Trên thực tế, đa phần những người niệm Phật cầu vãng sanh: Do không được bậc Thiện tri thức chân chính tận tình hướng dẫn, dạy bảo. Không biết về Bổn nguyện Tha lực của Phật A Di Đà. Không biết rõ cội nguồn của pháp Niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ…Nên như cây bèo không có gốc, tùy theo gió thổi mà phiêu bạt đó đây trên mặt nước. Như người mù chẳng thấy đường đi, chân bước loạn xạ. Vì pháp chuyên tu Niệm Phật vãng sanh không quán triệt. Nên thích thú pháp Tạp tu, Tạp hạnh, như thủy triều dâng trào. Sai lầm một đời để rồi phải đọa vào khổ đau sanh tử.
Đóa hoa Phân Đà Lợi nơi cõi đời ô trược
Chúng ta đã biết được làm người là điều khó trong những điều khó làm. Được nghe Phật pháp là điều khó trong những điều khó nghe. Được phát đạo tâm là điều khó trong những điều khó phát. Được tin pháp Tịnh Độ là điều khó trong những điều khó tin. Nếu để một lần nữa đọa xuống Tam đồ, đây là điều bi đát vô cùng tận!
Sự khổ đau, ô uế của thời Mạt pháp càng ngày càng tăng. Nên đức Phật A Di Đà vô cùng thương xót. Vì thế nên bậc Thiện tri thức thuận duyên mà xuất hiện: Đấy là Pháp sư Huệ Tịnh. Như là đóa Phân đà lợi vĩ đại trong cõi người. Ngài ra đời với hương đức hạnh tỏa khắp bốn phương. Làm thạch trụ cho mọi người nương tựa, làm bóng mát cho những ai cần che chở.
Ngài nâng cao ngọn đuốc Chánh pháp Bổn nguyện của đức Phật A Di Đà, để đại bố thí ánh sáng vô úy cho những kẻ mê mờ. Đồng thời, đi sâu vào pháp chuyên tu bí yếu của Tổ sư Thiện Đạo. Dẫn dắt người tu Tạp hạnh nhất hướng trở về với pháp chuyên tu Niệm Phật.
Tịnh Độ thuần chánh
Ngài là người đầu tiên chính thức căn cứ vào Kinh điển và các bộ Luận của chư Tổ, chỉnh lý và hệ thống giáo nghĩa tông Tịnh Độ. Đồng thời, Ngài còn biên dịch một số tác phẩm liên quan đến Tịnh Độ trên hai mươi quyển. Những tác phẩm này được phổ biến khắp trong nước lẫn nước ngoài. Có thể nói, đây là hành động vực dậy cội nguồn chân thực của pháp môn Tịnh Độ. Truyền bá đúng cốt tủy của Phật và chư Tổ.
Qua đây, tông Tịnh Độ hoàn toàn độc lập như các tông khác. Pháp Niệm Phật vãng sanh với tôn chỉ chuyên nương vào Tha lực được sáng tỏ. Hơn ngàn năm chân diện mục của Lô sơn bị mù sương phủ kín, nay được khai mở tận nguồn chơn: Pháp Niệm Phật là đạo lý căn bản vĩnh trừ chướng nạn. Là pháp dễ tu, dễ vãng sanh, vạn người xưng niệm là vạn người sanh Cực lạc.
Đây là trên kế thừa chư Tổ để chuyển tải nguồn mạch Bản nguyện của đức Phật A Di Đà ,đã bị lãng quên hàng ngàn năm. Dưới đem ân huệ của đức Phật trao cho chúng sanh đầy tội lỗi, khổ đau trong thời kỳ Mạt pháp. Với Công và Đức như thế, há có ngôn ngữ nào có thể tán thán được sao!
Niệm Phật vãng sanh là pháp môn dễ tu
Phật pháp vốn không có cao thấp, thích ứng căn cơ là diệu pháp. Thuốc vốn không có tốt xấu, trị bệnh lành là thuốc hay.
Nhưng, xét hoàn cảnh của thế giới thời Mạt pháp hiện nay. Căn cơ chúng sanh về trí thức thì rất yếu kém, về tâm lý thì rất ác độc. Vì vậy, trong Tám vạn bốn ngàn pháp môn đức Thế Tôn đã dạy. Pháp môn mà chúng sanh có thể kham nhẫn tu tập được, duy nhất chỉ có diệu pháp Xưng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà đúng theo Bổn nguyện của Ngài. Tổ sư bảo: “Niệm Phật là tối thắng tối dị, cực thiện cực thượng”. Danh hiệu đức Phật A Di Đà vốn thâu nhiếp hết thảy mọi công đức, chính thế gọi là Tối thắng. Xưng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà thì căn cơ nào cũng có thể thực hiện, nên gọi là Tối dị. Pháp môn Tịnh Độ gọi là Đạo lý dễ tu
Dị hành đạo
Dễ (Dị) có hai nghĩa: Đơn giản và dễ dàng, cũng có nghĩa đơn thuần hóa và dễ tu hóa. Chính vì đơn giản, dễ tu, nên bất cứ người nào cũng có thể tu tập. Nếu muốn hiểu rõ sự cao thâm vi diệu của lý nghĩa Tịnh Độ thì không thể gọi là đơn thuần. Hoặc, nếu muốn tìm hiểu sự phức tạp khó khăn của sự tu tập Tịnh Độ thì không thể gọi là dễ dàng.
Đã không phải đơn thuần, không phải dễ dàng, thì chẳng phải là pháp để ai cũng có thể tu được. Cũng chẳng phải là pháp môn Tịnh Độ. Cũng chẳng phải là Bổn nguyện của đức Phật A Di Đà. Đại sư Thiện Đạo đã nói: “Thuần nhất tinh chuyên xưng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà”, chính là đơn thuần hóa, dễ tu hóa. Không nhất định phải thể ngộ Ba Tâm và cũng không nhất thiết công phu hết lòng.
Chính vì nguyện sanh về Cực lạc mà tinh chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà. Do năng lực Bổn nguyện của đức Phật A Di Đà nên đời hiện tại được an ổn lợi lạc. Đến khi lâm chung được vãng sanh về Báo độ Cực lạc.
Pháp dễ tu, dễ vãng sanh
Tóm lại, bất cứ người nào cũng đều có thể vãng sanh và công đức bình đẳng như nhau. Pháp môn Tịnh Độ vốn rất bình dị, con đường tu chứng vừa thẳng tắp vừa quyết định. Nếu ai cho rằng, pháp môn Tịnh Độ là pháp tu chỉ dành cho hạng căn cơ hạ liệt, độc ác, thì vô cùng ấu trĩ! Quan niệm như thế là vùi lấp tâm Đại bi phi phàm của đức Phật A Di Đà. Bởi Ngài cứu độ hết thảy mọi căn cơ, hết thảy mọi duyên nghiệp của mọi chúng sanh.
Với quan niệm ấy sẽ đưa đến ngộ nhận: Niệm phật cầu vãng sanh chỉ là pháp cứu độ một loại căn cơ, một loại duyên Nghiệp mà thôi. Sự hiểu biết đầy sai lầm, tà vọng này, đã nói lên sự hiểu biết của họ rất hạn chế. Bởi thực trạng này, đức Thích Tôn thán rằng: “Pháp rất dễ vãng sanh, nhưng hiếm có người được vãng sanh!”.
*
Pháp môn niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ được gọi là Đạo lý dễ tu. Chỉ thuần nhất tinh chuyên xưng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà là chắc chắn vãng sanh. Do vậy, nội dung của kinh Quán Vô Lượng Thọ tuy có trình bày về các pháp tu Định thiện, Tán thiện. Mười ba pháp quán của Định thiện và tu Ba phước đức, vãng sanh chín phẩm của Tán thiện, là để đáp ứng cho nhiều loại căn cơ sai khác. Nhưng đến phần kết luận, đức Thích Tôn chỉ phó chúc bảo trì danh hiệu đức Phật A Di Đà. Xưng niệm danh hiệu đức Phật là dễ dàng, nên bất cứ người nào cũng có thể thực hiện.
Hết thảy mọi công đức tu tập của nhiều loại căn cơ về Định thiện, Tán thiện đều được thâu nhiếp trọn vẹn trong pháp Niệm Phật này. Đại sư Từ Mẫn bảo:
“Đức Phật ấy vốn lập nguyện rộng. Ai niệm tên Tôi, Tôi đến đón. Không kể bần cùng hay phú quý. Không kể trí hèn hay thông thái. Không kể đa văn giữ tịnh Giới. Không kể phá Giới tội nặng sâu. Chỉ cần hồi tâm chuyên niệm Phật. Sỏi đá có thể hóa thành vàng”.
Bản nguyện niệm Phật là Vua trong các pháp
Thệ nguyện của đức Phật A Di Đà có Bốn mươi tám đại nguyện, nhưng chỉ có đại nguyện thứ mười tám là Bản nguyện vua. Bản nguyện vua này Chỉ nói về niệm Phật mà thôi. Đại nguyện mười tám nói: “Chúng sanh trong mười phương, cho đến chỉ niệm mười niệm. Nếu không được vãng sanh, thì Con không giữ ngôi Chánh giác”.
Bồ tát Thiên Thân giải thích trong Luận Vãng Sanh: “Quán năng lực Bản nguyện Phật ấy. Rộng như hư không chẳng sánh bằng. Năng khiến sớm thành tựu viên mãn. Công đức rộng sâu như biển báu”.
Bồ tát Long Thọ căn cứ ý nghĩa đại nguyện thứ mười tám và ý nghĩa bài kệ thành tựu, để nói lên ý kiến của mình trong Phẩm Dễ Tu: “Bản nguyện Phật A Di Đà, Ý nghĩa như dưới đây: Nếu người nào nhớ nghĩ đến Tôi. Xưng danh hiệu là tự quay về. Tức thì ngộ nhập vào Chánh định. Được chứng quả Vô thượng Bồ đề. Thế nên thường nhớ nghĩ xưng niệm”.
Chúng ta nên biết rằng, cho đến mười niệm chính là xưng danh hiệu là tự quay về. Thường nhớ nghĩ xưng niệm cũng chính là suốt đời niệm Phật cho đến niệm mười niệm hay chỉ một niệm. Người đến khi lâm chung mới gặp được pháp Niệm Phật, thì chỉ niệm mười niệm hay một niệm cũng được vãng sanh. Còn người có duyên sớm với pháp này, thì niệm Phật suốt đời.
Chánh hạnh niệm Phật
Lại nữa, Pháp Sự Tán ghi: “Bốn tám nguyện rộng có nhiều môn. Riêng nêu niệm Phật lắm thiết thân. Ai hay niệm Phật, Phật ghi nhớ. Ai chuyên tưởng Phật, Phật tri tường”.
Lại ghi: “Cõi Niết bàn Cực lạc vô vi. Tu theo Tạp thiện khó sanh về. Nên đức Như Lai chọn pháp chính. Dạy niệm Di Đà chuyên lại chuyên”.
Sớ Giải Kinh Quán Vô Lượng Thọ cũng nói: “Hướng về Bổn nguyện Phật Di Đà. Tâm ý chúng sanh cần hiểu rõ. Chỉ thuần nhất tinh chuyên xưng niệm. Danh hiệu đức Phật A Di Đà”.
Thế nên, người nguyện sanh về thế giới Cực lạc, chỉ nên Thuần nhất tinh chuyên xưng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà. Niệm Phật là Bản nguyện độc nhất vô nhị của đức Phật A Di Đà, là hạnh tối cao vô thượng. Đại sư Thiện Đạo gọi là Chánh định nghiệp, cũng chính là Vãng sanh đã định, Hiện đời đã thành tựu nhân vãng sanh.
Bản nguyện niệm Phật vãng sanh
Tại sao đức Phật A Di Đà lấy pháp xưng danh làm Bản nguyện mà không chọn các pháp tu khác làm Bản nguyện?
Về điểm này, trong Tuyển Trạch Tập, Thượng nhân pháp Nhiên đã giải rõ điểm chủ yếu ấy ngắn gọn như sau: “Xưa kia, Tỷ Kheo Pháp Tạng, với tâm Từ bi bình đẳng, muốn hóa độ hết thảy chúng sanh. Nên Ngài không chọn các pháp khác làm Bản nguyện, mà chỉ chọn một pháp duy nhất là xưng danh hiệu đức Phật làm Bản nguyện”.
Hiếu viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Xin thường niệm sáu chữ hồng danh Nam mô A Di Đà Phật viết
Nam Mô A Di Đà Phật.
Xin thường niệm sáu chữ hồng danh Nam mô A Di Đà Phật viết
Nhiều người niệm phật vài năm mà đã biết ngày giờ vãnh sanh có phải họ tình tấn niệm phật nên mới biết đúng không ạ? Nam Mô A Di Đà Phật
Tuệ Tâm viết
Nam mô A Di Đà Phật!
Chuyện niệm Phật biết trước ngày giờ là bình thường, nhiều người còn để lại Thoại Tướng bất khả tư nghì để rộng độ thân gia quyến thuộc. Họ đều nhờ nắm được yếu quyết: “Nguyện thiết với tin sâu trì danh hiệu Phật.” Chỉ cầu vãng sanh chớ chẳng cầu nhất tâm, chẳng cầu tam muội, chẳng cầu thần thông, cũng chẳng cầu đoạn vọng niệm nên được an nhiên tự tại như thế. Riêng về Tín và Nguyện, chỉ cần nắm chắc hai việc này thì một niệm cũng được vãng sanh.