Kinh Niệm Phật Ba La Mật
Phẩm Thứ Hai – Mười tâm Thù Thắng
Bấy giờ, Đức Như Lai, ở đôi môi đẹp như trái tần bà, phóng ra luồng hào quang rực rỡ, chói chang, gọi là Thành Tựu Thọ Quang Thế Tướng Quang Vinh, với trăm nghìn ức a tăng kỳ quang minh làm quyến thuộc. Hào quang ấy chiếu soi mời phương tất cả thế giới tận hư không vô biên tế, vô chướng ngại. Hiển hiện Như Lai các thứ tự tại. Khai ngộ vô lượng những chúng Bồ Tát.
Chấn động hằng hà sa quốc độ, diệt trừ mọi thống khổ của chúng sinh. Phá tan các đường dữ, che bủa tất cả cung điện của ma vương. Phơi bày tất cả chư Như Lai giáng sinh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, thuyết pháp Đại Thừa giáo hóa chúng sinh, nhẫn đến thị hiện Niết Bàn.
Trưởng giả Diệu Nguyệt thấy Đức Thế Tôn hiển hiện thần biến quảng đại, khiến tất cả các chúng hội, chư Đại Bồ Tát. Chư Tỳ khưu, chư Tỳ Khưu Ni, chư cận sự nam, chư cận sự nữ. Cùng hết thảy Trời, Rồng, Quỷ, Thần, v.v… đều sinh lòng hoan hỷ chẳng thể nghĩ bàn. Diệu Nguyệt bèn cởi xâu chuỗi ngọc báu nơi cổ mình mà cúng dường nơi chân Phật. Đảnh lễ Đức Phật, và nói bài kệ khen ngợi như vầy:
*
Lành thay, Đức Thế Tôn
Con được làm thân người,
Lại được nghe mật Pháp
Của Chư Phật Ba Đời
Thế Tôn là tối thắng
Sư tử trong giòng Thích
Thật là Đại Y Vương
Đủ phương thuốc nhiệm mầu
Dứt hẳn khổ, sinh tử
Giúp hết thảy chúng sinh
Xa rời ba đường ác
Chứng cái vui Niết Bàn
Nơi cõi Phật Thanh Tịnh
Nay con chuyên một lòng
Luôn xưng niệm danh hiệu
Đức Phật A Di Đà
Nguyện cùng các chúng sanh
Vãng sinh nước Cực Lạc
*
Trưởng giả Diệu Nguyệt lại quán sát tâm niệm của đại chúng: Những vị Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, và Trời, Rồng, Quỷ, Thần, mà biết tâm niệm của đại chúng vẫn còn nghi ngờ, chưa hiểu thấu lời dạy của Như Lai, nên đi đến trước Phật, chấp tay cung kính thưa:
Bạch Đức Thế Tôn, nay con do nơi năng lực vĩ đại của Bản Nguyện A Di Đà mà được tham dự pháp hội này. Được đích thân nhận lãnh lời giáo huấn của Như Lai. Cho nên, con sẵn sàng đặt trọn tín tâm nơi Như Lai, nơi giáo pháp vi diệu và hy hữu này. Thế nhưng các chúng sinh vào thời chính pháp diệt tận, thì căn lành sa bạc, phước đức thiếu kém, tri kiến bị si mê che lấp. Kinh điển tuy còn sót ít nhiều, nhưng chẳng có ai hiểu đúng như lời Phật dạy. Do đó, làm sao chúng sinh tin nhận giáo nghĩa uyên áo, bí mật này để thẳng bước tiến tu, mau thành Phật Trí.
Hôm nay, con phụng vì hiện tiền đại chúng, cũng như tất cả thiện nam, tín nữ trong thời vị lai, mà khẩn cầu Đức Thế Tôn giải thích cho chúng con được rõ.
Bạch Thế Tôn, con thường tin và nghĩ rằng: Niệm Phật tức là thành Phật ngay trong đời này. Thế thì tại sao hôm nay Đức Thế Tôn lại ân cần khuyên bảo chúng con phải “Phát Nguyện Vãng Sanh Cực Lạc Quốc Độ ở Tây Phương”?
*
Khi ấy, Đức Thích Ca mỉm cười, giơ cao cánh tay hữu. Lấy bàn tay xoa trên đỉnh đầu của trưởng giả Diệu Nguyệt, mà nói lời này:
Hay thay, hay thay! Diệu Nguyệt cư sĩ, đây là pháp khó tin khó hiểu bậc nhất mà Như Lai chưa từng nói. Đây là pháp Tối Thượng Nhất Thừa, chứa đựng vô lượng vô biên ý nghĩa vi diệu mà Như Lai đợi đúng lúc, đúng thời mới ban cho. Tựa như hoa Ưu Đàm Bát La mấy muôn ngàn năm mới nở một lần. Đây là Tạng Pháp Bí Mật của Chư Phật Ba Đời. Ví như viên bảo châu trên búi tóc của Luân Vương không thể khinh xuất trao cho người khác. Đây là pháp mà Như Lai chỉ truyền giao cho bất cứ chúng sinh nào quyết chí hoàn thành địa vị Thiên Nhân Sư, tiếp nối hạt giống Bồ Đề.
Này Diệu Nguyệt cư sĩ, nay ta dùng cặp mắt toàn giác để quán sát tâm hiện tiền của chúng sinh, thì thấy rõ bản chất của cái tâm ấy gọi là Tâm Thể. Tâm Thể ấy vốn không hình dáng, tướng mạo. Không sắc chất, không dài, không ngắn, không quá khứ, không hiện tại, không vị lai. Tâm ấy không dữ, không lành, không sinh, không diệt, mà cũng chẳng phi sinh phi diệt. Tâm thể ấy luôn luôn xa rời tất cả luận giải của thế gian.
*
Do vì tâm thể vọng nhơ mà chúng sinh mãi luân chuyển trong ba cõi, sáu đường, đời đời chịu khổ. Do vì Tâm thể thanh tịnh mà chúng sinh được thành tựu Giới, Định, Huệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, đắc quả A La Hán… nhẫn đến địa vị Phật Đà.
Bởi duyên với các pháp ác, mà Tâm thể ấy tạo ra cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Trời, người, a tu la. Nhẫn đến chìm trôi triền miên bất tận nơi những cõi khổ khắp mười phương. Bởi duyên với các pháp lành, mà Tâm thể ấy tạo ra cảnh giới Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền, v.v…
Lại nữa, do vọng niệm tương tục nối nhau không dứt, mà biến hiện đủ loại hình tướng, sắc thân, thọ mạng, ẩm thực, quyến thuộc, phiền não, để hưởng dụng trong cõi giới kia. Hoặc cam chịu những quả báo khổ lạc do những nhân tố sai biệt. Đời đời như thế chịu như thế mãi chưa lúc nào ngưng nghĩ.
Này Diệu Nguyệt cư sĩ, nên biết rằng danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật chính là Pháp Thân Viên Mãn Chu Biến Nhất Thiết Xứ, là Phật Tánh Thậm Thâm. Có đầy đủ mọi năng lực vô úy bất tư nghị. Có đầy đủ diệu dụng vô ngại bất tư nghị. Là cứu cánh siêu việt tối thượng, có đầy đủ năng lực bất khả thuyết, bất khả xưng tán, để chuyển hóa vô minh thành giác ngộ, sinh tử thành niết bàn.
*
Là phương tiện vi diệu bậc nhất, thường cải biến hết thảy sở y và sở hành của mọi chúng sinh. Đưa tất cả tướng trạng hữu lậu, trói buộc trở về với bản tánh vô lậu giải thoát.
Cho nên, nếu chúng sinh nào đem tâm thể của mình mà duyên với danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, thì tâm thể của người ấy dần dần trở nên Vô Cấu Nhiễm, dần dần phát sinh vô lượng vô biên Đức Tướng Như Lai. Do vậy, tự nhiên thấy mình ở trong thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng. Cùng một lúc, cái niệm tưởng Nam Mô A Di Đà Phật sẽ phát khởi thân lượng, oai nghi, tướng hảo, và quang minh của Đức A Di Đà cùng chư vị thánh chúng.
Này Diệu Nguyệt cư sĩ, người nơi ý nghĩa ấy phải nên hiểu rõ như thế.
Pháp môn Niệm Phật chính là chuyển biến cái tâm thể của chúng sinh bằng cách không để cho tâm thể ấy duyên với vọng niệm. Hoặc duyên với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Không để cho duyên với huyễn cảnh, với trí lực, với kiến chấp, với mong cầu, với thức phân biệt, v.v… Mà chỉ đem cái tâm thể ấy duyên mãi với danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật.
Không bao lâu, người niệm Phật tự nhiên đi vào chổ vắng lặng, sáng suốt, an lạc. Cảm ứng với nguyện lực của Đức A Di Đà. Thấy mình sinh vào cõi nước Cực lạc. Thân mình ngồi trên tòa sen báu, nghe Phật và Bồ Tát nói pháp, hoặc thấy Phật lấy tay xoa đỉnh…
*
Lại nữa Diệu Nguyệt, nếu có chúng sinh nào chí thành xưng niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Thì uy lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho tâm thể thanh tịnh mà chúng sinh ấy không hay biết. Tự nhiên chứng nhập Sơ Phần Pháp Thân, âm thầm ứng hợp với Bi Trí Trang Nghiêm của Phật. Nhưng chưa thể đắc tam minh, lục thông, vô lượng đà la ni, vô lượng tam muội. Nhẫn đến chưa thể đắc Nhất Thiết Chủng Trí, chẳng thể đồng đẳng với Chư Phật được. Mà chỉ thành tựu bước đầu tiên trên lộ trình Như Thật Đạo.
Thí dụ như làm gạch để xây nhà vậy. Tuy đã nhào trộn đất sét, bỏ vô khuôn và đã đúc ra hình dạng của viên gạch. Nhưng muốn viên gạch được bền lâu, chắc chắn, không tan rã, chịu được nắng chói mưa xan, thì cần phải đưa vào lò lửa nung đốt một hạn kỳ.
Người niệm Phật cũng lại như thế. Tuy công phu niệm Phật trong một kiếp đã đạt được nền tảng vững vàng cho sự nghiệp giải thoát. Nhưng sau đó phải vãng sinh Tịnh Độ, lãnh thọ sự giáo hóa của Phật và Thánh Chúng, cho đến khi thành tựu Vô Sinh Pháp Nhẫn. Sau đó, mới đủ năng lực hiện thân khắp mười phương, hành Bồ Tát Đạo. Ra vào sinh tử không trói buộc, trở lại chốn ác trược mà chẳng nhiễn ô, cứu độ chúng sinh không có hạn lượng.
*
Thí dụ như việc khắc hình họa tượng. Tuy đã dùng gỗ tốt đẽo gọt lâu ngày và tạo nên hình dáng con người. Nhưng phải bỏ ra một thời gian lâu xa để chạm trổ thêm mắt, tai, miệng, nét mặt, vết nhăn, dáng vẻ, bộ tịch, thần sắc… Người niệm Phật lại cũng như thế. Tuy đã phát khởi tín tâm dũng mãnh, và công phu không gián đoạn bê trễ. Nhưng nếu tái sinh cõi Ta Bà thì vẫn bị luân chuyển vì Định Tuệ còn non kém, quả Đức chưa hoàn mãn.
Vì thế, cần phải vãng sinh Cực Lạc Thế Giới. Kề cận Phật và Thánh Chúng, thành tựu vô lượng Ba La Mật. Thâm nhập Tâm Muội Tổng Trì Môn. Phát hoằng thệ nguyện đi khắp mười phương giáo hóa vô số chúng sinh. Không lâu lấy cỏ rải nơi Bồ Đề Đạo tràng, hàng phục ma quân. Thành Đẳng Chính Giác, chuyển pháp luân vô lượng.
Diệu Nguyệt cư sĩ, nên biết rằng: Được vãng sinh nơi Cực Lạc thì không bao giờ trở lại địa vị phàm phu với xác thân ngũ uẩn nữa. Do đó, mới gọi là Bất Thối Chuyển. Từ đó về sau, dần dần thành tựu Mười Thứ Trí Lực, Mười Tám Pháp Bất Cộng. Năm Nhãn, Sáu Thông, vô lượng Đà La Ni. Vô số Tam Muội, thần thông du hí, biện tài vô ngại… đầy đủ bao nhiêu công đức vô lậu của Đại Bồ Tát, cho đến khi đắc quả Phật. Bởi vậy mà ta, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn, hôm nay trân trọng xác nhận cương quyết rằng: Vãng Sinh đồng ý nghĩa với Thành Phật, vì Vãng Sinh tức là Thành Phật.
*
Muốn vãng sinh Cực Lạc chỉ cần xưng niệm Danh Hiệu Phật là đủ. Vì Danh Hiệu chính là biểu tướng của Pháp Thân. Cho nên Niệm Danh Hiệu tức là Niệm Pháp Thân Phật vậy. Và người niệm Phật khỏi phải kiêm thêm bất cứ môn tu nào nữa. Vì ngay nơi Danh Hiệu Nam Mô A Di Đà Phật luôn luôn chứa đựng vô lượng, vô biên công đức. Vô lượng vô biên diệu dụng, vô lượng vô biên quang minh, tướng hảo, uy lực… không thể nghĩ bàn.
Trưởng giả Diệu Nguyệt lại thưa rằng: Bạch Đức Thế Tôn, tuy con đã thấu triệt nghĩa lý thâm diệu của phép Niệm Phật, nhưng vẫn khẩn cầu Thế Tôn thương xót mà rộng chỉ bày thêm, để hết thảy chúng sinh nơi đời vị lai được mọi điều lợi ích.
Bạch Đức Thế Tôn, phải niệm Phật như thế nào mới gọi là đắc pháp? Phải dấy khởi những tâm thái nào mà tu tập mới được vãng sinh Cực Lạc?
Đức Phật dạy rằng:
Này Diệu Nguyệt cư sĩ, thế nào là Niệm Phật Chân Chính? Muốn niệm Phật đúng pháp và tự biết mình chắc chắn vãng sinh, thì người niệm Phật phải phát khởi Mười Thứ Tâm Thù Thắng sau đây:
- Tín Tâm
- Thâm Trọng Tâm
- Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm
- Xả Ly Tâm
- An Ổn tâm
- Đà Ra Ni Tâm
- Hộ Giới Tâm
- Ba La Mật Tâm
- Bình Đẳng Tâm
- Phổ Hiền Tâm
Kinh Niệm Phật Ba La Mật – Thế nào là Tín Tâm?
Này Diệu Nguyệt. Tín Tâm nghĩa là Lòng Tin Chân Thật Tha Thiết Bền Vững. Là nhân tố quyết định thành Phật. Là nhân tố quyết định thâm nhập cảnh giới Đại Thừa. Bởi vì sao? Vì lòng tin là mẹ đẻ của tất cả công đức vô lậu. Lòng tin là cửa ngõ nhiệm mầu đưa chúng sinh về nơi kho báu Phật Pháp. Cho nên, việc trưởng dưởng Tín Căn vẫn là điều cần thiết yếu nhất trong hết thảy mọi môn tu.
Trước hết, phải đặt lòng tin chân thật vào Lý Nhân Quả một cách sâu sắc, kiên cố, và không hề nảy sinh một ý tưởng hoặc một hành vi trái ngược với Lý Nhân Quả. Phải thấy hoạt dụng của Lý Nhân Quả dung thông ba đời (Quá Khứ, Hiện Tại, Vị Lai) rõ ràng như những đường kẻ dọc ngang trên lòng bàn tay.
Tin rằng kiếp sống thế gian là Vô Thường, mạng người ngắn ngủi như hơi thở ra vào. Tin rằng tất cả các pháp hữu vi đều là huyễn hóa, không có chủ tể. Niệm niệm sinh diệt không ngừng, từng sát na biến hoại chẳng nghỉ. Tất cả đều đưa tới khổ não, vô minh, và trói buộc.
Tin rằng sáu nẻo luân hồi thật là nguy hiểm, chướng nạn. Sơ sẩy trong ý niệm cũng đủ đưa chúng sinh trầm luân cả nghìn muôn ức kiếp. Một lần sa lạc vào ba đường dữ thì không biết đến lúc nào mới thoát khỏi.
*
Tin rằng Phật Pháp chính là đạo giải thoát, đạo an vui, đạo của Trí Tuệ, đạo của Từ Bi, đạo diệt khổ. Đạo cứu vớt chúng sinh chẳng chừa một hạng loại nào cả. Đạo của Phật Tri Kiến. Đạo có đủ phương thuốc nhiệm mầu trừ diệt tất cả các thứ bịnh tật của chúng sinh. Tin rằng Tam Bảo là chỗ nương về của muôn loài. Là ngọn đèn phá tan mọi hắc ám, là con thuyền đưa chúng sinh qua thấu bờ kia.
Tin rằng tất cả các pháp đều do Tâm Thể của mình tạo ra. Từ ba đời mười phương Chư Phật nhẫn đến Tứ Thánh, Lục Phàm đều do cái Tâm Thể lưu xuất và biến hiện. Tin rằng: Các cõi Cực Lạc cũng chỉ do Tâm Thể thanh tịnh của chúng sanh tạo ra. Cùng tương ứng với Bản Nguyện Vĩ Đại của Phật, Bồ Tát, và Thánh Chúng. Và tin rằng: Đức A Di Đà chỉ là do sự niệm tưởng Danh Hiệu Nam Mô A Di Đà Phật phát khởi nên.
Tin rằng mỗi mỗi chúng sinh đều có đủ năng lực thọ lãnh giáo pháp Như Lai. Bất cứ hữu tình nào cũng có năng lực hoàn thành địa vị Nhất Thiết Chủng Trí như các Chư Phật.
Tin rằng Bản Nguyện của A Di Đà là chân thật, rốt ráo là tối thắng. Và Ngài không hề bỏ sót một chúng sinh nào cả, dù kẻ ấy phạm vào ngũ nghịch, thập ác, v.v…
*
Tin rằng Pháp Niệm Phật Vãng Sinh là môn tu duy nhất cho hết thảy mọi người. Vì rời pháp môn này thì mọi người, mọi loài không thể giải thoát. Nếu phế bỏ môn tu này thì Chư Phật cũng không thể dùng một pháp nào khác để tế độ hết thãy hữu tình đúng như bản thệ, đúng như bản nguyện.
Diệu Nguyệt, phải phát khởi Tín Tâm như vậy mà niệm Phật.
Kinh Niệm Phật Ba La Mật – Thế nào là Thâm Trọng Tâm?
Này Diệu Nguyệt. Thâm Trọng Tâm nghĩa là đem tấm lòng sâu sa và cẩn trọng mà cảm mộ ân đức của Tam Bảo, tưởng nhớ công lao của Thiện tri Thức, và của hết thảy chúng sinh.
Trong quá khứ vô lượng vô biên na do tha vi trần kiếp. Chư Phật vì thương xót chúng sinh mà xả bỏ đầu, mắt, tay, chân, thân mạng, tài sản, quyến thuộc… để tìm cầu chánh pháp, tu Bồ Tát Đạo, giáo hóa muôn loài, làm cho ai nấy đều được lợi ích.
Đời đời, kiếp kiếp, chư Phật hằng theo dõi và thương tưởng đến mỗi một chúng sinh. Luôn luôn tìm cách nhổ bạt gốc rễ tham ái, đập tan gông cùm sinh tử. Làm khô cạn biển khổ vô minh, mãi phát tâm quảng đại, tâm kim cang, tâm vô phân biệt mà rọi sáng lối về cho mọi hữu tình. Vì thế, người niệm Phật phải phát khởi cái tâm chí sâu xa và cẩn trọng để tưởng niệm, cảm mộ ân đức ấy.
Nhưng Chư Phật muốn tế độ tất cả chúng sinh, thì cũng phải lấy chánh pháp làm phương thuốc hữu hiệu trị dứt chứng bịnh tham ái. Dùng Chánh Pháp làm thuyền bè đưa chúng sinh qua thấu bên bờ giác ngộ. Dùng Chánh Pháp làm Tuệ Kiếm chặt đứt mọi dây rối phiền não. Làm ngọn đuốc dẫn dắt chúng sinh ra khỏi đêm dài vô minh. Làm chất đề hồ chữa lành mọi thứ sinh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não. Dùng Chánh Pháp làm đôi mắt cho chúng sinh nhìn thấy thật tướng.
*
Người niệm Phật phải biết cảm mộ ân đức cao dầy của Chánh Pháp. Phải luôn luôn báo đáp ân đức ấy bằng cách tụng đọc kinh điển Đại Thừa và giảng nói cho kẻ khác. Khuyên bảo mọi người quy y, bố thí, trì giới, thiền định. Khiến sao cho chánh pháp được lưu hành rộng khắp nhân gian, ai nấy hưởng dụng cam lồ vị.
Dù đã phát nguyện quy y Tam Bảo, nhưng người trực tiếp khai sinh tánh mạng tuệ giác nơi ta chính là Thiện Tri thức. Thiện Tri Thức gồm có các Thánh Tăng, Phàm tăng, Sư Trưởng, và các bạn đồng tu đồng học.
Thiện Tri Thức là cửa ngõ xu hướng nhất thiết trí, vì làm cho chúng sinh đi vào Như Thật Đạo. Thiện Tri Thức là cỗ xe xu hướng Nhất Thiết Trí vì đưa tất cả chúng sinh tới Như Lai Địa. Thiện Tri Thức là thuyền bè xu hướng Nhất Thiết Trí vì vận chuyển tất cả chúng sinh đến bờ giác. Thiện Tri Thức là ngọn đèn xu hướng Nhất Thiết Trí và khiến chúng sinh có được ánh sáng Phật Tri Kiến.
*
Thiện Tri Thức là con đường xu hướng Nhất Thiết Trí vì dẫn dắt chúng sanh vào cửa thành Niết Bàn. Thiện Tri Thức là cây đuốc xu hướng Nhất Thiết trí vì làm cho chúng sinh thấy rõ con đường yên lành hay hiểm trở. Thiện Tri Thức là cây cầu xu hướng Nhất Thiết Trí vì tiễn đưa chúng sinh qua khỏi chỗ hiểm ác.
Thiện Tri Thức là lọng xu hướng Nhất Thiết Trí, vì làm cho chúng sinh che núp dưới bóng râm đại từ mát mẻ. Thiện Tri Thức là cặp mắt xu hướng Nhất Thiết Trí vì khiến chúng sinh nhận rõ Pháp Tánh. Thiện Tri Thức là thủy triều xu hướng Nhất Thiết Trí vì làm cho chúng sinh đầy đủ nước Đại Bi.
Kế đó là ân đức của cha mẹ chín tháng cưu mang, nhường khô nằm ướt. Nuốt đắng nhả ngọt, quần áo, chăn màn nuôi con khôn lớn, suốt đời tận tụy, đến chết chưa nguôi.
Và cuối cùng là ân đức của chúng sinh: Cung ứng ẩm thực, y dược, tọa cụ, văn tự, tri kiến, bảo hộ,v.v.
Do vậy, người niệm Phật phải lấy tâm chí sâu xa, cẩn trọng mà cảm mộ ân đức Thiện Tri Thức, Cha Mẹ, và các chúng sinh.v.v, nhờ vậy mà từ bi dần dần nảy nở. Ngọn lửa trí tuệ từ từ bừng cháy, môn tu Niệm Phật mới dễ dàng thành tựu.
Kinh Niệm Phật Ba La Mật – Thế nào là Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm?
Này Diệu Nguyệt, Hồi Hướng Phát Nguyện Tâm nghĩa là dấy động cái tâm chí như thế này: Không riêng vì bản thân mà cầu xuất ly Ta Bà loạn trược, khỗ não. Trái lại, phải nguyện vì hết chúng sinh khắp trong ba cõi sáu đường mà cầu vãng sinh Cực Lạc, chóng thành tựu Phật Đạo để tế độ quần mê. Tại sao vậy. Ví muốn có cái quả đức siêu việt tối thượng thì phải phát khởi cái tâm chí quảng đại, dũng mãnh.
Người niệm Phật nếu đem cái tâm thái hời hợt, hẹp hòi kém năng mà chỉ riêng về bản thân giải thoát, thì chẳng bao lâu sẽ chiêu cảm cái quả báo nhỏ bé, nông cạn, tầm thường. Không xứng hợp với Bản Nguyện Chư Phật. Chẳng tương ứng cùng Bản Nguyện Vĩ Đại, Bi Trí Viên Mãn của Phật A Di Đà. Cho nên khó được tiếp dẫn về nơi cõi nước Tây Phương.
Lại nữa, người niệm Phật còn phải đem tất cả công đức thực hành sáu ba la mật, bốn nhiếp pháp, bốn vô lượng tâm, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, v.v.. mà hồi hướng khắp anh em, cha mẹ, bằng hữu, chư thiên, chư tiên, bốn loại chúng sinh, kẻ oán người thân, đều được an trụ trong Hồng Danh: Nam Mô A Di Đà Phật.
Kinh Niệm Phật Ba La Mật – Thế nào là Xả Ly Tâm?
Này Diệu Nguyệt. Người niệm Phật trong khi xưng niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, phải phát khởi cái Tâm Thái Lìa Bỏ Tất Cả. Sao gọi là Lìa Bỏ? Lìa bỏ nghĩa là không trụ tướng mà niệm Phật. Không dính mắc mà niệm Phật. Không nắm giữ mà niệm Phật. Không tương ưng mà niệm Phật. Không đối đãi mà niệm Phật. Không chống trái mà niệm Phật. Không cầu mong mà niệm Phật. Không nhiễm duyên mà niệm Phật. Niệm Phật như thế thì gọi là Niệm Phật với cái Tâm Lìa Bỏ.
Người niệm Phật chỉ buộc tâm và ý vào danh hiệu Phật. Chăm chú lắng nghe, mỗi câu rõ ràng, mỗi niệm phân minh, quên cả thân, quên cả cảnh, quên cả cái ý thức tự biết TA đang niệm Phật. Như thế gọi là Niệm Phật với cái tâm Lìa Bỏ.
Lìa bỏ Khổ, Tập, Diệt, Đạo mà niệm Phật. Lìa bỏ Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà niệm Phật. Lìa bỏ Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ mà niệm Phật. Lìa bỏ Tín, Giải, Hành, Chứng mà niệm Phật. Lìa bỏ Không, Vô Thường, Vô Ngã mà niệm Phật. Lìa bỏ Bồ Đề, Niết Bàn, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến mà niệm Phật. Lìa bỏ tất cả các pháp hữu vi, tất cả các pháp vô vi mà niệm Phật. Lìa bỏ Ngã và Ngã sở. Lìa bỏ luôn cả ý tưởng cầu mong vãng sinh, chí nguyện độ sinh, ý hướng thành Phật mà niệm Phật.
Niệm Phật với Tâm Xả Ly như thế mới gọi là chân chính Niệm Phật.
Kinh Niệm Phật Ba La Mật – Thế nào là An Ổn Tâm?
Này Diệu Nguyệt. Người niệm Phật trong khi xưng niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật phải phát khởi tâm chí bất động, kiên cố, không thối chuyển. Đó gọi là An Ổn Tâm.
Mình an trụ nơi Bồ Đề Tâm, cũng phải giúp người khác an trụ nơi Bồ Đề tâm, nên cái tâm được an ổn. Mình rốt ráo xa rời tranh cãi, cũng phải khiến cho người khác nhẫn nhục nhu hòa nên tâm được an ổn. Mình buông bỏ pháp phàm ngu điên đảo, cũng phải đưa người khác tới địa vị thánh giả siêu việt nên tâm được an ổn. Mình siêng tu thiện căn vô lậu thú hướng Niết Bàn, cũng phải khiến người khác hủy hết, diệt hết mạng lưới hữu lậu trói buộc, nên tâm được an ổn.
Mình đang sinh ra tại nhà Phật, cũng phải dẫn dắt người khác vượt thoát hố hầm dục lạc trở về bảo sở, nên tâm được an ổn. Mình thâm nhập pháp chân thật không tự tính, cũng nên giúp người khác chê chán hữu tướng lầm mê, nên tâm được an ổn. Mình cảm ứng Trí Tạng Vô Tận của Như Lai, cũng khiến cho người khác thâm nhập Pháp Giới Bình Đẳng, nên tâm được an ổn.
Niệm Phật với tâm thái an ổn như vậy mới gọi là chân chính niệm Phật.
Kinh Niệm Phật Ba La Mật – Thế nào là Đà Ra Ni Tâm?
Này Diệu Nguyệt. Người niệm Phật phải phát khởi tâm chí nắm giữ tất cả các thiện pháp, đồng thời che lấp các ác pháp. Đó là Đà Ra Ni Tâm, như là:
Tín Tâm Đà Ra Ni. Vì đặt trọn lòng tin thuần phác, trong suốt, nơi Bản Nguyện A Di Đà cùng sự hộ niệm của chư Phật ở mười phương.
Chánh Kiến Đà Ra Ni. Vì đúng như thật quán sát khéo léo tất cả các pháp đang diễn biến trong tâm và ngoài thân.
Tư Duy Đà Ra Ni. Vì thường xuyên thấu triệt thể tánh của tất cả các pháp sinh khởi trong từng sát na hoại diệt.
Cảm Ứng Đà Ra Ni. Vì luôn luôn thâm nhập tất cả Bản Nguyện của Chư Phật.
Hỷ Lạc Đà Ra Ni. Vì an trụ nơi lực tiếp dẫn của Chư Phật và Thánh Chúng.
Tam Thế Đà Ra Ni. Vì tự tại an nhiên giữa cảnh tượng của nhân quả tương tục trong ba đời, cũng như thông suốt nghĩa lý Phật pháp của Tam Thế Chư Phật.
Tam Muội Đà Ra Ni. Vì an trụ trong Danh Hiệu Bất Khả Tư Nghì nên nghe thấy điều phi pháp mà tâm chẳng loạn, sống nơi cảnh loạn trược mà không trôi lăn.
Niệm Phật với Đà Ra Ni Tâm như vậy mới được là chân chính niệm Phật.
Kinh Niệm Phật Ba La Mật – Thế nào là Hộ Giới Tâm?
Này Diệu Nguyệt, người niệm Phật phải luôn luôn an trụ nơi giới luật và hằng phát tâm hộ trì giới luật. Ấy là:
Giới chẳng bỏ Bồ Đề Tâm, chẳng quên Bồ Đề Nguyện.
Giới tự xa lìa các pháp học của Thanh Văn, Duyên Giác. Không tham đắm Niết Bàn vắng lặng mà bỏ rơi chúng sinh.
Giới hân ngưỡng Đại Thừa, vui thích tu hành theo tất cả pháp học Bồ Tát Đạo.
Giới đem hết thảy thiện căn hồi hướng quả vị Chánh Đẳng Giác, mong cầu Phật Trí, Vô Sư Trí.
Giới nơi tất cả Phật Pháp vô sở đắc.
Giới chẳng dính mắc tất cả thiện sự hữu vi.
Giới khiến cho diệu pháp được tồn tại lâu dài, làm cho hết thảy chúng sinh an trụ nơi Chánh Kiến.
Giới khéo léo tư duy tất cả hành nghiệp chúng sinh và khiến chúng sinh trưởng dưỡng ý hướng giải thoát.
Giới trang nghiêm tự tâm đồng thời trang nghiêm phương quốc độ của chư Phật.
Giới chư căn luật nghi như Tỳ Khưu Giới, Bồ Tát giới, Ngũ Giới Tại Gia v.v…
Niệm Phật với tâm hộ trì các giới luật kể trên mới được gọi là chân chính niệm Phật.
Kinh Niệm Phật Ba La Mật – Thế nào là Ba La Mật Tâm?
Này Diệu Nguyệt, người niệm Phật phải phát động tâm chí tu trì những thứ Ba La Mật sau đây:
Thí Ba La Mật, vì xả bỏ tất cả sở hữu trong thân cũng như ngoài thân, không lẫn tiếc.
Giới Ba La Mật, vì thanh tịnh các cõi Phật.
Nhẫn Ba La Mật, vì an trụ nơi lực dụng của Bản Nguyện.
Tin Tấn Ba La Mật, vì tất cả các chướng duyên chẳng có thể làm thối chuyển tín tâm.
Thiền Định Ba La Mật, vì chuyên nhất nhớ tưởng một cõi Phật, một Danh Hiệu Phật.
Bát Nhã Ba La Mật, vì đúng như thật mà quán sát tất cả tướng trạng và thể tánh của các Pháp không rời nhau.
Tín Ba La Mật, vì thường xuyên an trụ nơi Phật Lực bất tư nghị.
Nguyện Ba La Mật, vì đầy đủ những hạnh nguyện của Phổ Hiền.
Lực Ba La Mật, vì hân hoan thể hiện tất cả năng lực tự tại của Danh Hiệu Nam Mô A Di Đà Phật.
Pháp Ba La Mật, vì sẵn sàng xả thân cho chánh pháp, cho Bồ Tát Đạo.
Niệm Phật với những thứ Ba La Mật Tâm ấy, mới được gọi là chân chính niệm Phật.
Kinh Niệm Phật Ba La Mật – Thế nào là Bình Đẳng Tâm?
Này Diệu Nguyệt. Người niệm Phật phải luôn luôn thực hiện tâm thái bình đẳng: Không phân biệt, không ngăn ngại. Có nghĩa là:
Tự Tha Bình Đẳng, vì luôn luôn mở rộng tuệ nhãn để nhận hiểu mình và người đều bình đẳng trước lực nhiếp thọ của Chư Phật và Bồ Tát.
Chủng Loại Bình Đẳng, vì thường quán sát mười phương thế giới các loại chúng sanh từ sắc thân, hình trạng, tướng mạo, tộc tánh, thọ lượng, tri kiến, ý hành, sở y, v.v..Mà không khởi tâm phân biệt, đối đãi, ái thủ, hoặc yếm hoạn.
Chúng Sinh Giới Bình Đẳng, vì liên tục mở bày pháp giới trí trụ vô động tế. Mà tự tại giữa những huyễn hóa biến dị của các loại hữu tình nơi ba cõi thế gian.
Pháp Giới Bình Đẳng, vì thường xuyên an trụ nơi vô tướng kháp vào pháp tướng. Không móng khởi tâm sợ sệt với thời gian vô cùng, không gian vô tận. Tự tại giữa một sát na như vô lượng vô biên đại kiếp. An nhiên giữa các cực vi đầu sợi lông, cũng như du hí mười phương trần sát hằng hà sa các quốc độ.
Không Tánh Bình Đẳng, vì luôn luôn ức niệm mình được sản sinh từ nhà Như Lai, được Tự tánh Thanh Tịnh Tạng, thấy rõ Nhất Thiết Pháp Không. Đắc Hư Không Hạnh Vô Ngại, giải ngộ và cảm ứng Tánh Không Bình Đẳng nơi hết thảy tứ sinh cửu hữu.
*
Phật Độ Bình Đẳng, vì hằng quán tưởng các cõi Thường Tịch Quang, Thật Báo Trang Nghiêm, Phương Tiện Hữu Dư v.v… đều không ngăn ngại nhau, không riêng khác. Tuy an lập Hoa tạng Thế Giới Hải mà chẳng rời tự tâm. Thật tế trụ địa vô phương sở, vô trụ xứ… Tùy theo tâm lượng và sở nguyện của chúng sinh mà hiển hiện: Như hoa đốm, như tiếng vang, như bọt sóng, như bong bóng nước, như cầu vồng, như huyễn nhân kể chuyện mộng.
Tín Tâm Bình Đẳng, vì Tín Tâm vốn khởi nguyện từ Bát Nhã Đức, từ Trí Tạng Quảng Đại, từ Phỗ Nhãn Thanh Tịnh thông suốt cả ba đời. Nên được thu nhiếp trong Bản Nguyện vô lượng công đức, vô biên lực dụng của Chư Phật.
Niệm Phật với những tâm bình đẳng như trên, mới được gọi là chân chính niệm Phật.
Kinh Niệm Phật Ba La Mật – Thế nào là Phổ Hiền Tâm?
Phổ nghĩa là không bỏ rơi chúng sinh. Hiền nghĩa là chẳng xa cách quả vị Chánh Đẳng Giác.
Phổ Hiền Tâm là tâm rộng lớn như hư không, luôn mong cầu độ thoát hết thảy chúng sinh. Tâm vô biên như pháp tánh luôn hân ngưởng thừa sự và cúng dàng Chư Phật. Tâm vô lượng thọ trì tất cả Phật Pháp chẳng quên mất. Tâm vô hạn vì được Phật lực hộ trì nên chẳng bỏ Bồ Đề Hạnh. Tâm thí xả hết thảy, vì sẵn sàng buông lìa tất cả sở hữu dầu là pháp vô sở đắc. Tâm nghĩ nhớ đạo Nhất Thiết Trí, trước hết, vì ham thích mong cầu tất cả Phật Pháp. Tâm vô tận công đức trang nghiêm vì học hỏi tất cả hạnh nguyện Bồ Tát.
*
Tâm kiên cố như Kim Cang vì tất cả bạch tịnh pháp đều chảy vào. Tâm như Tu Di Sơn, vì tất cả ác ngôn đều nhẫn thọ. Tâm Bát Nhã Ba La Mật Cứu Cánh, vì khéo quán sát tất cả pháp vô sở hữu. Tâm Đại Hùng Đại Lực để niệm Phật Bất Thối Chuyển. Tâm Đại Uy Nghi Vô Tận Công Đức Trang Nghiêm, vì tùy thuận Bản Nguyện Lực. Tâm Vô Cấu Nhiễm thường thanh tịnh quốc độ Phật để thành tựu Vô Thượng Bồ Đề. Tâm Tinh Tấn như voi chúa khéo điều phục dã thú, để sớm viên mãn hạnh nguyện Phổ Hiền.
Người niệm Phật siêng năng trưởng dưỡng Phổ Hiền Tâm như vậy, mới được gọi là niệm Phật chân chính, thưòng được chư Phật hộ niệm, hiện đời luôn thấy Phật cùng y báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc.
Vân viết
Nam mô A Di Đà Phật
Con đọc bản kinh này nước mắt và cảm xúc dâng trào vì pháp môn niêm Phật thù thắng vi diệu nhường ấy
Lại biết câu danh hiệu ” Nam mô A Di Đà Phật” là bảo vật vô giá
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Đức Phật bảo: “Để được vãng sanh, chỉ cần niệm Phật là đủ.” Đơn giản vậy mà tiếc thay chúng sanh nghiệp nặng, không dám tin nhận. Niệm Phật chẳng cầu vãng sanh lại đi cầu đoạn trừ vọng niệm, cầu nhất tâm, cầu tam muội hiện tiền…Thật vô cùng đáng tiếc!