Đi một quãng nữa, nhà Vua gặp một bà già, áo không kín thân, hình hài gầy yếu, mắt lòa sờ soạng, vừa đi vừa khóc lóc. Đạo Nhân hỏi:
– Bà già lo lắng gì mà khóc vậy?
Bà già ngửng lên đáp:
– Vì nhà Vua cả. Phải chi nhà Vua mà mù như lão đây thì mới đáng kiếp, lão sướng lắm vậy.
Đạo Nhân bảo:
– Bà nói như thế là lầm rồi, hễ già thì mắt mờ, nhà Vua có lỗi chi đâu?
– Đêm thì bị cướp, ngày thì bị quan lại nhiễm ô, phải chịu nghèo đói, nên lão đây mới phải hái rau lượm củi đổi gạo để nuôi sống, đạp phải độc trùng, vương phải độc khí nên mới bị mù què thế này. Vậy không phải lỗi của nhà Vua hay sao?
Vua tôi lại đi đến một quãng đường, thấy có người đàn bà đang lom khom nặn sữa bò. Con bò đá một cái, người đàn bà ngã lăn xuống đất, lồm cồm bò dậy, mắng:
– Phải chi mày đá hoàng hậu vợ Vua một đạp như vậy cho bõ ghét. Mày đá tao làm gì!
Đạo Nhân hỏi:
– Tự con bò dữ đạp bà, chớ nhà Vua, à quên, hoàng hậu vợ Vua có tội lỗi gì?
– Không lỗi à? Nhà Vua bất chính, vợ Vua xui xiểm, nước nhà mới rối loạn, không lo cấm ngăn trộm cướp, để nó bắt bò lành của tôi, chỉ để lại một con bò dữ, vắt sữa nó làm nó đạp một cái đau điếng người. Tại nhà Vua chớ ai nữa.
*
Đạo Nhân bảo:
– Tại bà không biết cách nặn sữa nên bị nó đá.
Người đàn bà đáp:
– Không phải thế đâu! Nếu nhà Vua ở chính thì Ngài Hiền Nhân sẽ ở lại đây, nước nhà đâu có bị loạn lạc.
Đi một lát nữa, đến khoảng đồng ruộng nhà Vua thấy một con chim đang mổ một con ếch. Con ếch lún vào bùn, mắng rằng: “Phải chi mày mổ Vua một cái như thế thì tao mới thích cho. Mày đừng mổ tao.”
Đạo Nhân bảo con ếch:
– Ngươi bị con chim nó mổ, chứ đâu lỗi ở nhà Vua, nhà Vua đâu có giữ hộ cho ngươi được.
Con ếch đáp:
– Tôi không trông mong nhà Vua giữ hộ cho tôi đâu. Vì nhà Vua không ân nhuận, việc chính trị bất bình đẳng, bỏ phế việc cúng tế, bỏ phế việc dẫn thủy nhập điền, vì thế trời hạn, nước khô, thân tôi phải bày ra để cho con chim nó mổ.
Con ếch lại than:
– Nếu nhà Vua biết chấp giữ quyền chính thì bỏ một người ác lợi cho một nhà, bỏ một nhà ác lợi cho một làng, rồi sẽ đến cảnh một xã hội quốc gia thịnh trị. Vì không biết chấp giữ quyền chính nên nhân dân thất sở, thiên hạ kêu ca.
*
Liền đó, Đạo Nhân tâu Vua:
– Xin Đại Vương xét kỷ: trăm họ vô tội, khổ sở khóc than cảm động đến cả quỷ thần, đến nỗi con ếch mà còn thốt lời như vậy. Chắc Đại Vương cũng đã thấy rồi. Vậy xin hãy đuổi kẻ ác, để kiến thiết quốc gia lại trên nền tảng thiện chánh, để muôn dân hồi đầu trở lại. Tâu Đại Vương, bây giờ bắt đầu gieo giống lúa ở ruộng tốt, gặp mưa thuận gió hòa thì lo gì mùa màng không trúng.
Vua hỏi:
– Vậy theo ý Ngài thì nên giao phó trách nhiệm nầy cho ai?
– Bệ Hạ phải mau mau mời ngài Hiền Nhân trở về vì Ngài là người rõ biết thời cơ, nếu trở về thì trong nước sẽ lại được bình an.
Nhà Vua cùng Đạo Nhân trở về cung. Ngài gọi một sứ thần lên căn dặn:
– Nhà ngươi hãy vì Trẫm vào núi rước ngài Hiền Nhân về. Và nếu Ngài không về, ngươi sẽ thưa: “Hoàng thượng nay đã tự biết ăn năn, muôn dân oán trách nên Hoàng thượng lo buồn không ăn cơm được và đang mong mỏi Ngài về. Xin Ngài giũ lòng nhân từ thương xót chúng sanh.” Nói như thế, Ngài biết trong nước loạn lạc và saün lòng thương xót, chắc sẽ trở về.
Sứ thần vâng mệnh ra đi, trải qua mấy hôm len lỏi trong núi rừng, mới đến được chỗ ngài Hiền Nhân ở. Sứ thần cúi đầu làm lễ và thưa:
*
– Kính bạch Ngài! Nhà Vua ân cần, hết lòng cung kỉnh, tự biết mình tội lỗi quá nặng, làm sai ý thánh nhân và để cho nước nhà loạn lạc trăm họ cùng khốn, nên đang mong mỏi Ngài trở về. Nhà Vua khóc lóc, nghĩ nhớ đến Ngài, không ăn uống gì được cả. Cúi xin Ngài mở lòng thương xót nhà Vua một phen nữa. Kính thỉnh Ngài trở về.
Hiền Nhân nghe nói, thương xót nhân dân, nên sửa soạn theo sứ giả trở về. Dọc đường, thấy con khỉ chết khô, Ngài liền lột lấy da để làm tọa cụ.
Nhân dân trong nước nghe tin Hiền Nhân đã trở về, đều ra tận biên giới nghinh tiếp và mời Ngài về lại tịnh xá ngoài thành.
Nhà Vua mặc triều phục, ra tận tịnh xá yết kiến, làm lễ Ngài. Sau khi hỏi han, Vua ngồi lại một bên, vòng tay tạ tội, thưa với Hiền Nhân:
– Trẫm vì sơ sót suy nghĩ không đến nơi đến chốn, nên làm hại nhân dân, trăm họ oán trách. Nay Trẫm một lòng chí thành cầu sám hối, xin Ngài tha thứ cho Trẫm bao nhiêu tội lỗi lầm lạc.
Hiền Nhân đáp lễ:
– Người có tội mà biết sám hối là hay lắm.
Rồi thấy bốn quan cận thần kề tai nói nhỏ, thầm thì với nhau, Hiền Nhân bảo:
– Các ngươi là người vô tội, sao không nói chuyện công nhiên, cần gì phải nói to nói nhỏ.
Bốn quan cận thần nổi giận:
– Ông làm Sa môn, lòng những mong mỏi phước trời, người người đều gọi ông là ông Hiền, lẽ ra ông không nên giết con khỉ mà lột da như thế.
*
– Các người mê hoặc lấy mình, không phân biệt cái gì là chân chánh, cái gì là tà ngụy. Bọn người làm điều ác đức, cái đó trời Phật đã biết, nên biết rằng khổ vui đều có trong luật nhân quả, không thể tránh được. Làm điều ác, tội ác sẽ theo đòi, làm điều lành, quả báo tốt sẽ đền trả, trọn đời không mất. Họa phúc tự mình, kẻ ngu tưởng là đâu xa cách. Bọn ngươi lấy việc ta lột da mà nạn rằng ta giết khỉ, điều ấy có giống việc gian ác giết hại của các người không?
Lại cứ nói mạng người tại trời, làm lành không phước, làm ác không họa; phải biết rằng họa phước rõ ràng như vang theo tiếng, bóng theo hình, chứ không phải họa phước tự trên trời rơi xuống. Các ngươi làm ác mà không tự biết, muốn che dấu nhưng nào có che dấu được. Lại lấy sự chê bai ta mà cho là đắc sách.
Trong bọn ngươi há chẳng có một người nói rằng: “Hễ người chết thì thần hồn tiêu diệt không sanh trở lại nữa.” Lời nói ấy có phải là lời nói của bực thánh nhân chăng? Hay là tự ý ngu muội của các ngươi bịa đặt ra? Các ngươi muốn làm chuyện ác rồi trở lại bảo rằng làm ác không tai họa, làm lành không được phước. Đó có phải là lời nói bịp người để che tội lỗi mình không. Còn các ngươi tự cho mình là hiểu thiên văn. Kìa hiện tượng của vũ trụ rõ ràng kia; nhựt nguyệt và tinh tú đó, các ngươi bảo ai tạo ra đó vậy ?
*
Bốn quan cận thần nghe nói, làm thinh không còn biết trả lời sao nữa.
Hiền Nhân tiếp:
– Tất cả hiện tượng trong vũ trụ đều do nghiệp lực tội phước. Làm lành làm ác đều do quả báo như bóng theo hình, người chết bỏ xác thân nhưng không bỏ được nghiệp hành. Gieo giống, tuy hạt lúa thúi mục dưới đất, nhưng sau nầy sẽ sanh ra cây đâm ra nhánh lá và kết hột trên ngọn. Thắp đèn, tim dần dần lụng, nhưng lửa vẫn còn đỏ mãi, hạnh nghiệp tội phước vẫn còn luôn luôn như người thắp đèn viết thơ, rồi đèn tắc, nhưng chữ vẫn còn. Hồn thần tùy hạnh nghiệp chuyển sinh đời khác, không hề gián đoạn. Các ngươi làm ác mà tự cho là cao cả, cũng như người giết cha mẹ mà lại có thể cho là vô tội sao?
Bốn quan đáp:
– Một nhánh cây còn không nên trái lá của nó thay, huống chi là giết cha mẹ mà cho là vô tội.
Hiền Nhân tiếp:
– Và bọn ngươi nạn ta, nhưng chính thực là ta lột lấy da con khỉ chết – vì khỉ chết, chớ ta nào có giết nó mà lột da? Còn bọn ngươi vu oan cho người, tội ác đó sẽ tính thế nào? Huống chi lại còn chủ trương tà quấy; bề ngoài giả làm lành, mà bên trong lại ẩn khuất làm việc gian ác. Cũng như vàng giả: ngoài thì nước vàng mà trong thì toàn đồng. Bề ngoài diện mạo tốt đẹp mà trong tâm toàn là sàm tặc. Thiệt chẳng khác gì chó sói lạc vào bầy dê, ngấm ngầm ăn hết bầy dê mà người giữ dê không hề hay biết.
*
Kẻ ác trong đời lắm khi cũng tự xưng đạo đức, giả khổ hạnh, cùng diễn giải kinh giới, nhưng bên trong chuyên hành tà siểm dối trá để cầu mong danh lợi. Người ngu không biết lại quay về tin phục. Rồi như nước sông gặp lụt, chảy tràn đầy dẫy, chưa kịp rút về biển cả, làm hại biết bao nhiêu người. Chỉ có bực thánh nhân mới có thể cứu giúp thiên hạ, cải bỏ ác tục, sửa sang việc lành, ai ai cũng đều nhờ cậy.
Nếu cho làm lành không phước, làm ác vô hại, thì các bực cổ thánh để lại bao nhiêu kinh điển làm chi và truyền trao gươm báu cho Vua làm chi? Hành nghiệp đều có quả báo rõ ràng. Làm dữ bị tai họa, mọi người đều ghét, không lâu thì mau tai họa ấy sẽ đến. Làm việc ân đức tuy ẩn kín, nhưng sau nầy sẽ bày ra và phước quả sẽ đem lại cho mình.
Vậy nên trong nước có Vua, Vua phải thuận theo phép Đạo, ủy nhiệm vụ cho người hiền, phó thác việc làm cho kẻ tài trí, ban thưởng người lành, trừng phạt người gian ác.
Bánh xe lăn tròn không ngừng, hành nghiệp cứ tùy theo đấy thọ sinh về nơi lành nơi dữ. Phải tin chắc có tội phước, đừng làm điều gian dối .
*
Phải hết sức cẩn thận lánh xa những kẻ gian ác và phải biết ăn năn tội lỗi Nếu mọi người đều lành thì bẩm tánh và quả báo sẽ lành đẹp giống nhau, song vì người làm ác rất nhiều nên nhân quả bất đồng: kẻ sống lâu, người chết yểu, kẻ nhiều bịnh, người ít bịnh; kẻ xấu xa, người tốt đẹp; kẻ nghèo hèn, người giàu sang. Kìa những người ngu, đui, điếc, câm, ngọng, kẻ mù què, tàn tật trăm điều đều do đời trước gây ác nhân mà nay gặt lấy ác quả. Còn đức độ, trung chánh, hiền từ nên là trí tuệ, đế vương, hào phú và muôn sự hạnh phúc. Như thế là nhân quả rõ ràng, sao lại bảo rằng không. Xin hãy suy nghĩ kỹ càng đừng lạc lầm vào tà đạo.
Hiền Nhân giảng xong, Vua cùng quần thần và tất cả nhân dân không một ai là không hiểu rõ và vui mừng.
Hiền Nhân lại nói tiếp:
– Và nay Hiền Nhân nầy lại xin nói một sự tích: Thuở xưa có một ông Vua tên là Cẩu Lạp có một cái ao trong ấy nuôi nhiều thứ “Cá ngọt.” Vì cá ngọt ít xương mà ngon lắm nên nhà Vua cử một quan giám ngư – quan xem cá – để giữ gìn ao cá. Mỗi ngày dâng Vua tám con, nhưng quan giám ngư mỗi ngày cùng ăn chùng ăn lén mất tám con. Vua biết cá mất, nên cử tám quan giám ngư để cùng nhau giữ gìn ao cá. Song tám vị giám ngư trùng đảng với nhau mỗi ngày mỗi người đều ăn lén hết tám con — té ra người giữ cá nhiều chừng nào thì cá lại mất nhiều chừng ấy.
*
Nay Bệ hạ đây cũng vậy. Giao nhiệm vụ cho nhiều người thì nước nhà càng thêm rối loạn. Cũng như kẻ hái trái non, ăn đã không có mùi vị gì mà lại làm mất giống, trị nước mà không dùng kẻ hiền, đã thiệt hại cho dân mà sau nầy tiếng tăm cũng mất và phước phần đều không. Trị nước bất chính làm cho thiên hạ có tâm tranh đoạt, cũng như muốn sửa sang và hưng nghiệp gia sản, mà không chịu để tâm dụng trí thì của cải mỗi ngày mỗi hao hớt đi.
Nước có tướng giỏi binh nhiều mà không chịu tập việc chiến trận, không lo lắng kiến thiết nước nhà, thì nước ấy sẽ bị hèn yếu. Làm Vua không kính đạo đức, không tôn thờ bực cao minh, thì hiện tại không người giúp đỡ và tương lai không được gặp phước lành. Hằng ngày giết hại, muôn họ kêu ca, thì tai họa thường xảy ra tới tấp, chết đi để tiếng xấu muôn đời.
Theo chính pháp trị dân thì được lòng người, kính thờ bực tôn trưởng, yêu mến trẻ thơ, hiếu thuận cha mẹ, vâng làm việc lành thì hiện tại an ổn và lại sinh thọ phước.
*
Làm việc trung chánh cũng như đi thẳng đường, lấy việc trung chánh làm cội gốc thì mọi người đều khâm phục. Như thế, sẽ gây được hạnh phúc thái bình. Lại phải sáng suốt, lượm lặt những lời xưa để làm kinh nghiệm cho đời nay, động tịnh phải biết thời, ân oai cho có lý, ban bố ân huệ cho nhân dân, bố thí nền bình đẳng. Được như thế thì đời nay sẽ an ổn vui vẻ, sau nầy sẽ quyết tu chứng đạo giác ngộ.
Chúng hội nghe ngài Hiền Nhân dạy, đều vui mừng vỗ tay khen ngợi không ngớt.
Nhà Vua liền đứng dậy cúi đầu thưa rằng:
– Nay Trẫm được nghe lời Ngài dạy, cũng như cơn gió mạnh thổi tan mây mù. Vậy xin Ngài mở lòng từ bi, nghĩ đến quốc gia, dạy bảo quốc dân và giúp đỡ Trẫm trị dân như trước.
Hiền Nhân liền đứng dậy, theo Vua về cung, cùng luận bàn chánh sự.
Bốn qua cận thần, rồi sau bị đuổi. Hiền Nhân giúp nước, ân huệ thấm nhuần, gió mưa hiệp thời, mùa màng trúng tuyển, nhân dân đều vui vẻ, bốn biển một nhà, trên dưới hòa thuận đều chung sức gây lại một cuộc thái bình thạnh trị …
*
Đức Phật ngừng lại một lát, Ngài nhìn đại chúng và tiếp:
“Nầy các ngươi! Hiền Nhân đời ấy, có phải ai đâu lạ, chính là TA đây. Còn đạo nhân cháu người là A Nan đây, vua Lam Đạt thuở ấy, chính là vua Ty Tiên Nặc này đây. Phu nhân đó là nàng Tôn Đà Ly, con chó Tân Kỳ là Xa Nặc, bốn quan cận thần là bốn kẻ ngoại đạo giết nàng Tôn Đà Ly ngày nay. Và sau cùng, con ếch hỏi đó, là ông Âu Đà Gia, đã chứng quả A La Hán rồi, đang đứng kia.
Các ngươi phải biết rằng, theo đạo Bồ Đề, ta đã thực hành trong nhiều kiếp, làm lành, chịu khổ, tích công lũy đức từ vô lượng kiếp số, nay vì chúng sanh, thành Phật cứu độ và bổn nguyện nay đã thành tựu.
Nầy các ngươi! Các ngươi nghe kinh nầy rồi, phải siêng tinh tấn, tu hành và vâng làm theo các điều lành đừng dãi đãi biếng nhác.”
Khi đức Thế Tôn nói kinh nầy xong, hơn ba ức người được hiểu lý đạo, đồng thọ ngũ giới và vui lòng làm theo.
( Kinh Hiền Nhân – Hết )
Trả lời