhận, nhưng sau đó vẫn đem hết sức lo liệu sự việc. Khi người tù được tha, vợ chồng cùng đến nhà ông bái tạ rồi nói: “Ân đức của ông thật trên đời hiếm có. Nay biết ông không có con, chúng tôi có đứa con gái vừa lớn, xin cho được theo làm hầu thiếp lo liệu việc nhà. Như vậy cũng là theo đúng lễ nghi.”
Ông Chi liền lo đủ lễ vật mà cưới về. Sau sinh ra Chi Lập, 20 tuổi đã thi đỗ đầu bảng; sau làm quan đến chức Khổng Mục trong Hàn Lâm viện. Chi Lập sinh con là Chi Cao, Chi Cao sinh ra Chi Lộc, đều đỗ cử nhân, học vấn uyên bác.
Chi Lộc lại sinh ra Chi Đại Luân thi đỗ tiến sĩ.
*** Liễu Phàm Tứ Huấn ***
Mười trường hợp vừa kể trên, việc làm của mỗi người đều khác biệt, nhưng giống nhau ở một điểm: Tất cả đều là việc thiện. Tuy nhiên, xét đến chỗ tinh yếu cặn kẽ mà nói thì việc làm thiện còn có phân ra chân thật khác với giả dối, ngay thẳng khác với tà vạy. Tích âm đức khác với tạo phước ở đời; đúng đắn khác với sai lầm; lệch lạc khác với chính đáng; một phần khác với trọn vẹn; lớn lao khác với nhỏ nhặt; khó khăn khác với dễ dàng.
Hết thảy đều nên luận xét đến chỗ sâu xa. Nếu làm việc thiện mà không thấu hiểu cặn kẽ đạo lý, ắt có khi tưởng mình đang làm việc thiện mà không biết đó là tạo nghiệp xấu. Như vậy thì khổ nhọc tâm trí cũng chỉ là uổng phí, chẳng được ích lợi gì.
Như thế nào là chân thật khác với giả dối?
Xưa có một nhóm các nho sinh đến tham vấn hòa thượng Trung Phong, thưa hỏi rằng: “Nhà Phật đưa ra thuyết nhân quả báo ứng như bóng theo hình. Nhưng nay thấy người kia làm việc thiện mà con cháu họ không được hưng thịnh; lại thấy người nọ làm việc ác mà con cháu họ sung túc thịnh vượng. Như vậy, thuyết của nhà Phật thật chẳng lấy gì để làm bằng cứ cả.”
Hòa thượng Trung Phong đáp: “Khi cảm xúc trần tục chưa dứt sạch thì con mắt chân chánh chưa thể khai mở. Đối với việc thiện mà xem là ác, đối với việc ác lại xem là thiện. Những việc như thế rất thường gặp. Sao các ông không tự trách chỗ thấy biết điên đảo sai lầm của mình, mà ngược lại oán trách sự báo ứng của đạo trời cho là sai lệch?”
Các nho sinh liền hỏi: “Thiện và ác là hai điều trái ngược nhau. Sao có thể nhận biết điên đảo như thầy nói?”
Hòa thượng liền bảo họ mỗi người hãy đưa ra sự mô tả để phân biệt thiện ác.
Một người nói: “Mắng nhiếc, nhục mạ người khác là ác; cung kính, lễ phép với người khác là thiện.”
Hòa thượng Trung Phong nói: “Chưa hẳn đã là như vậy.”
Một người khác nói: “Tham muốn tiền của, làm bậy để lấy của người khác là ác; ngay thẳng thanh bạch không lừa gạt lấy của người khác là thiện.”
Hòa thượng Trung Phong lại nói: “Chưa hẳn đã là như vậy.”
*
Mỗi người trong nhóm nho sinh đều nói ra cách hiểu của mình, hòa thượng Trung Phong đều bảo là chưa đúng. Cuối cùng, cả nhóm cùng thưa thỉnh ngài nói ra lý lẽ đúng thật.
Hòa thượng bảo họ: “Việc làm mang lại lợi ích cho người khác, đó gọi là thiện; việc làm chỉ mưu lợi ích riêng cho bản thân mình, đó gọi là ác. Nếu có thể mang lại lợi ích cho người, thì việc mắng nhiếc, nhục mạ người cũng đều là thiện. Nếu chỉ vì lợi ích riêng tư cho bản thân mình thì việc cung kính, lễ phép với người khác cũng đều là ác.
“Vì thế, người làm việc thiện lấy sự lợi ích cho người khác làm việc chung, thì việc chung ấy là chân thật; xem lợi ích của bản thân mình là việc riêng tư, việc mưu lợi riêng tư ấy ắt là giả dối.
“Làm việc thiện xuất phát từ tâm chân thành là chân thật; không xuất phát từ bản tâm, chỉ bắt chước làm theo là giả dối.
“Làm việc thiện mà hoàn toàn không vướng chấp vào hình tướng là chân thật; vướng mắc nơi hình tướng phân biệt là giả dối.
“Đối với hết thảy những việc tương tự khác, các ông đều nên dựa theo các nguyên tắc nêu trên mà tự mình khảo xét, phân biệt giữa thiện hay ác, chân thật hay giả dối.”
Liễu còi viết
Nam Mô A Di Đà Phật! Con xin thưa quý thầy ạ, con tình cờ độc trên mạng có nhắc đến cuốn, kinh xuân thu bên nước bạn, nên con muốn xem thử không biết quý thầy có đang nên trên trang mạng không con xin quý thầy từ bi chia sẽ cho con với ạ. Với con mà độc liệu có lợi ích gì không ạ. Nam mô a di đà phật!
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm không đọc và cũng không có sách ấy bạn ạ! Mà bạn học Phật thì đọc sách ấy làm gì? Để thời gian niệm Phật cho sớm tiêu nghiệp tăng phước chẳng phải là tốt hơn sao?
Liễu còi viết
Nam Mô A Di Đà Phật! Con cảm ơn quý thầy ạ.
Thúy trần viết
Nam mô A Di Đà Phật
Thưa thầy, con mới bắt đầu tìm hiểu về Phật. Con đọc được bài viết trên của thầy và con rất muốn được tu tập tại gia mà chưa biết bắt đầu từ đâu và bắt đầu như nào. Cũng như nên bắt đầu đọc những sách gì. Xin thầy có thể chỉ dẫn cho con 1 chút ạ?
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Muốn tu tại gia, trước phải tin sâu nhân quả ba đời, sau mới đến phần hành pháp. Bạn xem bài này sẽ rõ hơn nhé: Học Phật pháp bắt đầu từ đâu.
Thúy trần viết
Nam mô A Di Đà Phật.
Dạ con cảm ơn thầy