Kinh văn:
Ngài Ðịa Tạng thưa rằng: “Thánh Mẫu! Nếu có chúng sanh nào phạm những tội như thế, thì kẻ đó phải đọa vào Ngũ Vô Gián địa ngục, cầu tạm ngừng sự đau khổ trong chừng một niệm cũng không được.”
Lược giảng:
Ngài Ðịa Tạng thưa với Ma Da Phu Nhân rằng: “Thánh Mẫu! Nếu có chúng sanh nào phạm những tội như thế, gây ra vô số nghiệp tội như tôi vừa kể, thì kẻ đó phải đọa vào Ngũ Vô Gián địa ngục—địa ngục có năm loại không gián đoạn. Bấy giờ, chúng sanh đó cầu tạm ngừng sự đau khổ trong chừng một niệm, một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi, cũng không được.”
Kinh văn:
Ma Da Phu Nhân lại bạch cùng Bồ Tát Ðịa Tạng: “Thế nào gọi là địa ngục Vô Gián?”
Ngài Ðịa Tạng thưa rằng: “Thánh Mẫu! Tất cả địa ngục đều ở trong núi Ðại Thiết Vi. Ðịa ngục lớn có mười tám chỗ; thứ kế có năm trăm chỗ, danh hiệu đều khác nhau; thứ kế nữa lại có đến ngàn trăm, danh hiệu cũng đều khác nhau.
“Ngục Vô Gián có ngục thành giáp vòng hơn tám vạn dặm; thành đó thuần bằng sắt, cao một vạn dặm; trên thành có lửa tụ, không chỗ nào hở trống. Trong ngục thành đó, các nhà ngục nối tiếp nhau, danh hiệu đều sai khác.”
Lược giảng:
Ma Da Phu Nhân, mẫu thân của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, lại bạch cùng Bồ Tát Ðịa Tạng: “Thế nào gọi là địa ngục Vô Gián? Vì sao địa ngục đó lại có tên là ‘vô gián’?“
Ngài Ðịa Tạng thưa rằng: “Thánh Mẫu! Tất cả địa ngục đều ở trong núi Ðại Thiết Vi. Trong số đó, địa ngục lớn có mười tám chỗ—có mười tám sở ngục thuộc loại lớn nhất; thứ kế có năm trăm chỗ, danh hiệu đều khác nhau; thứ kế nữa lại có đến ngàn trăm, danh hiệu cũng đều khác nhau.”
“Ngục Vô Gián có ngục thành giáp vòng hơn tám vạn dặm; thành đó thuần bằng sắt, cao một vạn dặm.” Bức thành này làm bằng sắt, cao mười ngàn dặm (lý), và bao quanh một chu vi rộng hơn tám mươi ngàn dặm.
*
“Trên thành có lửa tụ, không chỗ nào hở trống.” Trên mặt thành lửa cháy ngùn ngụt: Lửa ở phía đông bắn sang tường thành phía tây, lửa ở phía tây lại bắn qua tường thành phía đông; lửa ở phía nam phụt sang tường thành phía bắc, lửa ở phía bắc cũng phụt tới tường thành phía nam. Trong địa ngục này đâu đâu cũng rực lửa và đông đảo vô số ác thú, chẳng sót chỗ nào. Trong ngục thành đó, các nhà ngục nối tiếp nhau, danh hiệu đều sai khác.” Bên trong bức thành bằng sắt là các địa ngục nằm san sát nhau; và mỗi ngục đều có một tên gọi riêng biệt.
Kinh văn:
“Chỉ có một ngục tên là Vô Gián. Ngục này chu vi một vạn tám ngàn dặm; tường ngục cao một ngàn dặm, toàn bằng sắt và có lửa cháy suốt trên suốt dưới. Trên tường ngục có rắn sắt, chó sắt phun lửa đuổi nhau chạy bên này sang bên kia.”
Lược giảng:
“Chỉ có một ngục tên là Vô Gián.” Chỉ có độc nhất một địa ngục có tên là Vô Gián mà thôi. “Vô gián” tức là liên tục, không gián đoạn. Sự thống khổ trong địa ngục Vô Gián thì không có lúc ngừng dứt; tội nhân ở đó phải chịu khổ sở, đau đớn luôn luôn. Vì sao họ phải luôn luôn chịu đựng vô vàn thống khổ như vậy? Các linh hồn thọ tội trong địa ngục này là ai? Ðó là những người đã từng gây ra tội lỗi. Mỗi người đều có một linh hồn, và nếu người nào có tội thì linh hồn của người đó phải vào địa ngục để chịu tội.
*
Người ở thế gian nếu bị lửa thiêu hoặc bị chém thì đều có thể chết; và chết rồi thì chẳng còn biết đau đớn khổ sở gì nữa. Thế thì ở địa ngục, phải chăng chết rồi thì cũng không còn hay biết gì cả? Ðúng thế, cũng không hay biết gì cả! Tuy nhiên, ở địa ngục thì tội nhân cứ chết đó rồi sống đó; sống lại rồi chết đi, chết đi rồi sống lại, và cứ liên miên như thế mãi. Sống lại như thế nào?
Ở địa ngục có hai loại gió, gọi chung là “xảo phong” (gió tinh khôn). Vì sao gọi là “xảo phong”? Bởi vì hai luồng gió này rất kỳ lạ: Một luồng gọi là “xú phong” (gió thối), và một luồng là “hương phong” (gió thơm). “Hương phong” thì làm cho tội nhân sống lại với tướng mạo rất viên mãn; và sau đó được thăng lên cõi trời. Còn “xú phong” thì cũng làm cho tội nhân sống lại, song với hình dạng vô cùng xấu xí, như loài A-tu-la vậy.
Mấy hôm trước tôi đã có giảng rồi. Mặt mày của họ rất xấu xí, mắt mũi miệng đều “dọn nhà”; dồn hết về một chỗ với nhau, như muốn làm một “công ty hợp doanh” vậy; quý vị thấy như thế có xấu xí, kỳ quái không? Những người thọ tội ở địa ngục thì đa số là gặp ngọn gió “xú phong.” Bởi hễ “xú phong” thổi qua thì tội nhân sống lại; và họ cứ phải chết đi rồi sống lại, sống lại rồi chết đi, thống khổ triền miên, không hề gián đoạn, nên gọi là “vô gián.”
*
“Ngục này chu vi một vạn tám ngàn dặm; tường ngục cao một ngàn dặm.” Chính vì tường ngục quá cao, làm cản trở ánh mặt trời, cho nên ở địa ngục luôn luôn tối tăm, u ám. Tuy nhiên, cũng may là còn có lửa; nhờ có ánh lửa lập lòe mà tội nhân có thể trông thấy được một vài thứ ở chung quanh. Song, lửa này là một thứ “lửa nghiệp” (nghiệp hỏa); có thể thiêu đốt tội nhân đến cháy da chín thịt, vô cùng lợi hại; thống khổ không tài nào chịu nổi! Bây giờ quý vị thử nghĩ xem, nếu phải vào địa ngục này, thì chúng ta sẽ như thế nào? Ở đó, chúng ta hoàn toàn không có sự tự do tự tại, dù chỉ trong một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi!
Ðịa ngục Vô Gián có tường cao đến một ngàn dặm và “toàn bằng sắt.” Thứ sắt này vừa kiên cố lại vừa mát lạnh. Ðó là biểu thị nghiệp báo của chúng sanh quá kiên cố. Đến chốn này rồi thì trong lòng trở nên nguội lạnh; không còn tâm tranh danh, chẳng còn tâm đoạt lợi, chỉ một mực chịu khổ mà thôi: “Chao ôi! Khổ quá, khổ quá, thật là quá khổ!” Do đó, nếu quý vị vào địa ngục này rồi thì cái tâm gì cũng không còn nữa; bị tát một bạt tai cũng còn đỡ hơn nhiều so với cái khổ bị “lửa nghiệp” thiêu đốt; bị đá một cú vẫn không đau đớn bằng bị chó sắt rượt cắn; và bấy giờ quý vị sẽ cảm thấy thế nào là “tri túc” (biết đủ)!
*
“Và có lửa cháy suốt trên suốt dưới.” Cả bức tường đều hừng hực lửa; ở trên lửa cháy phụt xuống, ở dưới lửa cháy bốc lên.
“Trên tường ngục có rắn sắt, chó sắt phun lửa đuổi nhau chạy bên này sang bên kia.” Tại bốn góc tường thành, mỗi góc đều có một con chó sắt thật lớn chực sẵn. Tường ngục cao một ngàn dặm, thì những con chó sắt này cũng cao khoảng tám trăm dặm. Mỗi con có tám cái đầu, mỗi đầu có tám cái sừng, tương tự như sừng trâu vậy. Như thế, loài chó tám đầu này mỗi con có sáu mươi bốn cái sừng; và mỗi khi chúng lúc lắc đầu hoặc quay tới quay lui, thì biến thành vòng lửa (hỏa luân), vòng đao (đao luân). Hễ gặp người tội nào thì chúng lao tới, dùng sừng mà đâm người tội đó.
Trong quý vị có ai đã từng trông thấy quái vật như loài chó có sừng này chưa? Nếu chưa thì có thể đến địa ngục xem thử cho biết; có điều, xem xong thì không thể trở về lại được nữa; lọt vào đó rồi thì bặt tăm bặt tích luôn, vĩnh viễn chẳng thoát ra được! Ðến chốn ấy không phải như đi xem chiếu bóng, xem xong thì có thể thong thả ra về! Một khi đã vào địa ngục rồi thì quý vị chẳng còn nhà để về, cũng không được tự do tự tại nữa!
*
Ở địa ngục Vô Gián, các loài rắn sắt và chó sắt đó không chỉ cắn tội nhân, mà chúng còn có thể phun lửa, và mình mẩy chúng cũng rực lửa. Lửa ấy thiêu đốt thân thể chúng, gây ra một mùi hôi tanh khét lẹt, khiến ai ngửi phải cũng lợm giọng, buồn nôn; thậm chí cả lục phủ ngũ tạng cũng muốn tuôn ra ngoài. Thật khó mà chịu đựng cái mùi thối tha nồng nặc như thế! Cho nên, chẳng cần phải đi xem, bây giờ quý vị chỉ tưởng tượng thôi cũng thấy bồn chồn khó chịu, không tự tại chút nào rồi!
Như vậy, trên tường thành của ngục Vô Gián có rắn sắt và chó sắt lăng xăng bò qua bò lại, chạy tới chạy lui.
Kinh văn:
“Trong ngục có giường rộng khắp muôn dặm; một người thọ tội thì tự thấy thân mình nằm chật cả giường, ngàn muôn người thọ tội thì mỗi người cũng đều tự thấy thân mình đầy chật cả giường. Ðó là do các nghiệp chiêu cảm mà gặt lấy quả báo như thế.”
Lược giảng:
“Trong ngục có giường rộng khắp muôn dặm.” Song giường đó không phải để cho người ta ngủ. Thế thì để làm gì? Ðể cho các tội nhân lên nằm mà chịu tội!
*
Giường đó như thế nào? Giường đó rộng đến cả vạn dặm; và nếu “một người thọ tội thì tự thấy thân mình nằm chật cả giường, ngàn muôn người thọ tội thì mỗi người cũng đều tự thấy thân mình đầy chật cả giường.” Một người nằm trên giường ấy thọ tội, thì người ấy tự thấy thân mình choán hết cả giường; mà dẫu có đến ngàn vạn người cùng thọ tội, thì ai nấy đều tự thấy thân thể của chính mình trải đầy, chiếm trọn cả cái giường rộng lớn.
“Ðó là do các nghiệp chiêu cảm mà gặt lấy quả báo như thế.” Do sự cảm vời của bao tội chướng và ác nghiệp đã tạo khi trước, cho nên tội nhân phải nhận lãnh quả báo như thế.
Kinh văn:
“Lại nữa, các tội nhân còn phải chịu đủ sự khổ sở; như có cả ngàn trăm Dạ-xoa cùng các ác quỷ, răng nanh như đao kiếm, mắt như ánh điện chớp, tay có móng đồng, lôi kéo người tội.
Lại có quỷ Dạ-xoa cầm cây kích sắt lớn đâm vào mình người tội, hoặc đâm trúng miệng mũi, hoặc đâm trúng bụng lưng, rồi hất tung lên trên không và hứng lấy, hoặc để lại trên giường.
Lại có chim ưng bằng sắt mổ ăn mắt người tội.
Lại có rắn sắt quấn cổ người tội.
Tội nhân còn bị đóng đinh dài vào các khớp xương và lóng đốt trong thân, kéo lưỡi cày bừa, móc ruột bằm chặt, rót nước đồng vào miệng, quấn sắt nóng quanh thân; muôn lần chết đi sống lại.
Nghiệp cảm như thế, trải qua ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được.”
*
Lược giảng:
Chúng ta bất luận trong lúc tụng Kinh, niệm Phật, hay trì Chú, đều cần phải biết vận dụng khí lực. Vận dụng như thế nào? Nguồn khí này phải phát xuất từ đan điền và khi vận hành trở về thì cũng tụ lại ở đan điền. Ðan điền tức là huyệt đạo nằm phía dưới rốn.
Dù là lúc tụng Kinh, niệm Phật, hay trì Chú, luồng khí này phát xuất đều phải từ đan điền; trả về cũng phải về lại nơi đó. Luồng khí phát ra từ đan điền thì vừa đủ; quý vị không nên dùng sức quá nhiều, song cũng không được quá ít; cần phải bình thường, vừa phải thôi; như thế mới không tổn khí. Vì phát xuất từ đan điền, đây là căn bản của khí, cho nên nguồn khí này là liên miên, không đứt đoạn. Nếu không biết cách vận hành thì có thể gây thương tổn cho khí lực, làm nguyên khí bị đứt đoạn; cho nên mọi người cần phải lưu ý điểm này.
Chúng ta bất luận là viết chữ hay làm việc gì, đều cần phải liên tục từ đầu đến cuối. Nếu quý vị vận dụng được năng lực của nguồn khí này, tức là có công phu vậy.
*
“Lại nữa, các tội nhân còn phải chịu đủ sự khổ sở, chịu đựng vô số thống khổ của chốn địa ngục. Có cả ngàn trăm Dạ-xoa cùng các ác quỷ, răng nanh như đao kiếm, mắt như ánh điện chớp, tay có móng đồng, lôi kéo người tội …” Dạ-xoa vốn là loài ác quỷ, ác quỷ chính là quỷ Dạ-xoa. Quỷ Dạ-xoa, hay Dược-xoa, còn gọi là quỷ “tiệp tật” (chạy nhanh) bởi chúng có thể chạy rất nhanh. Có rất nhiều loại quỷ Dạ-xoa, như Phi Ðằng Dạ-xoa (quỷ Dạ-xoa bay nhảy nhanh), Ðịa Hành Dạ-xoa (quỷ Dạ-xoa đi trên đất) …; và loại ác quỷ đề cập ở đây chính là Ðịa Hành Dạ-xoa.
Vậy, trong địa ngục có vô số quỷ Dạ-xoa và ác quỷ; miệng của chúng trông như chậu máu; răng thì bén nhọn chẳng kém gì bảo kiếm; mắt lại lóe sáng như tia chớp; còn tay và móng vuốt thì cứng chắc như đồng. Chúng thò tay ra là túm chặt được người tội. Bị chúng bắt được rồi thì hễ chúng bảo đi đâu là tội nhân phải đi đó; chỉ một cái phất tay của chúng là tội nhân có thể bị hất văng ra xa tới cả mấy mươi trượng, hoặc mấy trăm trượng, bởi chúng mạnh mẽ vô cùng.
*
“Lại có quỷ Dạ-xoa cầm cây kích sắt lớn đâm vào mình người tội; hoặc trúng miệng mũi, hoặc trúng bụng lưng; rồi hất tung lên trên không và hứng lấy.” Có một số quỷ Dạ-xoa thì cứ cầm cây kích bằng sắt thật lớn mà đâm bừa vào thân tội nhân; khi thì đâm trúng miệng trúng mũi, lúc lại thọc nhằm bụng nhằm lưng. Ðâm trúng rồi thì chúng hất tội nhân lên không trung; và khi tội nhân rơi xuống lại thì chúng giơ cây kích sắt ra để đón lấy.
“Hoặc để lại trên giường.” Cũng có khi quỷ Dạ-xoa đặt tội nhân trên giường, song không phải để cho tội nhân nằm ngủ, mà là để chúng lấy cây kích sắt ra đâm chém tiếp.
“Lại có chim ưng bằng sắt mổ ăn mắt người tội.” Trong địa ngục còn có một giống chim ưng bằng sắt, chuyên môn mổ mắt tội nhân mà ăn; hoặc mổ đầu tội nhân cho bể ra rồi moi lấy não mà ăn.
“Lại có rắn sắt quấn cổ người tội.” Lại còn có một loại rắn bằng sắt chuyên môn quấn lấy cổ tội nhân.
“Tội nhân còn bị đóng đinh dài vào các khớp xương và lóng đốt trong thân.” Khắp cơ thể tội nhân, mọi khớp xương, lóng, đốt tay chân … đều bị đóng bằng một loại đinh dài.
*
“Kéo lưỡi cày bừa.” Chúng ta không nên nói dối và cũng đừng nói chuyện thị phi, bàn tán lỗi phải của người khác. Bất luận người khác đối xử với chúng ta như thế nào, chúng ta đều không nên phê phán, kể lể hoặc nói xấu họ. Bằng không, trong tương lai, quý vị sẽ bị đọa vào địa ngục Bạt Thiệt (kéo lưỡi). Tội nhân ở địa ngục này đều bị kéo lưỡi ra, rồi bị cày lên trên giống như cày ruộng vậy.
“Móc ruột bằm chặt.” Tội nhân còn phải chịu hình phạt là bị moi hết ruột ra, và thân thể bị bằm chém.
“Rót nước đồng vào miệng, quấn sắt nóng quanh thân.” Ở địa ngục này, tội nhân còn bị đổ nước đồng nấu chảy vào miệng; hoặc bị quấn quanh người bằng dây sắt nung nóng.
Chỉ một ngày một đêm tại địa ngục này thôi mà tội nhân phải chịu đến “muôn lần chết đi sống lại!”
“Nghiệp cảm như thế, trải qua ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được.” Ðó là do sự chiêu cảm của nghiệp lực. Hễ bị đọa vào địa ngục này rồi thì tối thiểu cũng phải ở đó tới mấy ức kiếp. Muốn được ra khỏi địa ngục này thật không phải dễ. Đã vào rồi thì đừng mong có kỳ hạn được thoát ra!
Kinh văn:
“Lúc thế giới này hư hoại thì sanh nhờ qua thế giới khác; thế giới khác đó hư hoại thì chuyển sang phương khác; lúc phương khác đó hư hoại thì lại lần lượt chuyển đi; rồi sau khi thế giới này thành thì trở về lại. Những sự tội báo trong ngục Vô Gián là như thế.
Lại do có năm sự nghiệp cảm, nên gọi là Vô Gián. Những gì là năm?
Một là ngày đêm thọ tội, cho đến bao kiếp, không lúc nào dứt, nên gọi là Vô Gián.
Hai là một người cũng đầy chật, nhiều người cũng đầy chật, nên gọi là Vô Gián.
Ba là có những khí cụ hành hình người tội như cái chỉa, gậy, chim ưng, rắn, chó sói, chó, cối, cưa, đục, giũa, búa rìu, vạc dầu sôi, lưới sắt, dây sắt, lừa sắt, ngựa sắt, da sống niềng đầu, nước sắt nóng rưới thân; và khi đói thì nuốt viên sắt, khát uống nước sắt …; quanh năm suốt kiếp, cho đến na-do-tha kiếp, khổ sở triền miên, không hề gián đoạn, nên gọi là Vô Gián.
*
Bốn là bất luận kẻ nam người nữ, Khương Hồ di địch, người già trẻ nhỏ, kẻ sang người hèn, hoặc rồng hoặc thần, hoặc trời hoặc quỷ, hễ gây tội ác thì chiêu cảm lấy nghiệp, tất cả đồng chịu như nhau, nên gọi là Vô Gián.
Năm là nếu bị đọa vào địa ngục này, thì từ khi mới vào cho tới trăm ngàn kiếp, mỗi ngày mỗi đêm đều muôn lần chết đi muôn lần sống lại, muốn cầu tạm ngừng trong chừng một niệm cũng không được, trừ phi nghiệp tội tiêu hết mới được thọ sanh; do cứ liên miên như thế nên gọi là Vô Gián.”
Ðịa Tạng Bồ Tát thưa với Thánh Mẫu rằng: “Nói sơ lược về địa ngục Vô Gián là như thế. Nếu nói rộng ra về tên của những khí cụ hành tội cùng những sự thống khổ trong địa ngục đó, thì trong suốt một kiếp cũng không thể nào nói hết được!”
Ma Da Phu Nhân nghe xong, ưu sầu chắp tay đảnh lễ mà lui ra.
Lược giảng:
Thọ mạng thông thường của nhân loại chúng ta hiện nay là trên sáu mươi tuổi—đây là nói chung chung thôi, không kể đến các trường hợp đặc biệt. Tuy có người thì sống tới hơn một trăm tuổi, và cũng có người thì lại chết lúc mới lên một, lên hai; song chúng ta không thể căn cứ vào thiểu số cá biệt đó mà kết luận rằng: Tuổi thọ của nhân loại là một hai tuổi hoặc hơn một trăm tuổi được.
Thọ mạng trung bình của con người vào thời Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất thế là 70 đến 80 tuổi. Tthời nay là từ 60 đến 70 tuổi. Ban sơ, thọ mạng của loài người là tám vạn bốn ngàn tuổi (84.000); sau đó, cứ một trăm năm thì tuổi thọ của con người lại giảm đi một tuổi, chiều cao cũng giảm bớt một tấc (thốn); và cứ giảm như thế cho đến khi thọ mạng của con người chỉ còn mười tuổi—đây là “kiếp giảm.”
Từ thọ mạng mười tuổi, cứ một trăm năm thì tuổi thọ con người lại tăng thêm một tuổi, và thân cao thêm một tấc (thốn); và cứ tăng như thế cho đến tám vạn bốn nghìn tuổi—đây là “kiếp tăng.”
Một lần tăng và một lần giảm, gọi là một kiếp. Một ngàn kiếp như thế gọi là một tiểu kiếp. Hai mươi tiểu kiếp gọi là một trung kiếp; và bốn trung kiếp gọi là một đại kiếp. Trong một đại kiếp—tức là bốn trung kiếp hoặc 80 tiểu kiếp—thì có hai mươi tiểu kiếp “thành,” hai mươi tiểu kiếp “trụ,” hai mươi tiểu kiếp “hoại,” và hai mươi tiểu kiếp “không.”
*
Thế giới nào cũng trải qua các giai đoạn “thành, trụ, hoại, không”—nhất định phải có lúc hư hoại! Như mấy ngàn năm trước, có nơi là quốc gia mà nay cả lục địa đều chìm dưới nước; hoặc có nơi do động đất nên cả quốc gia, trọn làng, hoặc nguyên cả một khu vực đều bị chôn vùi hết—đó chính là “hoại” vậy.
Vậy, bấy giờ, Ðịa Tạng Vương Bồ Tát nói tiếp: “Lúc thế giới này hư hoại thì sanh nhờ qua thế giới khác.” Không phải là thế giới này hoại rồi thì chẳng còn địa ngục, chẳng còn nghiệp tội! Không phải như thế! Thế giới này hư hoại rồi thì tội nhân phải dời qua thế giới khác, sống nhờ ở thế giới khác.
“Thế giới khác đó hư hoại thì chuyển sang phương khác.” Lúc thế giới khác cũng tuần tự hư hoại, thì lại dời sang nơi khác nữa.
“Lúc phương khác đó hư hoại thì lại lần lượt chuyển đi.” Nói tóm lại, hễ nơi nào bị hư hoại thì cứ thứ tự dời sang nơi còn tốt.
“Rồi sau khi thế giới này thành thì trở về lại.” Ðợi đến khi thế giới ban đầu (cũ) được thành lập trở lại rồi, thì lại trở về thế giới này.
“Những sự tội báo trong ngục Vô Gián là như thế.” Ðó là những tội báo ở địa ngục Vô Gián. Vì sao gọi là “vô gián”? Vì tội báo ở địa ngục này là liên miên bất tận, không hề có sự gián đoạn!
*
“Lại do có năm sự nghiệp cảm— năm việc do nghiệp lực cảm vời mà ra—nên gọi là Vô Gián.” Ðịa ngục Vô Gián, tiếng Phạn gọi là địa ngục “A Tỳ .”
“Những gì là năm? Năm sự nghiệp cảm ấy là gồm những gì? Một là ngày đêm thọ tội, cho đến biết bao số kiếp, không bao giờ dứt, nên gọi là Vô Gián.” Nghiệp cảm thứ nhất là tội nhân ở địa ngục này phải chịu tội suốt ngày suốt đêm, trong vô lượng vô số kiếp. Bởi những khổ báo mà họ phải chịu do trót đã trồng cái nhân gây nghiệp thọ khổ, thì không lúc nào ngừng dứt, cho nên gọi là địa ngục Vô Gián.
“Hai là một người cũng đầy chật, nhiều người cũng đầy chật; nên gọi là Vô Gián.” Tại địa ngục này, một người ở thôi thì cũng thấy chật cả ngục, mà nhiều người ở thì cũng thấy đầy chật cả ngục, nên gọi là địa ngục Vô Gián.
“Ba là có những khí cụ hành tội như cái chỉa, gậy, chim ưng, rắn, chó sói, chó, cối, …” Bởi thân người là một khí cụ tạo nghiệp, cho nên lúc thọ báo, thân thể con người cũng chính là khí cụ chịu tội, như một loại máy móc vậy. “Cối” tức là cái cối dùng để giã gạo, nhưng ở đây là để bỏ người tội vào mà giã nát ra.
*
Lại còn có các hình cụ khác như “cưa—để cưa xẻ thân thể tội nhân; đục—để đục khoét thành lỗ trên thân; giũa—để mài giũa xương cốt; búa rìu—dùng búa đập xương cho nát nhừ, vạc dầu sôi…” Trong ngục lại có cả vạc dầu sôi sùng sục để chiên người tội; quý vị nghe có đáng sợ không?
Ngoài ra, trong ngục còn có cả “lưới sắt, dây sắt, lừa sắt, ngựa sắt, da sống niềng đầu, nước sắt nóng rưới thân” nữa. Tội nhân còn bị niềng đầu bằng da sống, hoặc bị đổ nước sắt nóng lên khắp mình mẩy.
“Và khi đói thì nuốt viên sắt, khát uống nước sắt.” Những người tội này khi đói thì ăn gì? Khi đói bụng thì tội nhân chỉ có những hòn sắt để ăn; và lúc cổ khô khát nước, họ không có nước lọc hay nước trà, mà chỉ có nước sắt nóng để giải khát! “Quanh năm suốt kiếp, cho đến na-do-tha kiếp, khổ sở triền miên, không hề gián đoạn. Bởi ròng rã từ năm này sang năm khác, cho đến vô lượng kiếp, những khổ báo ở địa ngục này vẫn cứ liên tục tiếp diễn, vĩnh viễn chẳng có lúc ngừng dứt, nên gọi là Vô Gián.”
“Bốn là bất luận kẻ nam người nữ, Khương Hồ di địch…”
*
Ở Trung Hoa, dân chúng sinh sống tại khu vực Sơn Ðông, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc đều nói tiếng Quốc Ngữ; và người Trung Hoa thời xưa thường gọi cư dân miền Hồ Nam là “rợ phương Nam” (Nam man tử). Vì sao gọi họ là “man rợ”? Vì người ta không hiểu họ nói gì cả! Thuở ấy, đừng nói là tiếng Anh tiếng Mỹ; ngay cả tiếng Trung Hoa mà giữa người Trung Hoa cũng không hiểu được nhau nữa, cho nên mới gọi họ là “man tử.” Lúc bấy giờ, nước Trung Hoa chưa có sự giao dịch với các nước phương Tây; và người Trung Hoa cũng chưa thạo Anh ngữ.
Thời cổ xưa, người Trung Hoa ở miền trung ương thường gọi các dân tộc thiểu số sinh sống tại bốn phương là: “Nam man, Bắc khuyển, Ðông di, Tây địch.” Trong chữ “man” có chữ “trùng” (sâu bọ) nằm ở dưới; ý nói người ở phương Nam như loài rắn vậy. Còn đối với người ở phương Bắc thì sao? Thì gọi là “khuyển nhung” (“khuyển” có nghĩa là chó). Trong chữ “địch” (mọi rợ) có chữ “khuyển” (chó) đứng một bên; ám chỉ dân chúng ở địa phương đó đều là từ loài chó biến thành.
“Khương” tức là bộ tộc người Khương. Quý vị hãy nhìn xem, trong chữ “khương” thì có chữ “dương” (dê) nằm bên trên; ngụ ý rằng những người này là từ súc sanh biến thành. Còn “Hồ” là bộ tộc người Hồ.
*
“Người già, trẻ nhỏ.” Bao nhiêu tuổi thì gọi là “già”? Tám mươi tuổi thì được gọi là “già”! Bao nhiêu tuổi thì gọi là “trẻ nhỏ”? Ðó là các trẻ em dưới mười tuổi.
“Kẻ sang, người hèn.” “Quý vi thiên tử”—vua là cao sang; “tiện vi thứ dân”—dân là thấp hèn.
Vậy, bất luận là nam nữ, mán mường mọi rợ, già trẻ, sang hèn; “hoặc rồng hoặc thần, hoặc trời hoặc quỷ, hễ gây tội ác thì chiêu cảm lấy nghiệp, tất cả đồng chịu như nhau. Nếu họ phạm tội ác thì nghiệp báo cảm vời mà họ phải nhận lãnh đều giống nhau, nên gọi là Vô Gián.”
“Năm là nếu bị đọa vào địa ngục này, thì từ khi mới vào cho đến trăm ngàn kiếp, mỗi ngày mỗi đêm đều muôn lần chết đi muôn lần sống lại.” Tội nhân ở đây hễ chết thì liền bị ngọn gió “xảo phong” thổi tới làm cho sống lại; sống lại thì tiếp tục thọ tội, bị hành hình tới chết; chết rồi thì lại gặp gió “xảo phong” thổi cho sống trở lại nữa; nên nói là “vạn tử vạn sanh”. Muôn lần chết đi muôn lần sống lại.
“Cầu xin tạm ngừng trong chừng một niệm cũng không được.” Các tội nhân trong ngục này chỉ cầu mong có một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi được tạm ngưng thọ khổ, nhưng chẳng bao giờ có được! Phải thế nào thì sự khổ ở đó mới đình chỉ?
*
“Trừ phi nghiệp tội tiêu hết mới được thọ sanh”. Chỉ khi nào nghiệp chướng tiêu tan thì tội nhân mới có thể thọ sanh nơi khác. Vì cứ liên miên như thế nên gọi là Vô Gián.”
Ðịa Tạng Bồ Tát thưa với Thánh Mẫu, tức Ma Da Phu Nhân, rằng: “Nói sơ lược về Ðịa Ngục Vô Gián là như thế. Nếu nói rộng thêm về tên của những khí cụ hành tội cùng những sự khổ sở trong địa ngục đó, thì suốt một kiếp cũng không nói hết được!” Nếu kể ra thật tỉ mỉ như gây tội gì thì phải chịu quả báo gì, liệt kê đầy đủ tên của từng hình cụ cùng khí trượng, và tất cả những sự thọ khổ ở Ðịa Ngục Vô Gián, thì dù có nói ròng rã trọn một kiếp cũng không thể nào nói cho hết được!
( Vô gián Địa Ngục là gì – Theo Kinh Địa Tạng giảng giải – Hòa Thượng Tuyên Hóa )
Tuệ Tâm 2022.
Trả lời