Nếu bạn đang muốn tìm hiểu những điều cơ bản về đức Phật A Di Đà, lợi ích của niệm Phật và các kinh Nam mô A Di Đà Phật, thì bài viết này là dành cho bạn đấy!
- Cách niệm Phật tại nhà.
- Thiên Ma là loại ma gì.
- Hội Long Hoa là gì
- Kinh Niệm Phật Ba La Mật
- Niệm Phật A Di Đà được cảm ứng
- Chuyện Tâm linh có thật ở Việt Nam
- Chuyện Nhân quả báo ứng có thật

Kinh Nam mô A Di Đà Phật
Gồm các bộ Kinh mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên thuyết về Bản Nguyện của đức Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc của Ngài, bao gồm:
- Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ và Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Đây chính là Tịnh độ tam kinh, dành cho đa phần Phật tử.
- Kinh Niệm Phật Ba La Mật: Dành cho những phật tử chuyên sâu về Pháp môn niệm Phật.
Nôi dung chính của các kinh niệm Nam Mô A Di Đà Phật là: Mô tả về cõi Cực Lạc an vui. Khuyên người niệm Phật cầu vãng sanh, vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử luân hồi.
Kinh Nam mô A Di Đà Phật: 1. Đại Lược về niệm Phật
Niệm Phật đơn giản lắm, không có gì phải kiêng kỵ cả. Bất kể là lúc nào, khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi, thậm chí lúc tắm gội, khi đi vệ sinh đều niệm được. Nguyên tắc là: Bất kỳ lúc nào bạn nhớ ra thì niệm ngay. Chỉ nhớ lưu ý một số vấn đề sau:
- Niệm đủ 6 chữ Nam Mô A Di Đà Phật, không nên niệm 4 chữ.
- Khi chỉ có một mình mình thì bạn có thể niệm ra tiếng. Nơi đông người không tiện, bạn niệm thầm trong đầu, công đức đều như nhau.
- Khi đi vệ sinh hay tắm gội chỉ nên niệm thầm trong đầu.
- Khi bạn nằm ngủ chỉ lên niềm thầm trong đầu, không nên niệm ra tiếng. Do khi nằm niệm ra tiếng dễ bị đau họng, lại mắc lỗi không cung kính.
Kinh Nam mô A Di Đà Phật: 2. Niệm Phật là phương pháp dễ tu
Đức Phật A Di Đà có bản nguyện tiếp dẫn người niệm Phật về Cực Lạc. Không yêu cầu gì hết, chỉ cần bạn niệm danh hiệu của ngài thôi.
- Ai cũng niệm Phật được: Giàu nghèo, sang hèn, ngu si hay thông minh….không sao hết, cứ niệm thôi.
- Bạn chưa có thờ Phật ở nhà: Không sao hết, cứ niệm thôi.
- Bạn chưa Quy y: Không sao hết, cứ niệm thôi.
- Lâu nay bạn là người xấu: Không sao hết, cứ niệm thôi.
- Ăn mặn niệm được không: Không sao hết, cứ niệm thôi, ngoài kia khối người còn chẳng biết Phật là gì….
Kinh Nam mô A Di Đà Phật: 3. Lợi ích của danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật
Người Niệm Phật thì cuộc sống luôn bình an và nhiều may mắn. Luôn luôn được những lực vô hình bảo vệ.
- Người nghèo khổ mà được biết đến công đức niệm Phật. Chí tâm xưng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật thì được gặp quý nhân giúp đỡ, được cơm no áo ấm.
- Người bệnh mà được biết đến công đức niệm Phật. Xưng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật, thì gặp được thầy giỏi, thuốc hay. Nếu bệnh do nhân quả, nghiệp chướng thì thầy giỏi thuốc hay cũng vô hiệu. Chỉ có niệm Phật mới có kết quả. Niệm Phật thì nghiệp tiêu, nghiệp tiêu thì bệnh hết.
- Người thường xưng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật thì ma quỷ lánh xa, hóa giải oan hồn, độ thoát kẻ oán người thân
- Chí tâm xưng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật được công đức vô lượng vô biên. Người muốn cầu con cái hay cầu trường thọ, cầu hết bệnh hay tiêu tai giải nạn, cầu công danh hay nhà cửa bình an, cầu thăng quan tiến chức hay tiền bạc, thậm chí giải oan thích kết, tiến vong linh người thân đều có thể nương vào một pháp niệm Phật này mà không cần phải làm các tạp hạnh khác.
- Người chí tâm xưng danh hiệu Nam mô A Di Đà Phật thì quỷ thần không thể làm hại.
- Người niệm Phật được ánh hào quang của đức Phật A Di Đà nhiếp hộ. Thân có ánh sáng rực rỡ chiếu xa bốn mươi dặm, ma quỷ không thể đến gần.
Kinh Nam mô A Di Đà Phật: 4. 10 Lợi ích khi niệm Nam mô A Di Đà Phật
- Người niệm Phật được Đức Phật A Di Đà thường ở trên đỉnh đầu. Ngày đêm ủng hộ khiến cho oan gia không thể nhiễu loạn. Hiện đời được an ổn, lâm chung tự tại vãng sanh.
- Niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật: Công đức thù thắng hơn tất cả, tội chướng sâu nặng trong ba thời cũng chuyển biến thành nhẹ.
- Niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật. Hiện đời được vô lượng lợi ích, tiêu trừ tội chướng, cho đến định nghiệp cũng đều tiêu trừ.
- Niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật được Phạm thiên, Đế Thích đều quy kính, chư thiên và các thiện thần ngày đêm thường theo ủng hộ.
- Niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật được Tứ Đại thiên vương ngày đêm thường ủng hộ, ác quỷ trong bốn phương không dám đến gần.
- Niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật, Kiên Lao địa thần tôn kính, ngày đêm cùng theo ủng hộ.
- Niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật được Long vương và vô lượng long thần tôn kính.
- Niệm một câu Nam mô A Di Đà Phật, được vua Diêm-ma tôn kính, quỷ thần ủng hộ.
- Một người niệm Phật thì người trong gia đình, dù còn hay mất, đều được hưởng lợi. Ông bà tổ tiên, nhờ chiêu cảm công đức niệm Phật mà cũng được siêu thoát.
- Niệm Phật chí tâm lâu ngày sẽ chuyển họa thành phúc. Vận mạng thay đổi, thần thái cũng sáng đẹp hơn….
Bốn Mươi Tám Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà khi còn là Tỳ Kheo Pháp Tạng
1. Giả sử khi tôi thành Phật. Nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
2. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi sau khi mạng chung còn trở lại ba ác đạo thì tôi chẳng lấy ngôi chán giác.
3. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều thân màu vàng ròng thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
4. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi sắc thân chẳng đồng có kẻ xấu người đẹp thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
5. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi chẳng biết túc mạng, tối thiểu là biết sự việc trong trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
6. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thiên nhãn, tối thiểu là thấy trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
7. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thiên nhĩ, tối thiểu là nghe lời thuyết pháp của trăm ngàn ức na do tha chư Phật và chẳng thọ trì hết, thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
8. Giả sư khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được tha tâm trí, tối thiểu là biết tâm niệm của chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha cõi nước, thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
*
9. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi chẳng được thần túc, tối thiểu là khoảng một niệm qua đến trăm ngàn ức na do tha nước Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
10. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi nếu sanh lòng tưởng nghĩ tham chấp thân thể thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
11. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn ở nước tôi, chẳng an trụ định tụ quyết đến diệt độ thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
12. Giả sử khi tôi thành Phật. Quang minh có hạn lượng, tối thiểu chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
13. Giả sử khi tôi thành Phật. Thọ mạng có hạn lượng, tối thiểu là trăm ngàn ức na do tha kiếp thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
14. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng Thanh Văn trong nước tôi mà có người tính đếm được, nhẫn đến chúng sanh trong cõi Ðại Thiên đều thành bực Duyên Giác cùng nhau chung tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà biết được số lượng ấy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
15. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi thọ mạng không ai hạn lượng được, trừ họ có bổn nguyện dài ngắn tự tại. Nếu chẳng như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
16. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi mà còn nghe danh từ bất thiện thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
*
17. Giả sử khi tôi thành Phật. Mười phương vô lượng chư Phật chẳng đều ngợi khen xưng tụng danh hiệu của tôi thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
18. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng sanh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sanh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
19. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng sanh ở mười phương phát tâm Bồ đề tâm, tu các công đức chí tâm phát nguyện muốn sanh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước mặt họ. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
20. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sanh về nước tôi mà chẳng được toại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
21. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi chẳng đều đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
*
22. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng Bồ Tát ở cõi nước khác sanh về nước tôi rốt ráo tất cả đến bực nhứt sanh bổ xứ. Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà mặc giáp hoằng thệ chứa công đức độ tất cả, đi qua các nước Phật tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật mười phương, khai hóa hằng sa vô lượng chúng sanh khiến họ đứng nơi đạo chánh chơn vô thượng, vượt hơn công hạnh của hạng tầm thường, hiện tiền tu công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
23. Giả sử khi tôi thành Phật. Bồ Tát trong nước tôi thừa thần lực Phật đi cúng dường chư Phật, khoảng bữa ăn nếu không đến khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
24. Giả sử khi tôi thành Phật. Bồ Tát trong nước tôi ở trước chư Phật hiện công đức mình, nếu những thứ dùng để cúng dường không có đủ theo ý muốn thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
25. Giả sử khi tôi thành Phật. Bồ Tát trong nước tôi chẳng thể diễn nói nhứt thiết trí thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
26. Giả sử khi tôi thành Phật. Bồ Tát trong nước tôi chẳng được thân Kim Cương Na la diên thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
*
27. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn và tất cả vạn vật trong nước tôi trang nghiêm thanh tịnh sáng rỡ hình sắc đặc biệt lạ lùng vi tột diệu không ai lường biết được, dầu là có thiên nhãn mà biện biệt được danh số ấy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
28. Giả sử khi tôi thành Phật. Bồ Tát trong nước tôi, nhẫn đến người công đức ít nhứt mà chẳng thấy biết đạo tràng thọ màu sáng vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
29. Giả sử khi tôi thành Phật. Bồ Tát trong nước tôi nếu đọc tụng thọ trì diễn thuyết kinh pháp mà chẳng được trí huệ biện tài thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
30. Giả sử khi tôi thành Phật. Trí huệ biện tài của Bồ tát trong nước tôi mà có hạn lượng thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
31. Giả sử khi tôi thành Phật. Nước tôi thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới chư Phật mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
*
32. Giả sử khi tôi thành Phật. Từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật trong nước tôi đều dùng vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ hương hiệp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng thiên nhơn. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới mười phương. Bồ Tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
33. Giả sử khi tôi thành Phật. Những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương, được quang minh tôi chiếu đến thân, thân họ nhu nhuyến hơn hẳn hàng thiên nhơn. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
34. Giả sử khi tôi thành Phật. Những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi mà chẳng được Bồ Tát vô sanh pháp nhẫn các thâm tổng trì thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
35. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng nữ nhơn của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi vui mừng tin ưa phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân người nữ, nếu sau khi chết mà họ còn sanh thân người nữ lại thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
*
36. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghì thế giới mười phương thế giới nghe danh hiệu tôi sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật đạo. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
37. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn trong vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi rồi năm vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy vui mừng tin ưa tu hạnh Bồ Tát thì được chư Thiên và người đời đều kính trọng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
38. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi muốn được y phục liền tùy nguyện hiện đến, y phục đẹp đúng pháp như Phật khen ngợ tự nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
39. Giả sử khi tôi thành Phật. Hàng thiên nhơn nước tôi hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực lậu tận Tỳ Kheo thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
40. Giả sử khi tôi thành Phật. Bồ Tát nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười phương thì liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những cây báu, như thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
*
41. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó đến lúc thành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
42. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được thanh tịnh giải thoát tam muội, khoảng một lúc phát ý, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà không mất tâm chánh định. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
43. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, sau lúc thọ chung sanh nhà tôn quý. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
44. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở tu hạnh Bồ Tát đầy đủ cội công đức. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
45. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được phổ đẳng tam muội, an trụ trong tam muội nầy đến lúc thành Phật thường thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
*
46. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng Bồ Tát ở trong nước tôi tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghe pháp liền tự nhiên được nghe. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
47. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đến bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
48. Giả sử khi tôi thành Phật. Chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đệ nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
( Kinh Nam mô A Di Đà Phật )
Tuệ Tâm 2019.
Diệp Anh viết
Nam mô A Di Đà Phật! Bài viết rất hữu ích với người sơ cơ.