Kinh Vô Lượng Thọ: Ta Bà khổ – Cực Lạc Vui
Ðức Phật bảo Ngài A Nan: “Bồ Tát ở nước An Lạc rốt ráo đều sẽ đến bậc nhất sanh bổ xứ. Trừ những vị cố bổn nguyện vì chúng sanh mà lập nguyện công đức lớn để tự trang nghiêm, muốn độ thoát khắp cả chúng sanh.
Nầy A Nan! Hàng Thanh Văn ở nước An Lạc thân chiếu ánh sáng một tầm, thân Bồ Tát chiếu ánh sáng trăm do tuần. Có hai Bồ Tát tối tôn đệ nhứt oai thần quang minh chiếu khắp cõi Ðại Thiện.
Bạch đức Thế Tôn Hai Bồ Tát ấy danh hiệu là gì?
Nầy A Nan! Bồ Tát thứ nhứt hiệu là Quán Thế Âm, Bồ Tát thứ hai hiệu là Ðại Thế Chí. Hai Bồ Tát ấy ở cõi nước Ta Bà nầy tu Bồ Tát hạnh, lúc mạng chung chuyển sanh về nước An Lạc.
*
Nầy A Nan! Có chúng sanh nào sanh về nước An Lạc, thân của họ đều đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, thành mãn trí huệ thâm nhập diệu pháp, thần thông vô ngại, các căn sáng suốt mau lẹ. Người căn trí chậm lụt nhứt thì thành tựu hai pháp nhẫn. Người căn trí lanh lợi thì được vô lượng vô sanh pháp nhẫn.
Lại chư Bồ Tát ở nước ấy mãi đến thành Phật chẳng sanh vào ác đạo, thần thông tự tại thường biết túc mạng. Trừ người sanh về đời ác ngũ trược, ở phương khác như quốc độ Ta Bà của ta đây.
Nầy A Nan! Bồ Tát nước An Lạc thừa oai thần của đức Vô Lượng Thọ Phật, khoảng thời gian một bữa ăn, đi đến vô lượng thế giới mười phương cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn. Theo ý nghĩ của họ, những món cúng dường như hoa, hương, kỹ nhạc, y phục, phan lọng, vô số vô lượng thứ tự nhiên hóa hiện ra, tất cả đều trân quý vi diệu thế gian chẳng có được.
*** Phật Thuyết Kinh Vô Lượng Thọ ***
Chư Bồ Tát ấy liền đem rải lên cúng dường chư Phật và chư Bồ Tát Thanh Văn. Những thứ ấy ở trên không hóa thành lọng hoa xinh đẹp, sáng chói tỏa hương thơm khắp nơi. Lọng hoa ấy chu vi bốn trăm dặn, rồi lần lần lớn gấp bội cho đến trùm khắp cõi Ðại Thiên, sau đó tuần tự ẩn mất.
Chư Bồ Tát đều vui mừng thăng lên hư không đồng tấu thiên nhạc, dùng âm thanh vi diệu ca ngợi công đức của chư Phật, lắng nghe kinh pháp vui mừng vô lượng. Cúng dường chư Phật xong, bỗng nhiên nhẹ nhàng bay về bổn quốc An Lạc vẫn còn trước giờ ăn.
Nầy A Nan! Lúc đức Vô Lượng Thọ Phật ban pháp ngữ cho hàng Trời, Người, Thanh Văn, Bồ Tát thì đều vân tập tại thất bửu giảng đường. Thính chúng được nghe diệu pháp không ai là chẳng khai ngộ vui mừng. Liền đó bốn phương tự nhiên gió nhẹ thổi động, những cây thất bửu phát ra ngũ âm. Vô lượng hoa đẹp theo gió bay tứ tán để cúng dường bất tuyệt.
*
Tất cả hàng chư Thiên đều mang trăm ngàn thứ hoa hương cõi trời và muôn thứ kỹ nhạc trời cúng dường đức Phật ấy cùng Bồ Tát, Thanh Văn. Rải hoa hương khắp nơi, hòa tấu âm nhạc. Chư Thiên hàng hàng lớp lớp trước sau qua lại, vẹt tránh lẫn nhau. Trong lúc ấy, tất cả đều sung sướng khoái lạc, chẳng thể nói được.
Nầy A Nan! Chư Bồ Tát sanh về nước An Lạc, có giảng thuyết được thì thường tuyên chánh pháp, thuận theo trí huệ chẳng hề sai thất.
Trong nước An Lạc, chư Bồ Tát đối với vạn vật không có tâm ngã sở, không có tâm nhiễm trước. Qua lại đi đứng tâm không hệ lụy tùy ý tự tại, không khen lấy hay chê bỏ, không quan niệm bỉ ngã, không ý nghĩ tranh giành. Ðối với mọi người có tâm đại từ đại bi, chỉ nghĩ đến việc làm lợi ích, lòng luôn nhu thuận điều phục không hề giận hờn, không lười biếng chán nản, lìa cái triền được thanh tịnh.
*
Có những tâm bình đẳng, tâm thù thắng, thâm tâm, định tâm. Tâm yêu pháp, thích pháp và mừng được pháp, diệt trừ phiền não, rời tâm ác đạo, trọn vẹn công hạn của Bồ Tát. Thành tựu đầy đủ vô lượng cô đức, được thâm thiền định, thần thông và trí huệ. Chỉ ở bảy phần Bồ đề, tu tâm Phật thừa, nhục nhãn trong sáng không gì chẳng thấy biết rõ. Thiên nhãn thông đạt vô hạn vô lượng, huệ nhãn thấy chơn đế đến được bờ kia, pháp nhãn quan sát rốt ráo các đạo. Phật nhãn đầy đủ chiếu rõ pháp tánh, dùng trí vô ngại giảng thuyết cho người, xem khắp ba cõi trống rỗng không chỗ có.
Chí cầu Phật thừa đủ các biện tài, trừ diệt khổ họa phiền não của chúng sanh. Từ Như Lai sanh ra hiểu pháp như như, biết rành tập diệt âm thanh phương tiện. Chẳng thích thế tục ngữ ngôn, ưa mến đàm luận chánh pháp, tu tập những gốc lành chí tôn sùng Phật đạo. Biết tất cả pháp thảy đều tịch diệt, hai thứ còn thừa là sanh thân và phiền não đều hết. Nghe nói pháp thậm thâm lòng chẳng nghi chẳng sợ, thường hay tu hành đức tánh đại bi sâu xa vi diệu, chở che cho tất cả, rốt ráo nhứt thừa đến bờ kia.
*** Phật Thuyết Kinh Vô Lượng Thọ ***
Quyết đoán lưới nghi trí tuệ từ tâm phát ra, gồm bao Phật pháp không để sót, trí huệ rộng sâu như đại hải. Tam muội vững chắc như sơn vương, trí huệ chiếu sáng trong sạch hơn hẳn mặt nhựt, mặt nguyệt. Pháp thanh bạch đều đã đầy đủ, soi các công đức đồng một trong sạch như núi Tuyết. Tâm không phân biệt như mặt đất không nghĩ sạch dơ tốt xấu sai khác, rửa sạch những cấu nhiễm trần lao như tịnh thủy, cháy hết tất cả củi phiền não như lửa hồng. Đi qua các thế giới không chướng ngại như gió lớn, với tất cả không dính mắc như hư không.
Nơi tất cả thế gian không bị nhiễm ô như hoa sen, chuyên chở chúng sanh ra khỏi sanh tử như cỗ xe lớn. Chấn đại pháp lôi, cảnh giác kẻ chưa thức tỉnh, như mây dày mưa pháp cam lộ. Nhuần ướt chúng sanh như mưa lớn, loài ma ngoại đạo chẳng động đến được như núi Kim Cương. Nói các pháp lành và là bực tối thượng thủ như Phạm Thiên Vương, che mát tất cả những cây ni câu luật, rất là ít có, khó gặp như hoa ưu đàm bát. Oai phục ngoại đạo như kim sí điểu, không có chứa để như loài du cầm, không ai thắng được như Ngưu Vương. Khéo điều phục thuần thục như Tượng Vương, được vô sở úy như Sư Tử Vương, đại từ bình đẳng như hư không rỗng rang.
*
Dứt lòng ganh ghét vì chẳng đố kỵ người hơn mình. Chuyên ưa cầu pháp lòng chẳng chán đủ. Thường muốn giảng dạy chí nguyện chẳng mỏi mệt. Đánh pháp cổ, dựng pháp tràng. Chiếu huệ nhựt, trừ si ám. Tu lục hòa kính, thường hành pháp thí. Chí dũng mãnh tinh tiến, lòng không khiếp nhược thối chuyển, là đèn sáng cho đời, là ruộng phước thù thắng. Thường làm thầy dìu dắt bình đẳng không thương ghét, chỉ thích chánh đạo không ưa muốn gì khác. Nhổ gai ái dục để an ổn quần sanh, công đức trí huệ đều thù thắng không ai là chẳng tôn kính.
Diệt ba chướng du hý thần thông, đầy đủ tất cả những lực như: nhơn lực, duyên lực, ý lực, nguyện lực, phương tiện lực, thường lực, thiện lực, định lực, huệ lực, đa văn lực, thí lực, giới lực, nhẫn lực, tinh tiến lực, thiền định lực, trí huệ lực, chánh niệm lực, chỉ quán lực, thần thông lực, và năng lực điều phục các chúng sanh đúng pháp. Sắc thân tướng hảo công đức biện tài đều đầy đủ trang nghiêm không ai bằng. Cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, thường được chư Phật đồng khen ngợi. Đã rốt ráo các môn Ba la mật của Bồ Tát. Tu các môn không vô tướng vô nguyện tam muội và các môn tam muội bất sanh bất diệt, rời xa địa vị Thanh Văn và Duyên Giác.
*
Nầy A Nan! Chư Bồ Tát nước An Lạc thành tựu vô lượng công đức như vậy. Ta chỉ nói lược cho ông đó thôi. Nếu nói rộng thời nói suốt trăm nghìn muôn kiếp cũng chẳng hết được”.
Ðức Phật gọi Ngài Di Lặc Bồ Tát mà bảo rằng: “Nầy A Dật Ða! Công đức và trí huệ của hàng Thanh Văn và Bồ Tát nước An Lạc, của đức Vô Lượng Thọ Phật chẳng thể kể nói được.
Lại quốc độ ấy vi diệu an lạc thanh tịnh dường ấy, sao chư Thiên và mọi người chẳng gắng sức làm lành, phải đều siêng năng tinh tiến nỗ lực tự cầu, tất được siêu tuyệt vãng sanh nước An Lạc. Dứt ngang năm ác đạo, ác đạo tự nhiên đóng bít. Con đường đạo tiến lên không cùng tột dễ đến mà không có người, nước ấy chẳng trái bỏ một ai lại có sức kéo dắt tự nhiên.
Sao mọi người chẳng vứt bỏ việc đời để chuyên cần tu hành, cầu nên đạo đức để được tột sự trường sanh, hưởng vui không cùng cực.
*
Nhưng người đời phần đông phước mỏng, cùng tranh nhau những sự chẳng cần kíp. Ở tại trong chỗ kịch ác tột khổ mà nhọc nhằn kinh doanh chật vật để tự cung cấp. Không luận là người tôn kẻ ti, người nghèo, kẻ giàu, trẻ già nam nữ đều lo nghĩ về tiền tài, vất vả sầu khổ mãi nghĩ mãi lo không lúc nào yên. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà, có trâu ngựa lục súc, nô tỳ, tiền của y thực trăm ngàn thứ lại lo trăm ngàn thứ.
Toan tính cầu lợi lo nghĩ buồn sợ, bỗng chốc bị trộm cướp, nước cuốn, lửa cháy, sung công, tài sản tiêu tan thân mang tai họa, lại sầu khổ phẫn uất. Nếu tài sản không bị tiêu tan, thân không bị tai họa, nhưng cuối cùng vô thường bỗng đến, thân chết mạng chung, tay không mà đi không mang món gì theo được”.
*** Phật Thuyết Kinh Vô Lượng Thọ ***
Ðức Phật bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát và hàng chư Thiên nhơn chúng rằng:
“Nay ta nói với các ngươi, thế nhơn do những sự việc ấy nên chẳng đắc đạo. Phải suy nghĩ chín chắn, nên xa lìa những điều ác, chọn những điều lành rồi siêng năng thực hành.
Ái dục vinh hoa là những thứ chẳng thể bảo tồn mãi mãi, rồi đều sẽ ly tan, không có gì đáng vui đáng thích.
May mắn gặp đức Phật tại thế phải kíp chuyên cần tu tập. Người nào có chí nguyện sanh về nước An Lạc thì được trí huệ sáng suốt, công đức thù thắng. Chẳng nên buông lung theo lòng dục vọng, mà phụ rẫy lời dạy trong kinh pháp giới luật, để rồi phải rơi ở sau người. Nếu có ai còn mắc hay chẳng hiểu kinh pháp nên đem hỏi Phật. Ta sẽ giải thuyết cho”.
Bấy giờ Ngài Di Lặc Bồ Tát tiến ra quỳ dài bạch đức Phật: “Ðức Thế Tôn oai thần tôn trọng giảng nói rất hay. Tôi lắng nghe kinh ngữ mà đức Phật vừa nói, suy gẫm kỹ lại thì người đời thiệt đúng như lời đức Phật đã dạy.
*
Nay đức Phật thương xót hiển thị đại đạo, tất cả đều sáng mắt ra được lợi ích lành rất lớn, không ai là chẳng vui mừng. Chư Thiên, nhơn dân, cho đến các loài nhuyễn động, đều nhờ từ ân của đức Phật mà thoát khỏi ưu khổ.
Ðức Phật dạy bảo rất sâu rất lành. Phật trí thấy suốt mười phương ba đời, chẳng sự gì là chẳng rành rẽ. Ngày nay chúng tôi được giải thoát đây, đều là nhờ đời trước đức Phật đã từng khổ nhọc cầu đạo vậy. Ân đức của Phật trùm khắp, phước lớn vời vợi quang minh chiếu suốt. Đạt thấu pháp không, khai nhập tịch diệt, cảm động mười phương vô cùng vô cực.
Ðức Phật là đấng Pháp Vương, là thầy của tất cả trời người, tùy theo sở nguyện của họ đều làm cho họ đắc đạo. Nay được gặp đức Phật lại được nghe về đức Vô Lượng Thọ Phật, không ai là chẳng vui mừng tâm được khai ngộ”.
*
Ðức Phật bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát: “Ông nói rất phải. Nếu ai mến kính đức Phật thì thiệt là sự đại thiện. Trong thiên hạ lâu lâu mới có Phật ra đời.
Nay ta ở đời nầy làm Phật, diễn nói kinh pháp tuyên bố đạo dứt các lưới nghi. Nhổ gốc ái dục, ngăn nguồn xấu ác, đi khắp ba cõi không bị chướng ngại. Khai thị ngũ đạo độ kẻ chưa được độ, quyết chánh con đường sanh tử và Niết bàn.
Nầy A Dật Ða! Từ vô số kiếp đến nay, ông tu Bồ Tát hạnh để độ chúng sanh. Những người nhờ ông mà được đắc đạo, cho đến chứng Niết bàn chẳng thể đếm nói.
Chư Thiên và nhân dân tứ chúng từ nhiều kiếp đến nay, xoay lăn trong ngũ đạo lo sợ, khốn khổ chẳng nói hết được. Mãi đến đời nay vẫn chưa dứt sanh tử. Gặp được đức Phật nghe thọ kinh pháp và được nghe về đức Vô Lượng Thọ Phật, thiệt là được lợi lành rất lớn. Ta mừng cho đó.
*** Phật Thuyết Kinh Vô Lượng Thọ ***
Các người ngày nay cũng nên tự nhàm chán sanh lão bệnh tử thống khổ, thân ngũ ấm hôi nhơ vô thường, không có gì đáng vui thích. Phải tự quyết đoán đoan thân chánh hạnh, làm nhiều việc lành. Trừ sạch tâm nhơ bẩn, ngôn hạnh trung tín trong ngoài tương ưng. Tự độ mình mà cũng cứu giúp người khác, thành tâm cầu nguyện chứa nhóm đức lành.
Dầu phải cần khổ tu hành nhưng chỉ là một đời ngắn ngủi, về sau được sanh về nước An Lạc của đức Vô Lượng Thọ Phật hưởng sự khoái lạc vô cực. Mãi mãi hiệp với đạo, khỏi hẳn sanh tử. Không còn họa hoạn tham sân ngu si, muốn thọ một kiếp hay trăm ngàn muôn ức kiếp đều tùy ý tự tại,. Tất cả đều vô vi tự nhiên kế đạo tịch diệt.
*
Các người phải đều tinh tiến phát nguyện tu hành, không được nghi ngờ chần chờ. Tự gây lấy tội vạ mà phải sanh về cung điện bảy báu ở biên địa của nước ấy, chịu lấy tai ách trong năm trăm năm”.
Ngài Di Lặc Bồ Tát bạch đức Phật: “Chúng tôi nhận lãnh lời răn dạy của đức Phật, chuyên cần tu học y giáo phụng hành, chẳng dám có lòng nghi ngờ”.
Ðức Phật lại bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát rằng: “Các người có thể ở đời nầy, đoan tâm chánh ý, chẳng làm những điều ác đó là chí đức, mười phương thế giới không đâu sánh bằng. Tại sao vậy?
Ở quốc độ của chư Phật, hàng chư thiên và nhơn dân tự nhiên làm điều lành, chẳng phạm nhiều điều ác, họ rất dễ khai hóa. Hiện nay ta làm Phật ở thế gian nầy, ở trong ngũ ác ngũ thống ngũ thiêu, chỗ quá khổ lụy. Giáo hóa chúng sanh khiến họ trừ ngũ ác, bỏ ngũ thống, rời ngũ thiêu. Điều phục ý họ khiến họ trì ngũ thiện, cho họ được phước đức thoát khỏi thế gian, chứng nhập đạo Niết bàn trường thọ.
*
Nầy A Dật Ða! Những gì là ngũ ác, ngũ thống và ngũ thiêu? Thế nào là tiêu hóa ngũ ác, khiến trì ngũ thiện được phước đức thoát khỏi thế gian, chứng nhập đạo Niết bàn trường thọ?
Kinh Vô Lượng Thọ: Ðiều ác thứ nhất
Chư Thiên và nhơn dân cho đến loài nhuyễn động, phần đông muốn làm các điều ác đều như thế nầy: Kẻ mạnh hiếp kẻ yếu, giành giựt tàn hại sát lục cho đến ăn thịt lẫn nhau. Họ chẳng biết làm lành, ác nghịch vô đạo. Có nghiệp nhơn tất chịu quả báo, nên có những sự nghèo cùng hạ tiện cô độc, đui điếc ,câm ngọng tệ ác ngu si, thậm chí có hạng cuồng điên chẳng nên hình.
Còn những người tôn quý hào phú cao tài minh đạt, đó là do đời trước họ nhơn từ hiếu để tích đức làm lành.
Thông thường thế gian có phép nước ngục tù. Kẻ chẳng kiêng sợ giữ gìn làm ác, bị tội phải xử phạt cầu thoát khó được. Thế gian có những sự hiện tiền trước mắt như vậy.
*
Khi chết đời sau càng sâu càng khổ, vào chỗ u minh thọ lấy thân hình, nên có tự nhiên tam đồ vô lượng khổ não, chuyển đổi thân hình. Thọ mạng hoặc dài hay ngắn, thần thức tự nhiên đến đó theo nhau cùng sanh. Báo đền lẫn nhau không có lúc nào thôi dứt, tội ác chưa hết thì chẳng thể thoát lìa, đau khổ chẳng nói được. Con đường thiện ác nhơn quả đương nhiên như vậy.
Ðây là một đại ác một thống một thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người. Có ai ở trong ấy nhứt tâm nhiếp ý, đoan thân chánh hạnh, chuyên làm điều lành chẳng phạm tội ác thì được độ thoát. Có phước đức lớn, sanh lên cõi trời, hoặc chứng nhập Niết bàn. Ðây là một đại thiện vậy.
Kinh Vô Lượng Thọ: Ðiều ác thứ hai
Người thế gian, cha con anh em chồng vợ vô nghĩa vô đạo, chẳng thuận pháp độ. Xa xỉ hoang dâm kiêu mạn phóng túng, đều riêng muốn khoái ý nên buông lung theo lòng họ. Khi dối lẫn nhau, tâm khẩu mâu thuẫn, lời cùng ý không thành thiệt. Xiểm nịnh chẳng trung, xảo ngôn dua mị, ghét người hiền, chê người lành. Làm vua bất minh, làm quan lộng quyền, tại vì chẳng chánh khi dối lẫn nhau, hãm hại trung cang, dung dưỡng gian nịnh.
Tôi khi chúa, con khi cha, anh em chồng vợ bè bạn lường gạt lẫn nhau. Ai ai cũng cưu lòng tham dục, sân hận, ngu si, muốn mình được nhiều mặc người tổn hại. Chẳng nghĩ nhà phá thân vong, chẳng quản tội trước họa sau, cho đến thân thuộc nội ngoại liên lụy diệt tộc.
*
Có khi gia đình bè bạn xóm làng chợ búa, dân ngu tranh giành lợi hại, do giận hờn mà kết oán thù. Kẻ giàu dư dả lại bỏn sẻn chẳng chịu thí cho, tham ái quá nặng tâm nhọc thân khổ. Cuối cùng rồi không chỗ cậy nhờ đến đi một mình không ai theo giúp. Thiện và ác, họa và phước theo người mà sanh, hoặc ở chỗ vào chốn khổ, sau đó mới hối hận thì đâu còn kịp.
Người đời vì tâm khờ ít trí, thấy người làm lành thì chê ghét, chẳng chịu ngưỡng mộ để được bằng. Chỉ muốn làm ác, làm điều phi pháp. Thường có tâm trộm cắp trông đoạt được của người. Phá của tiêu tan rồi đi tìm cầu. Tâm tà chẳng chánh, sợ người hơn mình. Chẳng lo tính trước việc đến mới ăn năn.
*
Hiện đời bị phép nước tù phạt trị tội. Sau khi chết đọa vào ác đạo, nên có tự nhiên tam đồ chịu khổ vô lượng. Xoay vần trong đó nhiều đời nhiều kiếp không có lúc ra khỏi, khó được giải thoát, đau khổ chẳng nói được. Ðây là hai đại ác, hai thống, hai thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người.
Có người nào ở trong ấy mà nhứt tâm chế ý, đoan thân chánh hạnh chuyên làm điều lành, chẳng phạm điều ác thì được độ thoát, có nhiều phước đức, hoặc sanh lên cõi trời, hoặc chứng nhập Niết bàn. Ðây là hai đại thiện vậy.
Kinh Vô Lượng Thọ: Ðiều ác thứ ba
Người đời nương nhờ nhau mà sống còn ở trong trời đất, tuổi thọ không được bao nhiêu. Trên có các nhà hiền minh trưởng giả tôn quý hào phú, dưới có những kẻ nghèo cùng ti tiện yếu kém ngu phu. Trong đó có những người bất thiện thường mang lòng tà ác, chỉ nghĩ nhớ dâm dật ái dục, phiền não đầy bụng, ngồi đứng chẳng an, tham lam muốn lấy không của người. Chán ghét vợ nhà lén lút ra vào, hao tổn gia tài làm điều phi pháp.
Tụ hội bè đảng, đem quân xâm lăng, đánh cướp giết hại, cưỡng đoạt vô đạo. Ra ngoài làm ác chẳng tự làm ăn, trộm cắp bức hiếp buông lung hưởng lạc. Hoặc với người trong thân thuộc cũng chẳng kể tôn ty. Gia tộc nội ngoại đều lo lắng khổ sở vì họ. Cho đến cũng chẳng kiêng sợ phép nước. Ác nghiệp chiêu báo, sau khi chết đọa vào tam đồ chịu vô lượng khổ não, xoay vần trong đó nhiều đời nhiều kiếp không có thời gian ra khỏi, khó được giải thoát, đau đớn chẳng thể nói được. Ðây là ba đại ác, ba thống, ba thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người.
*
Có ai ở trong ấy như tâm chế ý, đoan thân chánh hạnh, chuyên lam điều lành chẳng phạm điều ác, thì được độ thoát. Có nhiều phước đức, hoặc sanh lên trời hay chứng nhập Niết bàn. Ðây là đại thiện vậy.
Kinh Vô Lượng Thọ: Ðiều ác thứ tư
Người đời chẳng nghĩ làm lành để dạy bảo lẫn nhau, lại cùng làm những điều ác, những là lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngôn, ỷ ngữ. Cãi vã chê bai, ganh ghét người lành, hãm hại người hiền rồi đứng bên vui thích. Bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn Sư trưởng. Vô tín với bằng hữu, tự tôn tự đại, cho mình là hay là phải. Cậy quyền ỷ thế áp bức người, làm ác không biết hổ thẹn, chẳng tự biết mình.
Tự cho mình là khỏe muốn mọi người kính nể. Chẳng sợ trời đất thần minh nhựt nguyệt, chẳng chịu làm lành, khó giáo hóa. Không kiêng sợ ai, luôn luôn kiêu mạn. Cậy có chút ít phước đức do đời trước làm được điều lành nhỏ, đời nay làm ác, phước đức tiêu diệt.
*
Sau khi chết, tội báo tự nhiên chẳng hề rời lìa, đọa vào tam đồ chịu vô lượng thống khổ, đến lúc này ăn năn đâu còn kịp. Xoay vần trong ấy nhiều đời nhiều kiếp, không có thời kỳ ra khỏi, khó được giải thoát, đau khổ chẳng nói được. Ðây là bốn đại ác, bốn thống, bốn thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người.
Có ai ở trong ấy nhứt tâm chế ý, đoan thân chánh hạnh, chuyên làm những điều lành chẳng phạm điều ác, thì được độ thoát. Có nhiều phước đức, hoặc sanh lên cõi trời, hay chứng nhập Niết bàn. Ðây là bốn đại thiện vậy.
Kinh Vô Lượng Thọ: Ðiều ác thứ năm
Người đời ỷ lại lười biếng, chẳng chịu làm điều lành, sửa mình tu nghiệp. Gia đình quyến thuộc đói rét khốn khổ. Cha mẹ có dạy răn thì giận dỗi chống trái, bất hiếu bất mục, phụ ân vô nghĩa, không có lòng báo đáp. Nghèo cùng khốn thiếu, sang đoạt phóng đãng, lấy ngang của người để tự cung cấp. Thích ngon ưa rượu, ăn uống vô độ, gây gổ xung đột chẳng biết nhơn tình. Thấy người hay tốt thì ganh ghét. Vô nghĩa vô lễ không hề kiêng kỵ.
Phóng túng chơi bời không ai khuyên can được. Với lục thân quyến thuộc, thiếu đủ không hề đoái hoài. Chẳng nghĩ ơn cha mẹ, chẳng biết nghĩa thầy bạn. Tâm thường nghĩ ác, miệng thường nói ác, thân thường làm ác, không có được chút lành. Chẳng tin kinh pháp của chư Phật hiền thánh. Chẳng tin hành đạo sẽ được giải thoát. Chẳng tin sau khi chết thần thức đầu thai trở lại. Chẳng tin làm lành được lành, làm dữ được dữ.
*
Muốn giết người chơn tu, phá rối chúng Tăng. Muốn hại cha mẹ anh em quyến thuộc. Tông tộc đều chán ghét muốn nó chết đi. Người như vậy, tâm ý họ cháy phừng ngu si mê muội mà họ tự cho là sáng suốt. Chẳng biết sanh từ đâu đến, chết sẽ về đâu. Bất nhơn bất thuận ác nghịch trời đất, mà lại muốn cầu may được trường thọ.
Có ai thương dạy bảo điều lành lẽ phải, khai thị con đường sanh tử thiện ác, họ vẫn chẳng tin, khổ tâm cạn lời cũng thành vô ích. Lòng họ bít lấp, ý họ chẳng tỏ ngộ. Lúc sắp chết mới biết lo sợ ăn năn thì đâu còn kịp nữa. Trong trời đất năm loài phân minh, rộng rãi mịt mờ mênh mênh mông mông. Báo ứng lành dữ, họa phước kéo dắt tự mình lãnh chịu, không ai thay thế được. Người lành làm lành thì từ vui vào vui, từ sáng vào sáng. Người dữ làm dữ thì từ khổ vào khổ, từ tối vào tối.
*** Phật Thuyết Kinh Vô Lượng Thọ ***
Ai biết được đó? Chỉ một mình đức Phật biết rõ dạy bảo khai thị. Người tin làm theo rất ít. Vì thế nên sanh tử chẳng thôi, ác đạo chẳng tuyệt. Người đời tạo ác như vậy nên có tự nhiên tam đồ khổ sở vô lượng. Xoay vần trong ấy nhiều đời nhiều kiếp, không có thời kỳ ra khỏi, khó được giải thoát đau đớn chẳng nói được. Ðây là năm đại ác, năm thống, năm thiêu, như lửa lớn đốt cháy thân người.
Nếu có ai trong ấy nhứt tâm chế ý đoan thân chánh niệm, ngôn hạnh tương ưng, việc làm chí thành, chuyên làm điều lành chẳng phạm điều ác thì được độ thoát, có nhiều phước đức được sanh lên cõi trời, hay chứng nhập Niết bàn. Ðây là năm đại thiện vậy.
*
Nầy A Dật Ða! Ðó là năm điều ác trong đời khổ não như vậy. Năm thống, năm thiêu xoay vần sanh lẫn nhau. Chẳng tu đức lành mà chỉ làm những điều ác, thì đều tự nhiên đọa vào ác đạo. Hoặc có kẻ hiện đời nay, trước hết bị bệnh hoạn cầu chết chẳng được, cầu sống chẳng được, cho mọi người thấy sự chiêu cảm của tội ác. Khi thân chết, thần thức theo ác nghiệp mà đi vào ba ác đạo chịu vô lượng thống khổ.
Tội ác từ mảy nhỏ lần thành to lớn, đều do tham làm tài sắc chẳng chịu ban bố. Chạy theo dục vọng si cuồng, phiền não buộc trói không tháo mở được. Tranh lợi về mình chẳng biết tự xét. Phú quý vinh hoa đương thời đắc ý, chẳng hay nhẫn nhục, chẳng biết làm lành. Không bao lâu oai thế tiêu diệt, thân bị khổ nhọc càng ngày càng nặng, nhơn xấu quả khổ, nhơn quả tự nhiên không hề sai sót, xưa nay đều như vậy thiệt rất đáng thương.
Diệu Hoa viết
Nam mô a di đà phật
Nguyện thứ hai của bồ tát Pháp Tạng xin thầy sửa lại là chánh giác
Nam mô a di đà phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm đã sửa lại, cảm ơn bạn!
Diệu Hoa viết
Nammô a di đà phật
Thưa thầy Tuệ Tâm, xin thầy sửa: ” hàng Tiểu Vương Tử mắc tội, bèn đem giam vào trong nhà ngục ấy. Trói bằng dây xích vàng, cấp dưỡng đầy……”
Nam mô A di đà phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm đã sửa lại, cảm ơn bạn.
Diệu Ngọc viết
Nam Mô A Di Đà Phật,
Xin Thầy kiểm lại, câu này là “Giàu lửa khắp thế giới” hay là “Vào lửa khắp thế giới”?
Nam Mô A Di Đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Tuệ Tâm đã sửa lại. Cảm ơn bạn nhiều!
Diệu Ngọc viết
Thưa thầy,
DN đã kiếm và thấy bản dịch của Nguyễn Thuận và Thích Hụê Đăng thì thấy được dich như vầy:
“Dầu lửa khắp thế giới”
Nghĩa như vậy có vẻ hợp lý hơn.
Xin thầy kiểm lại. Chữ “Giào” chắc là do giọng đọc bắc/nam viết ra lộn.
Xin cảm ân công đức đăng tải kinh điển.
A Di Đà Phật,
Dn
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Đà Phật!
Tuệ Tâm đã sửa lại, cảm ơn bạn!
Diệu Ngọc viết
Nam Mô A Di Đà Phật,
Xin thầy kiểm lại những câu dưới đây, có phải là đánh máy lộn không ạ?
Con xin cảm ơn Thầy.
Nam Mô A Di Đà Phật
ở vương cùng nhàm chán –> ở vương cung nhàm chán ???
vành đỏ tím huyền –> vàng đỏ tím huyền ???
Các lời chim ấy –> Các loài chim ấy ???
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Dù đã cố gắng nhưng nhiều bản kinh vẫn không sửa hết được lỗi. Rất mong bạn đọc phát hiện ra mà báo lại giúp Tuệ Tâm như Diệu Ngọc, để kinh sách được thêm hoàn chỉnh. Cảm ơn bạn nhiều!
NAM MÔ A MI ĐÀ PHẬT viết
🌸CHỊ TUỆ TÂM ƠI ĐIỀU NGUYỆN THỨ 48 NÀY CHÍNH LÀ BÌNH SANH NGHIỆP THÀNH TỨC QUẢ VÃNG SANH ĐÃ THÀNH TỰA LÚC SỐNG PHẢI KO Ạ
48. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đệ nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Nguyện thứ 18, không phải 48 bạn ạ: “Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.”